✨I-19 (tàu ngầm Nhật)

I-19 (tàu ngầm Nhật)

I-19 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham gia cuộc tấn công Trân Châu Cảng, rồi tuần tra dọc bờ biển phía Tây Hoa Kỳ và hoạt động trong các quần đảo Aleut và Guadalcanal, với thành tích đã đánh chìm tàu sân bay và tàu khu trục cũng như gây hư hại cho thiết giáp hạm . I-19 bị tàu khu trục thả mìn sâu đánh chìm gần đảo Makin vào ngày 25 tháng 11, 1943.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được đổi tên thành I-19 đồng thời được hạ thủy vào ngày 16 tháng 9, 1939, Cùng vào ngày này, I-19 đảm nhiệm vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 2 và gia nhập Lực lượng Viễn chinh Tiền phương của Đệ Lục hạm đội. I-23 sẽ tuần tra phía Nam Hawaii để trinh sát thời tiết và phục vụ tìm kiếm và giải cứu nếu những thủy phi cơ buộc phải hạ cánh khẩn cấp; trong khi đó I-9 vốn chưa quay về Kwajalein sẽ phục vụ như cột mốc vô tuyến giữa Wotje và đá Frigate Pháp, trợ giúp dẫn đường các máy bay trong chặng đầu tiên của hành trình. I-19 đi đến Kwajalein vào ngày 5 tháng 2, nơi nó cùng I-15I-26 để lại các thủy phi cơ Yokosuka E14Y1 của chúng trên bờ, lấy chỗ lắp đặt sáu thùng chứa xăng máy bay để tiếp nhiên liệu cho những chiếc Kawanishi H8K.

I-19 xuất phát từ Kwajalein vào ngày 20 tháng 2 để đánh chặn Lực lượng Đặc nhiệm 11 Hoa Kỳ, vốn được hình thành chung quanh tàu sân bay và đang có kế hoạch không kích căn cứ Rabaul; tuy nhiên kế hoạch bị hủy bỏ khi lực lượng bị máy bay trinh sát Nhật Bản phát hiện. I-19 đã không tìm thấy Lực lượng Đặc nhiệm 11, nên đến ngày 2 tháng 3 đã đi sang bãi cạn Frigate Pháp để tiến hành Chiến dịch K-1. Nó cùng I-15 đi đến nơi vào ngày 4 tháng 3, và trong khi I-26 làm nhiệm vụ canh phòng, nó cùng I-15 tiếp nhiên liệu cho hai thủy phi cơ H8K bay đến vào lúc chiều tối. Hai chiếc máy bay tiếp tục hành trình đến Hawaii, và vào sáng sớm ngày 5 tháng 3, chúng đã ném tám quả bom xuống Honolulu trước khi quay trở lại quần đảo Marshall; cuộc không kích chỉ gây hư hại nhẹ và không có tổn thất nhân mạng. I-15, I-19I-26 sau đó quay trở về Nhật Bản, đi đến Yokosuka vào ngày 21 tháng 3, và I-19 bắt đầu được đại tu.

Chiến dịch quần đảo Aleut

Vào ngày 15 tháng 5, I-19 khởi hành từ Yokosuka để cùng I-17 đi đến căn cứ hải quân Ōminato ở phía cực Bắc đảo Honshū, đến nơi hai ngày sau đó. Nó lên đường vào ngày 19 tháng 5 hướng sang khu vực quần đảo Aleut, và lúc đang trên đường đi vào ngày hôm sau, nó được điều sang Lực lượng phương Bắc. Chiếc tàu ngầm đã tiến hành trinh sát vịnh Nikolski và làng Nikolski tại đảo Umnak trong ngày 26 tháng 5 để tìm kiếm căn cứ quân sự tại đây, rồi đến chiều tối đã đi đến phía Bắc đảo Bogoslof để chuẩn bị phóng chiếc thủy phi cơ trinh sát. Tuy nhiên một tàu khu trục Hoa Kỳ bất ngờ xuất hiện, nên I-19 buộc phải lặn khẩn cấp, và chiếc E14Y1 bị hư hại đến mức không thể sửa chữa.

Trong các ngày 29 và 30 tháng 5, I-19 trinh sát qua kính tiềm vọng Dutch Harbor, rồi lên đường đi sang khu vực Unalaska-Umnak. Nó tiếp tục trinh sát vịnh Makushin tại bờ biển phía Tây Unalaska vào ngày 18 tháng 6, và Otter Point tại đảo Umnak vào ngày hôm sau, nơi nó xác định có sự hiện diện của lực lượng đối phương. Đến ngày 29 tháng 6, I-19 được điều trở lại Lực lượng Tiền phương và rời khu vực tuần tra để quay trở về Nhật Bản, về đến Yokosuka vào ngày 7 tháng 7.

Chiến dịch Guadalcanal

Chiến dịch Guadalcanal bắt đầu vào ngày 7 tháng 8, khi lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi, đảo Florida, Gavutu và Tanambogo ở phía Đông Nam quần đảo Solomon. Để đối phó, một lực lượng hải quân Nhật Bản được tập trung tại căn cứ Truk thuộc quần đảo Caroline từ ngày 23 tháng 8 với nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng hải quân đối phương và chiếm lại Guadalcanal. I-19 được lệnh tuần tra trong khu vực, và ở vị trí về phía Đông Nam Guadalcanal vào ngày 26 tháng 8, nó phát hiện một lực lượng bao gồm tàu sân bay , thiết giáp hạm, tàu tuần dương và nhiều tàu khu trục đang hướng lên phía Bắc, nhưng I-19 đã không thể đi đến vị trí tấn công. Hai ngày sau đó, thủy phi cơ Yokosuka E14Y1 của I-19 đã trinh sát vịnh Graciosa tại đảo Ndeni thuộc quần đảo Solomon, phát hiện một tàu khu trục và sáu thủy phi cơ đối phương. Đến 18 giờ 15 phút ngày 31 tháng 8, nó bắn phá vịnh Graciosa trong khoảng mười phút.

Đánh chìm USS Wasp và USS O'Brien

thumb|left| bốc cháy sau khi trúng ngư lôi của I-19 thumb|left| trúng ngư lôi của I-19 Vào ngày 15 tháng 9, một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ, bao gồm các tàu sân bay USS Wasp, và thiết giáp hạm , hộ tống một đoàn sáu tàu vận tải vận chuyển Trung đoàn 7 Thủy quân Lục chiến từ Espiritu Santo đến tăng viện cho Guadalcanal. Ở vị trí về phía Đông Nam Guadalcanal, I-19 nghe thấy âm thanh của đoàn tàu đối phương lúc 05 giờ 50 phút, rồi đến 10 giờ 50 đã nhìn thấy một tàu sân bay, một tàu tuần dương hạng nặng và nhiều tàu khu trục, chính là Lực lượng Đặc nhiệm 18 dưới quyền Chuẩn đô đốc Leigh Noyes.

Lúc 11 giờ 45 phút, I-19 phóng một loạt sáu quả ngư lôi Type 95 tấn công bên mạn phải chiếc tàu sân bay từ khoảng cách , ba quả ngư lôi đã trúng đích Wasp khiến chiếc tàu sân bay bốc cháy. Một quả ngư lôi đánh trúng North Carolina bên mạn trái phía mũi tàu bên dưới đai giáp, khiến chiếc thiết giáp hạm ngập nước và nghiêng 5 độ; nhưng thủy thủ đoàn đã nhanh chóng cho ngập đối xứng để cân bằng tàu, và nó tiếp tục di chuyển được ở tốc độ . Một quả ngư lôi khác đánh trúng bên mạn trái, khiến chiếc tàu khu trục hư hại nặng và đắm sau đó. Quả ngư lôi cuối cùng cũng suýt trúng tàu sân bay Hornet. Đến khoảng trưa, hầm chứa xăng máy bay của Wasp nổ tung khiến mọi nỗ lực dập lửa trở nên vô vọng, và Đại tá Hải quân hạm trưởng Forrest P. Sherman ra lệnh bỏ tàu. Năm quả ngư lôi phóng từ tàu khu trục đã đánh chìm Wasp tại tọa độ ; chiếc tàu sân bay bị tổn thất 193 người tử trận và 367 người bị thương.

I-19 lặn xuống đến độ sâu để né tránh phản công, trong khi các tàu khu trục Hoa Kỳ vây quanh và thả khoảng 30 quả mìn sâu. Chiếc tàu ngầm may mắn không bị hư hại. I-19 rời khu vực tuần tra vào ngày 20 tháng 9 để quay trở về Truk, đến nơi vào ngày 25 tháng 9. Loạt sáu quả ngư lôi do I-19 phóng ra trở thành loạt ngư lôi thành công nhất trong Thế Chiến II, khi đánh chìm được một tàu sân bay và một tàu khu trục, cùng gây hư hại cho một thiết giáp hạm.

Chuyến tuần tra thứ năm

I-19 khởi hành từ Truk vào ngày 5 tháng 10 để thực hiện chuyến tuần tra thứ năm, mang theo chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y1 cho hoạt động trinh sát tại khu vực New Caledonia. Trong ngày 19 tháng 10, chiếc E14Y1 đã thực hiện chuyến bay trinh sát bên trên Noumea; tuy nhiên vào lúc thu hồi, chiếc thủy phi cơ bị hư hại đến mức không thể sửa chữa. Nó tiếp tục hoạt động tại khu vực cho đến ngày 12 tháng 11.

Chiến dịch Guadalcanal

Vào ngày 16 tháng 11, theo chỉ thị của Đô đốc Yamamoto Isoroku, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp, Phó đô đốc Teruhisa Komatsu, Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, chỉ thị cho lực lượng tàu ngầm dưới quyền đảm trách việc vận chuyển tiếp liệu cho Tập đoàn quân 17 đang chiến đấu tại Guadalcanal. Vì vậy I-19 đã khởi hành từ quần đảo Shortland vào ngày 22 tháng 11 để cùng I-17 thực hiện chuyến đi vận chuyển tiếp liệu đầu tiên. Nó đi đến ngoài khơi vịnh Kamimbo, Guadalcanal vào ngày 24 tháng 11 và bắt đầu cho chất dỡ hàng tiếp liệu, nhưng công việc bị hủy bỏ không lâu sau đó do một đợt không kích của đối phương. Con tàu về đến Shortland vào ngày 27 tháng 11, rồi tiếp tục hành trình và đi đến Truk vào ngày 30 tháng 11.

I-19 lại khởi hành từ Truk vào ngày 22 tháng 12 cho một chuyến đi tiếp liệu khác đến Guadalcanal, lần này hàng hóa được chất vào các thùng chứa cao su để được thả từ dưới nước. Nó đi đến Shortland vào ngày 25 tháng 12, rồi khởi hành vào ngày hôm sau và đi đến ngoài khơi vịnh Kimambo vào chiều tối ngày 30 tháng 12 với 25 tấn hàng tiếp liệu. Sau khi chất dỡ thành công, chiếc tàu ngầm quay về đến Shortland vào ngày 1 tháng 1, 1943. Nó xuất phát từ Shortland ngay ngày hôm sau cho chuyến đi tiếp liệu thứ ba đến Guadalcanal, chuyển giao 15 tấn hàng hóa vào ngày 4 và về đến Shortland vào ngày 6 tháng 1. Chuyến tiếp liệu thứ tư đến Guadalcanal diễn ra từ ngày 7 đến ngày 11 tháng 1, và chuyển giao được 12 tấn hàng hóa. Sau đó I-19 rời Shortland vào ngày 13 tháng 1, và về đến Truk vào ngày 16 tháng 1.

1943

I-19 khởi hành từ Truk vào ngày 18 tháng 1, 1943 để quay trở về Nhật Bản, đi đến Yokosuka vào ngày 24 tháng 1. Đang khi I-19 được đại tu, Chiến dịch Guadalcanal kết thúc khi lực lượng Nhật Bản còn lại trên đảo được triệt thoái toàn bộ trong Chiến dịch Ke, hoàn tất vào ngày 9 tháng 2.

Chuyến tuần tra thứ sáu

Vào ngày 24 tháng 3, I-19 khởi hành từ Yokosuka để đi sang Truk, đến nơi vào ngày 30 tháng 3. Nó xuất phát từ Truk vào ngày 4 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ sáu để đánh phá tuyến hàng hải đối phương tại khu vực New Hebrides và Fiji. Lúc chiều tối ngày 29 tháng 4, ở vị trí về phía Đông Efate, New Hebrides, nó phóng hai quả ngư lôi tấn công chiếc tàu Liberty Peter Silvester (7.176 tấn) đang trên đường từ Espiritu Santo đến San Francisco, tại tọa độ ; tuy nhiên các quả ngư lôi đã đi bên dưới con tàu và kích nổ mà không gây hư hại. Sang ngày hôm sau 30 tháng 4, ở vị trí về phía Đông Nam Suva, Fiji, nó truy đuổi chiếc tàu Liberty Phoebe A. Hearst (7.176 tấn) trong hơn ba giờ trước khi phóng ngư lôi đánh chìm đối thủ tại tọa độ .

Ngoài khơi Fiji vào ngày 2 tháng 5, nó phóng ngư lôi và gây hư hại chiếc tàu buôn Hoa Kỳ William Williams (7.181 tấn). Quả ngư lôi đánh trúng đã làm thủng một lổ bên mạn trái, và thủy thủ của William Williams đã bỏ tàu. Nhưng sau khi I-19 bỏ đi, họ quay trở lại tàu và đưa chiếc tàu buôn đến được Suva, Fiji. Đến ngày 16 tháng 5, ngoài khơi Suva, Fiji, I-19 tiếp tục đánh chìm tàu buôn Hoa Kỳ William K. Vanderbilt (7.181 tấn) đang trên đường từ Vila Elate đến Suva; một thủy thủ đã thiệt mạng. Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Truk vào ngày 6 tháng 6.

Chuyến tuần tra thứ bảy

I-19 khởi hành từ Truk cho chuyến tuần tra thứ bảy vào ngày 4 tháng 7 với nhiệm vụ trinh sát khu vực New Hebrides và Fiji, đồng thời đánh phá tuyến hàng hải đối phương tại đây. Tại Espiritu Santo vào ngày 15 tháng 7, nó trinh sát cảng Luganville qua kính tiềm vọng, phát hiện một tàu sân bay và hai tàu tuần dương hạng nặng tại đây. Tại Fiji năm ngày sau đó, nó tiếp tục trinh sát qua kính tiềm vọng các vịnh Nandi và Lauthala, phát hiện nhiều tàu sân bay và thiết giáp hạm tại đây. Đến ngày 11 tháng 8, nó quay trở lại đảo Viti Levu, Fiji một lần nữa để trinh sát vịnh Lauthala. Ngoài khơi Fiji vào ngày 11 tháng 8, I-19 phóng ngư lôi tấn công cho tàu Liberty Hoa Kỳ M. H. de Young (7.176 tấn) đang vận chuyển xe tải và thiết bị nặng đến Espiritu Santo. Một quả ngư lôi đánh trúng phòng động cơ chiếc tàu, nhưng nó tiếp tục nổi được và sau đó được kéo đến Nukuʻalofa, Tongatabu. I-19 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Truk vào ngày 9 tháng 9.

Chuyến tuần tra thứ tám

Vào ngày 17 tháng 10, I-19 khởi hành từ Truk cho chuyến tuần tra thứ tám tại khu vực đảo Wake, với nhiệm vụ đánh chặn một lực lượng đặc nhiệm đối phương được cho là ở tại khu vực này. Tuy nhiên nó nhanh chóng đổi hướng đến Kwajalein để nhận lên tàu chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y1 cho nhiệm vụ trinh sát Trân Châu Cảng. Nó xuất phát từ Kwajalein vào ngày 23 tháng 10, và đến ngày 17 tháng 11, chiếc thủy phi cơ đã tiến hành trinh sát Trân Châu Cảng, phát hiện một thiết giáp hạm và một tàu sân bay tại đây. Trong khi đang thu hồi chiếc E14Y1, máy bay tuần tra đối phương xuất hiện, nên I-19 buộc phải đánh đắm chiếc thủy phi cơ và lặn xuống để khỏi lộ tung tích. Nó báo cáo kết quả trinh sát về căn cứ vào ngày 18 tháng 11, rồi đến 18 giờ 02 phút ngày hôm sau 19 tháng 11 lại gửi một báo cáo tình huống thường lệ, đó là lần cuối cùng I-19 liên lạc về căn cứ.

Bị mất

Vào ngày 25 tháng 11, ở vị trí về phía Tây đảo Makin, tàu khu trục phát hiện qua radar I-19 đang di chuyển trên mặt nước ở khoảng cách lúc 20 giờ 49 phút. Khi Radford tiếp cận I-19, mục tiêu biến mất khỏi màn hình radar lúc 21 giờ 30 phút, rồi dò được tín hiệu sonar của đối thủ mười phút sau đó. Radford đã thả bảy lượt mìn sâu tấn công, đánh chìm tàu ngầm đối phương tại tọa độ .

Vào ngày 2 tháng 2, 1944, Hải quân Nhật Bản công bố I-19 có thể đã bị mất tại khu vực quần đảo Gilbert với tổn thất toàn bộ 105 thành viên thủy thủ đoàn. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 1 tháng 4, 1944.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-367_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-68_**, sau đổi tên thành **_I-168_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-52_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-373_** là một tàu ngầm vận tải được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc duy nhất thuộc lớp Type D2 được
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-20_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-182_** (nguyên mang tên **_I-82_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-37_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực hiện
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-23_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-27_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-42_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó chỉ kịp thực
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-17_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-1_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm tuần dương
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-22_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**_I-370_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-32_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-368_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-16_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc dẫn đầu của lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế
**_I-55_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-54_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động