✨Portland (lớp tàu tuần dương)

Portland (lớp tàu tuần dương)

Portland là một lớp tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo vào đầu những năm 1930, bao gồm hai chiếc: và .

Nguồn gốc

Portland là lớp tàu tuần dương hạng nặng thứ ba được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau khi ký kết Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922. Những tàu tuần dương hiệp ước đầu tiên là hai chiếc thuộc lớp Pensacola đặt hàng vào năm 1926 đã nhấn mạnh đến hỏa lực và tốc độ bằng cách hy sinh mức độ bảo vệ. Chúng được tiếp nối bởi sáu chiếc lớp Northampton đặt hàng vào năm 1927 với vỏ giáp được cải thiện đôi chút, và áp dụng cách bố trí ba tháp pháo ba nòng vốn sẽ trở thành cấu hình tiêu chuẩn cho mọi tàu tuần dương hạng nặng Hoa Kỳ sau này. Thiết kế của Portland dựa trên cải tiến về thiết kế của cả hai lớp PensacolaNorthampton.

Được đặt hàng cho Hải quân Hoa Kỳ trong năm tài chính 1930, lớp Portland ban đầu được xem là những tàu tuần dương hạng nhẹ (ký hiệu lườn CL) do chỉ có lớp vỏ giáp mỏng, nhưng được xếp lại lớp thành tàu tuần dương hạng nặng (ký hiệu lườn CA) vào ngày 1 tháng 7 năm 1931 do trang bị pháo lớn hơn theo quy ước của Hiệp ước Hải quân London năm 1930. Thoạt tiên dự định chế tạo tám tàu tuần dương theo một thiết kế Northampton cải tiến, nhưng cuối cùng hai chiếc đã hoàn tất như lớp Portland trong khi sáu chiếc kia tiếp tục được cải tiến thành lớp New Orleans tiếp nối. Ba chiếc trong lớp này, , và , ban đầu được đặt hàng như lớp Portland nhưng sau đó được đặt hàng lại theo thiết kế của chiếc .

Thiết kế

Lớp Portland có chiều dài ở mực nước và chiều dài chung , mạn tàu rộng abeam, với mớn nước trung bình là và lên đến tối đa khi đầy tải. Chúng được thiết kế với trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Tuy nhiên trong thực tế PortlandIndianapolis chỉ đạt đến và , tương ứng khi hoàn tất. Chúng có hai ống khói đặc trưng nghiêng về phía sau và cột ăn-ten ba chân phía trước, một tháp nhỏ và ăn-ten dạng cột phía sau. Đến năm 1943, chúng được bổ sung một cột ăn-ten ba chân nhẹ phía trước ống khói thứ hai, và một trạm điều khiển hỏa lực dự phòng phía sau tàu. thumb|left|Portland trong ụ tàu tại [[Sydney, Australia vào năm 1942|alt=A raised warship in a drained dock surrounded by construction equipment]] Mỗi chiếc trong số turbine hơi nước hộp số Parsons của chúng dẫn động một trục chân vịt, và hơi nước được cung cấp bởi tám nồi hơi Yarrow. Hệ thống động lực này cung cấp tổng công suất , cho phép con tàu đạt được tốc độ thiết kế . Chúng được thiết kế để có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường . Khi đi biển các con tàu bị chòng chành đáng kể cho đến khi được bổ sung những nẹp vây dưới lườn tàu.

Các con tàu được trang bị dàn pháo chính gồm chín khẩu hải pháo 8 inch/55 caliber Mark 9 trên ba tháp pháo ba nòng, được phân bổ hai tháp pháo bắn thượng tầng phía trước và một phía sau. Nó được trang bị tám khẩu pháo 5 inch/25 caliber cho mục đích phòng không, và cũng có hai khẩu pháo chào QF 3 pounder Hotchkiss. Vào năm 1945, do không kích tự sát của đối phương trở thành mối đe dọa lớn, dàn hỏa lực phòng không được nâng cấp với 24 pháo phòng không Bofors 40 mm: trên Portland gồm bốn khẩu đội bốn nòng và bốn khẩu đội nòng đôi, trong khi với Indianapolis là sáu khẩu đội bốn nòng. Cả hai cũng được tăng cường 17 đến 19 khẩu Oerlikon 20 mm. Lớp tàu này không được trang bị ống phóng ngư lôi; chúng trang máy đo tầm xa Mark 8 và bộ điều khiển hỏa lực Mark 27 kèm theo máy đo tầm xa Mark VII phụ trợ.

Lớp Portland nguyên được thiết kế với lớp giáp dày cho sàn tàu và mặt hông, nhưng trong quá trình chế tạo lớp giáp này được tăng cường. Khi hoàn tất, đai giáp của nó dày nhưng tăng lên tại khu vực quanh hầm đạn. Vỏ giáp dày từ cho đến các vách ngăn dày , trong khi lớp giáp cho sàn chính dày . Lớp giáp cho các tháp pháo nhỏ dày , cho tháp điều khiển hỏa lực là và cho tháp chỉ huy là .

Ngoài ra lớp Portland cũng được thiết kế nhằm phục vụ trong vai trò soái hạm cho hạm đội, với tiện nghi chỗ ở và làm việc cho vị đô đốc cùng ban tham mưu của ông. Nó được trang bị hai máy phóng máy bay phía giữa tàu, và có thể mang theo tối đa bốn thủy phi cơ trong hầm chứa dành riêng. Thủy thủ đoàn đầy đủ của con tàu là 848 người trong thời bình, tăng lên 952 trong thời chiến, và có thể đến 1.229 người khi nó hoạt động trong vai trò soái hạm của hạm đội.

So sánh với những thiết kế tàu tuần dương trước đó

Lớp Portland dài hơn lớp Northampton khoảng và có mũi tàu được cải tiến, nhưng nói chung chúng có thiết kế tương tự như lớp Northampton, với một sàn phía trước được kéo dài để cải thiện tính năng đi biển. Các cột ăn-ten được rút ngắn so với lớp Northampton để giúp giảm bớt trọng lượng bên trên.

Khi hoàn tất, lớp Pensacola có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn nhỏ hơn mong muốn chỉ với , thấp hơn mong đợi, và được xem là khiếm khuyết về mặt bảo vệ. Đối với lớp Northampton tiếp theo, trọng lượng vỏ giáp bảo vệ được tăng lên với đai giáp dày . Ngay cả như thế, những con tàu này chỉ có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn từ đến . Trong khi lớp Portland có vỏ giáp bảo vệ tốt hơn đáng kể so với những lớp trước, vấn đề này được xem là nghiêm trọng đến mức trong năm tài chính 1929, một thiết kế hoàn toàn mới được nghiên cứu mà sau này trở thành lớp New Orleans. Nhiều lườn tàu Portland đã đặt hàng được chuyển sang thiết kế New Orleans đang khi được chế tạo.

Lớp Portland cũng được thiết kế với những ý tưởng mới về vũ khí. Dàn pháo chính của chúng lần đầu tiên được thiết kế đặc biệt để bắn kiểu đầu đạn pháo mũi nhọn và có dạng suôn thẳng, vốn gia tăng về tầm bắn so với thiết kế pháo kiểu cũ. Loại đạn pháo này đã được áp dụng trên các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, vốn đã vượt trội hơn về hỏa lực so với tàu tuần dương Hoa Kỳ vào lúc đó. Lớp New Orleans sau này được thiết kế với những xu hướng trên cùng những bài học rút ra được, dự định tạo ra một sự cân bằng tốt hơn giữa các yếu tố bảo vệ, hỏa lực và tốc độ.

Chế tạo

Năm chiếc đã được đặt hàng cho năm tài chính 1930 và được chế tạo bởi ba xưởng tàu. Đến năm 1931, , và , với hệ thống động cơ Westinghouse, được chuyển sang thiết kế lớp New Orleans. Portland được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bethlehem Steel ở Quincy, Massachusetts vào ngày 17 tháng 2 năm 1930, và Indianapolis được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation vào ngày 31 tháng 3 năm 1930; cả lườn tàu và hệ thống động cơ đều được cung cấp bởi xưởng tàu tương ứng. Indianapolis được hạ thủy trước vào ngày 7 tháng 11 năm 1931 và nhập biên chế vào ngày 15 tháng 11 năm 1932, còn Portland được hạ thủy vào ngày 21 tháng 5 năm 1932 và nhập biên chế vào ngày 23 tháng 2 năm 1933.

Lịch sử hoạt động

USS Portland (CA-33)

thumb|Portland ngoài khơi Xưởng hải quân Mare Island, California, năm 1944|alt=A large ship painted in multicolor camouflage in a harbor

Portland là con tàu đầu tiên có mặt tại hiện trường xảy ra vụ tai nạn chiếc khinh khí cầu bị rơi trên biển vào năm 1933, nơi nó đã phối hợp tìm kiếm cứu nạn những người còn sống sót. Nó thực hiện một loạt các cuộc tập trận hạm đội cùng những chuyến viếng thăm thiện chí tại khu vực Thái Bình Dương. Vào đầu Thế Chiến II, nó tham gia Trận chiến biển Coral và đã cứu vớt 722 người sống sót từ chiếc tàu sân bay . Sau đó nó tiếp tục tham gia Trận Midway, rồi hỗ trợ cho việc đổ bộ Thủy quân Lục chiến trong trận Guadalcanal, tiếp tục tham gia trận chiến Đông Solomons và trận chiến quần đảo Santa Cruz, nơi nó bị đánh trúng ba quả ngư lôi phóng từ máy bay nhưng bị tịt ngòi. Trong trận Hải chiến Guadalcanal vào cuối năm 1942, Portland bị hư hại nặng do trúng một quả ngư lôi phóng từ tàu khu trục Nhật Bản, buộc nó phải được sửa chữa tạm thời tại Australia và sửa chữa triệt để tại Xưởng hải quân Mare Island. Cho dù bị hư hại nó vẫn gây ra thiệt hại cho đối thủ là thiết giáp hạm Hiei.

Quay trở lại chiến trường sau khi được sửa chữa, Portland bắn phá Kiska trong Chiến dịch quần đảo Aleut, đóng vai trò hỗ trợ cho chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall, hỗ trợ các cuộc đổ bộ lên New Guinea và Pelelieu. Sau đó nó tham gia Trận chiến vịnh Leyte, hỗ trợ các cuộc đổ bộ lên Philippines cũng như trong trận Okinawa. Nó xuất biên chế ngay sau khi chiến tranh kết thúc, nhưng được giữ lại thành phần dự bị cho đến năm 1959, khi con tàu bị tháo dỡ.

USS Indianapolis (CA-35)

thumb|Indianapolis ngoài khơi [[Trân Châu Cảng, năm 1937|alt=A large, gray warship at sea]]

Indianapolis phục vụ trong vai trò soái hạm của Lực lượng Tuần tiễu 1 trong Thế Chiến II và tham gia một số chiến dịch tại mặt trận Thái Bình Dương. Nó hỗ trợ cho chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall cũng như các chiến dịch đổ bộ tại quần đảo Caroline, và sau đó trong các trận chiến biển Philippine, trận Iwo Jima và trận Okinawa.

Vào giữa năm 1945, Indianapolis làm một nhiệm vụ đặc biệt khi vận chuyển đến Tinian các bộ phận của Little Boy và Fat Man, hai quả bom nguyên tử sẽ được ném xuống Hiroshima và Nagasaki. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ nó lên đường đi Philippines mà không được hộ tống và đã bị tàu ngầm Nhật I-58 phóng ngư lôi đánh chìm vào ngày 30 tháng 7, 1945. Ước lượng có 900 trong tổng số 1197 thành viên thủy thủ đoàn sống sót ngay sau khi bị đắm, nhưng tín hiệu cầu cứu của nó đã không được đáp trả; và do một loạt những sai sót và hiểu nhầm, mãi đến ngày 2 tháng 8 những người sống sót mới được máy bay tuần tra phát hiện. Chỉ có 316 người sống sót trong số 320 được vớt lên, trong đó có hạm trưởng, Đại tá Hải quân Charles Butler McVay III; nhiều người đã bị giết bởi cá mập.

Những chiếc trong lớp

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Portland_** là một lớp tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo vào đầu những năm 1930, bao gồm hai chiếc: và . ## Nguồn gốc _Portland_ là lớp tàu
**Lớp tàu tuần dương _New Orleans**_ là một lớp bao gồm bảy tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ trong những năm 1930, và là những chiếc tàu tuần dương cuối cùng
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Lớp tàu tuần dương _Northampton**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nặng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong những năm 1930. Mang nhiều đặc tính cải tiến so với lớp _Pensacola_
**_Georges Leygues_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Pháp thuộc lớp _La Galissonnière_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**Portland** có nhiều ý nghĩa. Nó là tên của nhiều thành phố, trong đó những thành phố lớn nhất là Portland, Oregon và Portland, Maine, Hoa Kỳ. Địa danh gốc là Đảo Portland, ở Dorset,
**USS _Portland_ (CL/CA–33)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc . Nó là chiếc tàu chiến đầu
**HMS _Enterprise_ (D52)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Emerald_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai trước khi
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
**USS _Indianapolis_ (CA-35)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Portland_ của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này theo tên
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Portland**_, theo tên các thành phố Portland, Maine, và Portland, Oregon: * USS _Portland_ (CA-33) là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_Yudachi_** (tiếng Nhật: 夕立) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Yudachi_ đã từng tham gia nhiều hoạt
**USS _Tuscaloosa_ (CA-37)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, tên của nó được đặt theo thành phố Tuscaloosa thuộc tiểu bang Alabama. Trong Chiến tranh
**USS _Vincennes_ (CA-44)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố Vincennes thuộc tiểu bang
**_I-22_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**USS _Rochester_ (CA-124)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Oregon City_ được đưa ra hoạt động sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ
**Lớp _King George V**_ (lấy tên theo vua George đệ ngũ của Anh_)_ là lớp thiết giáp hạm áp chót được hoàn tất bởi Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Năm chiếc thuộc lớp này
**USS _Wallace L. Lind_ (DD-703)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Thompson_ (DD-627/DMS-38)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Benner_ (DD/DDR-807)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _John F. Kennedy_ (CVA-67/CV-67)** là một siêu hàng không mẫu hạm, chiếc duy nhất trong phân lớp của nó, vốn là một biến thể của lớp tàu sân bay _Kitty Hawk_, được Hải quân
**USS _Rogers_ (DD-876/DDR-876)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Benson_ (DD-421)** là một tàu khu trục của Hải quân Hoa Kỳ, chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau chiến
**USS _Emmons_ (DD-457/DMS-22)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Carpenter_ (DD-825/DDK-825/DDE-825)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Nicholas_ (DD-449/DDE-449)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Stevens_ (DD-479)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Goldsborough_ (DD-188/AVP-18/AVD-5/APD-32)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Terry_ (DD-513)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**HMS _Undaunted_ (R53/D25/F53)** là một tàu khu trục lớp U được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh để phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**USS _Trathen_ (DD-530)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Trippe_ (DD-403)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Rodman_ (DD-456/DMS-21)**, là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Woodworth_ (DD-460)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Say chiến tranh, nó được chuyển giao cho
**USS _O'Brien_ (DD-725)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải
**USS _Ault_ (DD-698)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _William C. Cole_ (DE-641)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Phó đô
**USS _Tisdale_ (DE-33)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**USS _Compton_ (DD-705)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Rowan_ (DD-405)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Hambleton_ (DD-455/DMS-20)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _McCalla_ (DD-488)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**USS _Aaron Ward_ (DD-483)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia trong Thế Chiến II tại Mặt
**USS _Forrest_ (DD-461/DMS-24)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Arnold J. Isbell_ (DD-869)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Marshall_ (DD-676)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Hutchins_ (DD-476)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Laws_ (DD-558)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ