✨I-35 (tàu ngầm Nhật)

I-35 (tàu ngầm Nhật)

I-35 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã từng hoạt động tiếp liệu và triệt thoái lực lượng trong khuôn khổ Chiến dịch quần đảo Aleut, trước khi được điều tham gia phản công trong Chiến dịch quần đảo Gilbert. I-35 bị các tàu khu trục Hoa Kỳ và đánh chìm gần Tarawa vào ngày 23 tháng 11, 1943.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được đổi tên thành I-45 đồng thời được hạ thủy vào ngày 24 tháng 9, 1940, đồng thời đảm nhiệm vai trò soái hạm của Chuẩn đô đốc Tadashige Daigo, Tư lệnh Hải đội Tàu ngầm Kure, cho đến ngày 4 tháng 9, khi nó được chiếc I-34 thay phiên. Sau một giai đoạn thực hành huấn luyện, đến ngày 15 tháng 11, I-35 cùng với I-34 được điều động trực thuộc Đệ Ngũ hạm đội, rồi khởi hành từ Kure vào ngày 28 tháng 11 và đi đến căn cứ Ōminato ở phía Bắc Honshū ba ngày sau đó.

Chiến dịch quần đảo Aleut

I-35 cùng với I-34 khởi hành từ Ōminato vào ngày 2 tháng 12 cho một chuyến đi vận chuyển hàng tiếp liệu cho lực lượng Nhật Bản đồn trú trên đảo Kiska, thuộc quần đảo Aleut. Sau khi đến nơi và chất dỡ hàng tiếp liệu vào ngày 8 tháng 12, nó hoạt động tuần tra tại khu vực Bắc Thái Bình Dương ở vị trí khoảng về phía Nam đảo Amukta. I-35 kết thúc chuyến tuần tra vào ngày 14 tháng 12, và quay trở về căn cứ Paramushiro thuộc quần đảo Kuril vào ngày 20 tháng 12. Nó rời Paramushiro vào ngày 25 tháng 12 cho một chuyến đi tiếp liệu khác đến Kiska, đến nơi và chất dỡ hàng tiếp liệu vào ngày 31 tháng 12, rồi tiếp tục tuần tra trong biển Bering về phía Bắc đảo Adak.

1943

Đến ngày 7 tháng 1, 1943, I-35 được lệnh đi đến khu vực về phía Đông Bắc đảo Attu để truy tìm các tàu tuần dương Hoa Kỳ được nhìn thấy trong khu vực. Không tìm thấy tàu chiến đối phương, nó quay trở lại tuần tra tại khu vực phía Nam Kiska từ ngày 10 tháng 1, ghé đến Kiska trong các ngày 17 và 18 tháng 1, rồi tiếp tục tuần tra về phía Nam Kiska và Amchitka. Vào ngày 23 tháng 1, lúc đang trên đường vận chuyển tiếp liệu đến Kiska, tàu tuần dương hạng nhẹ Kiso và tàu khu trục Wakaba trông thấy một mục tiêu mà họ cho là một tàu ngầm Hoa Kỳ, nên lo sợ nhiệm vụ của họ đã bị đối phương phát hiện, nên hủy bỏ chuyến đi và quay trở lại căn cứ. Mục tiêu mà họ trông thấy có thể chỉ là I-35. Chiếc tàu ngầm chuyển sang tuần tra khu vực phía Bắc Amchitka vào ngày 30 tháng 1, rồi đến ngày 14 tháng 2 lại ghé đến Kiska để đưa một sĩ quan tham mưu Lực lượng Phòng vệ phía Bắc đến Attu. Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Nhật Bản.

Vào ngày 27 tháng 3, I-35 khởi hành từ Yokosuka để quay trở lại khu vực Bắc Thái Bình Dương, đi đến Paramushiro vào ngày 1 tháng 4, nơi nó được điều sang Đội tàu ngầm 15. Nó rời Paramushiro vào ngày 3 tháng 4 cho chuyến đi tiếp liệu thứ ba đồng thời vận chuyển các sĩ quan tham mưu Lực lượng Căn cứ 51 đến Kiska, đến nơi vào ngày 8 tháng 4. Sau khi chất dỡ hàng hóa, nó lên đường ngay trong ngày cho chặng quay trở về, về đến Paramushiro vào ngày 13 tháng 4. Chiếc tàu ngầm rời Paramushiro vào ngày 16 tháng 4 cho một chuyến đi tiếp liệu khác, lần này đi đến đảo Attu, nơi nó chuyển giao tiếp liệu, đạn dược và nhiều sĩ quan Lục quân vào ngày 20 tháng 4; nó về đến Paramushiro vào ngày 24 tháng 4. Chuyến đi tiếp liệu thứ tư đến Kiska diễn ra từ ngày 27 tháng 4 đến ngày 5 tháng 5.

Khi phía Đồng Minh tiến hành Chiến dịch Landcrap nhằm tái chiếm Attu, I-35 lên đường vào ngày 11 tháng 5 để tuần tra ngoài khơi Attu. Vào ngày 13 tháng 5, tàu khu trục Hoa Kỳ , vốn đang hộ tống cho thiết giáp hạm , đã tấn công với hai lượt mìn sâu vào một mục tiêu dò được qua sonar, có thể là I-34 hoặc I-35, tuy nhiên không có tàu ngầm nào bị mất trong sự cố này.

Đến sáng ngày 15 tháng 5, trong hoàn cảnh thời tiết sương mù, I-35 phát hiện Pennsylvania đang canh phòng trong khi tàu vận tải tấn công đang chất dỡ hàng hóa ngoài khơi khơi vịnh Holtz, Attu. I-35 phóng ngư lôi tấn công một mục tiêu mà nó cho là một tàu tuần dương hạng nhẹ, và nghe thấy hai tiếng nổ. Lúc 11 giờ 40 phút, bốn quả ngư lôi đã sượt qua phía đuôi Pennsylvania và bên cạnh J. Franklin Bell. Hai tàu khu trục đã phản công, thả 58 quả mìn sâu và gây hư hại đáng kể cho chiếc tàu ngầm. Nó ghé đến Paramushiro từ ngày 19 đến ngày 27 tháng 5, rồi lên đường quay trở về Kure, đến nơi vào ngày 2 tháng 6. Chiếc tàu ngầm tiếp tục đi đến Kobe vào ngày 17 tháng 6 để sửa chữa.

Chiến dịch quần đảo Gilbert

Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, I-35 khởi hành từ Kure vào giữa tháng 9 và đi đến căn cứ Truk tại quần đảo Caroline vào ngày 18 tháng 9. Nó khởi hành từ Truk vào ngày 11 tháng 10 cho một chuyến tuần tra tại khu vực đảo Wake và quần đảo Hawaii, và lúc đang trên đường đi nó được điều về Nhóm tàu ngầm "A" vào ngày 16 tháng 10. Lúc 00 giờ 32 phút ngày 17 tháng 10, tàu ngầm Hoa Kỳ , vốn đang trong hành trình từ Trân Châu Cảng, Hawaii để trinh sát đảo Makin thuộc quần đảo Gilbert, phát hiện tháp chỉ huy một tàu ngầm mà hạm trưởng Nautilus cho là một tàu ngầm Hoa Kỳ thế hệ mới. Chỉ sau này người ta mới khám phá Nautilus đã bắt gặp một tàu ngầm Nhật Bản rất có thể là I-35.

Sau khi tuần tra gần đảo Wake, I-35 được lệnh di chuyển đến khu vực quần đảo Hawaii vào ngày 23 tháng 10. Chiếc tàu ngầm đang ở vị trí về phía Tây Nam Hawaii, hoặc tuần tra gần đảo Canton thuộc quần đảo Phoenix vào ngày 19 tháng 11, khi Nhóm tàu ngầm "A" được tái lập, và I-35 được lệnh đi đến Tarawa thuộc quần đảo Gilbert cùng với các tàu ngầm I-19 vốn đang hoạt động gần Fiji; I-39I-175 đang ở Truk; và I-169 đang hoạt động gần quần đảo Marshall. Vào ngày 20 tháng 11, Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall bắt đầu khi lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên Tarawa và Makin tại quần đảo Gilbert. I-35 là tàu ngầm Nhật Bản đầu tiên đi đến khu vực phụ cận Gilbert, và vào ngày 21 tháng 11 nó báo cáo phát hiện một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ, có thể là Đội đặc nhiệm 53.6 vốn bao gồm các tàu sân bay hộ tống , và , cùng các tàu khu trục bảo vệ, tại vị trí về phía Tây Nam Tarawa. Sau đó I-35 mất liên lạc với căn cứ, nên Hải quân Nhật Bản cho rằng I-35 đã bị mất tích từ ngày này.

Bị mất

Thực ra I-35 vẫn tiếp tục hoạt động; ở phía Tây Tarawa vào ngày 23 tháng 11, chiếc tàu ngầm buộc phải lặn khẩn cấp để ẩn nấp sau khi bị một máy bay ném bom tấn công. Nó thoát được và tiếp tục hướng sang phía Đông. Đến trưa ngày hôm đó, nó hoạt động ngầm gần bờ biển phía Tây Betio ở độ sâu , và được cho là đang tìm cách xâm nhập vũng biển Tarawa, nhưng cũng có thể hạm trưởng của I-35 sẽ tấn công tàu bè đối phương tập trung gần lối ra vào vũng biển. Lúc 12 giờ 00, tàu khu trục dò được âm thanh chân vịt một tàu ngầm ở vị trí phía Tây Betio, nhưng nó mất dấu mục tiêu trước khi kịp tấn công. Đến 15 giờ 00, tàu khu trục cũng dò được âm thanh tương tự, và đã tung ra ba lượt tấn công bằng mìn sâu cách nhau 30 phút trước khi mất dấu mục tiêu.

Meade yêu cầu được trợ giúp, nên tàu khu trục , hoạt động trong thành phần hộ tống cho thiết giáp hạm ngoài khơi Betio được phái đến nơi. Sau khi gia nhập cùng Meade, Frazier bắt được tín hiệu sonar của I-35 lúc 17 giờ 00 ở khoảng cách , nên tung ra đợt tấn công bằng mìn sâu. Nó mất tín hiệu mục tiêu ở khoảng cách , nhưng tiếp tục tung ra đợt tấn công bằng mìn sâu thứ hai, cả hai đều được cài đặt ở độ sâu trung bình. Đến 17 giờ 20 phút, cả hai chiếc tàu khu trục cùng phát hiện I-35 ở khoảng cách , và không lâu sau đó Frazier phát hiện vệt dầu trên mặt biển. Meade tung ra đợt tấn công bằng mìn sâu cuối cùng lúc 17 giờ 38 phút, được cài đặt để kích nổ sâu.

Đợt tấn công cuối cùng đã gây hư hại đáng kể cho I-35, khiến con tàu mất ánh sáng, hỏng các thiết bị, thủng thùng chứa nhiên liệu và ngập nước. Khi dầu diesel và nước biển tràn vào bên trong tàu, nó buộc phải trồi lên mặt biển và đối đầu các tàu đối phương bằng hải pháo. I-35 trồi lên mặt nước ở vị trí khoảng ngay giữa MeadeFrazier, cách mỗi chiếc khoảng , và hai chiếc tàu khu trục bắt đầu khai hỏa vào mục tiêu bằng tất cả các cỡ pháo. Một số thủy thủ của I-35 tìm cách vận hành khẩu hải pháo 14-cm trên boong tàu, nhưng tất cả đã thiệt mạng hay bị thương.

Sau đó Frazier đổi hướng và tăng tốc để húc chiếc tàu ngầm; với tốc độ nó húc trúng I-35 bên mạn trái phía sau tháp chỉ huy lúc 17 giờ 51 phút, khiến tàu ngầm đối phương bị vỡ lườn tàu áp lực. Khi Frazier lùi lại, mũi tàu của I-35 nhô lên trên không rồi đắm ở vị trí cách về phía Tây Betio, tại tọa độ ; 92 thành viên thủy thủ đoàn đã tử trận cùng con tàu. Lúc đó, một máy bay tuần tra chống tàu ngầm hải quân đến nơi và ném mìn sâu cách I-35 . Đến 18 giờ 00, hai chiếc tàu khu trục nghe thấy một tiếng nổ lớn ngầm dưới nước, xác nhận cuối cùng I-35 đã bị phá hủy.

Phát hiện bốn thủy thủ của I-35 còn sống sót trên mặt nước, mỗi chiếc tàu khu trục đã thả một xuồng để cứu vớt họ. Một thủy thủ Nhật đã bắn vào chiếc xuồng đang tiếp cận, nên bị tiêu diệt, và ba người còn lại được vớt, tất cả đều bị thương. Đúng lúc đó, một máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless xuất phát từ tàu sân bay Suwannee đến nơi, tưởng nhầm xuồng của Meade là một tàu ngầm Nhật nên đã ném một quả bom . Vụ nổ đã nhấc bổng chiếc xuồng và gây hư hại nặng, nhưng may mắn không gây tổn thương gì đáng kể cho thủy thủ cùng một tù binh Nhật trên xuồng. Không chắc chắn về lai lịch kẻ tấn công, Meade nả pháo phòng không vào chiếc máy bay ném bom khiến nó bị hư hại, nhưng quay trở lại Suwannee an toàn.

Do vị trí địa lý của quần đảo Gilbert gần bên đường đổi ngày quốc tế, một số nguồn nêu sự kiện ngày 23 tháng 11 khi I-35 bị đánh chìm trở thành ngày 22 tháng 11, là ngày bên kia đường đổi ngày quốc tế, cách đó không xa về phía Tây. Frazier bị hư hại mũi tàu đáng kể sau khi húc trúng I-35, nên hai ngày sau khi đánh chìm I-35, nó rời khu vực quần đảo Gilbert để được sửa chữa tại Trân Châu Cảng.

Đến ngày 10 tháng 1, 1944, không biết rằng ba thành viên thủy thủ đoàn đã bị bắt làm tù binh chiến tranh, Hải quân Nhật Bản công bố I-35 có thể đã bị mất tại khu vực quần đảo Gilbert với tổn thất toàn bộ thủy thủ đoàn. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 4, 1944.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-20_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-30_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-182_** (nguyên mang tên **_I-82_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-34_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-1_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm tuần dương
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-27_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_U-35_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
Ít nhất ba tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-35_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1914, phục vụ trong Thế Chiến I cho đến khi đầu hàng
**Tàu ngầm lớp I-15** (cũng được biết đến như tàu ngầm Kiểu B1) là loại tàu ngầm có số lượng lớn nhất mà Hải quân Hoàng gia Nhật Bản từng sử dụng trong chiến tranh
**Tàu ngầm lớp I-201** là một loại tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai. Loại tàu ngầm được thiết kế nâng cao để có thể di
là một lớp tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tàu ngầm _Type A_ được chế tạo để đóng vai trò soái hạm của hải đội
Tàu ngầm **_lớp Virginia_**, hay **lớp SSN-774**, là một loại tàu ngầm tấn công nhanh, chạy bằng năng lượng hạt nhân, mang tên lửa hành trình đang được trang bị cho Hải quân Mỹ. Tàu
Lớp tàu ngầm **U-boat Type II**, bao gồm tổng cộng bốn lớp con, được Đức Quốc Xã thiết kế như những tàu ngầm duyên hải dựa theo kiểu tàu ngầm CV-707, vốn được thiết kế
Tàu ngầm lớp Victor, ký hiệu theo Liên Xô: **Project 671 _Yorsh**_, **Project 671RT _Syomga_** và **Project 671RTM/RTMK _Shchuka**_, (tên gọi của NATO **Victor I**, **Victor II** và **Victor III**, là một lớp tàu ngầm
**_Lớp tàu ngầm Seawolf_** là một lớp tàu ngầm tấn công nhanh (SSN) sử dụng năng lượng hạt nhân, là lực lượng nòng cốt của đội tàu ngầm của Hải quân Liên bang Mỹ (USN).
**_U-36_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-304_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ kịp
**_U-33_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã can
**_U-102_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó chỉ thực
**_U-78_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó không tham
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _Indianapolis_ (CA-35)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Portland_ của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này theo tên
**USS _Fair_ (DE-35)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**_Portland_** là một lớp tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo vào đầu những năm 1930, bao gồm hai chiếc: và . ## Nguồn gốc _Portland_ là lớp tàu
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Tàu hộ vệ** (tiếng Anh: _Guard ship_) là một loại tàu chiến được thiết kế để thực hiện nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ các tàu lớn như tàu vận tải và tàu đổ bộ
**Lớp _Lexington**_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ
**Lớp tàu khu trục _Gearing**_ bao gồm 98 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ trong và ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp _Gearing_ có những cải tiến nhỏ so với
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
nhỏ|243x243px|Tàu lửa SPT1 với đầu máy [[Đầu máy Đổi mới (D19E) tại Ga Phan Thiết, Bình Thuận.]] nhỏ|Một [[Vận tải hàng hóa đa phương thức|chuyến tàu chở hàng liên phương thức BNSF đi qua Wisconsin,
Jetfoil Toppi là một chiếc [[tàu nối Yakushima, Đảo Tanegashima và cảng Kagoshima tại Nhật Bản.]] **Tàu cánh ngầm** là một chiếc tàu có cánh giống như những chiếc lá lắp trên các giằng phía
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong