✨I-1 (tàu ngầm Nhật)

I-1 (tàu ngầm Nhật)

I-1 là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm tuần dương bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn. Nhập biên chế vào năm 1926, nó đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu đã hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng, càn quét tàu bè tại Ấn Độ Dương, và tham gia các chiến dịch quần đảo Aleut và Guadalcanal. Đến tháng 1, 1943, trong khuôn khổ Chiến dịch Ke nhằm triệt thoái lực lượng khỏi Guadalcanal, I-1 đã bị các tàu corvette quét mìn New Zealand HMNZS Kiwi và HMNZS Moa đánh chìm tại vịnh Kamimbo ở bờ biển Guadalcanal vào ngày 29 tháng 1.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Junsen 1 (J1) là một lớp tàu ngầm tuần dương vốn được thiết kế chịu ảnh hưởng bởi chiếc SM U-142 thời Thế Chiến I của Đế quốc Đức. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 10, 1924, I-1 được cho tách khỏi Đội tàu ngầm 7 và trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka, Chúng kết thúc chuyến đi huấn luyện khi về đến Sasebo vào ngày 4 tháng 4, 1935. Chúng kết thúc đợt huấn luyện khi về đến vịnh Ariake vào ngày 6 tháng 4, 1937. Đến 20 giờ 35 phút, đang khi cùng Moa tuần tra ngoài khơi vịnh Kamimbo, Kiwi phát hiện I-1, thoạt tiên qua bộ dò âm thanh và sau đó bằng sonar, ở khoảng cách . Moa tìm cách xác định nhận dạng mục tiêu nghi ngờ, nhưng không thành công, và Kiwi tiếp cận mục tiêu. Khi một trinh sát viên trên I-1 phát hiện KiwiMoa, nhận định nhầm họ là xuồng phóng lôi, chiếc tàu ngầm bẻ lái sang mạn trái và lặn xuống đến độ sâu , chuyển sang chế độ im lặng. Kiwi áp sát vị trí và tấn công chiếc tàu ngầm với hai loạt sáu quả mìn sâu; chúng kích nổ gần tàu, gây chấn động mạnh và rò rỉ tại phòng chứa dự trữ phía đuôi tàu.

Đợt tấn công thứ hai của Kiwi lúc 20 giờ 40 phút gây những hư hại nghiêm trọng cho I-1. Mìn sâu kích nổ đã làm hỏng bơm, động cơ bẻ lái, trục chân vịt mạn trái và bộ góp áp lực cao, rò rỉ nước vào phòng điều khiển. Bảng mạch điện chính cùa I-1 bị chập mạch một phần, khiến toàn bộ con tàu mất ánh sáng. I-1 bắt đầu chìm không thể kiểm soát ở một góc 45 độ, xuống đến độ sâu ước lượng khoảng trước khi dừng lại. Phòng ngư lôi phía trước bị rò rỉ nặng, và nước biển tràn vào các khoang chứa ắc-quy, bắt đầu giải phóng ra khí chlorine độc hại.

Khi Kiwi bắt đầu đợt tấn công thứ ba lúc khoảng 21 giờ 00, I-1 trồi lên mặt nước ở khoảng cách bên mạn phải của Kiwi. Bì chìm phần mũi, I-1 cố gắng hướng đến bờ biển Guadalcanal để tự mắc cạn, sử dụng động cơ diesel bên mạn phải và di chuyển được ở tốc độ . Hạm trưởng I-1 đích thân cầm lái trong khi thủy thủ của nó vận hành các khẩu hải pháo và súng máy trên boong. Sử dụng hỏa lực pháo 4-inch và pháo phòng không Oerlikon 20 mm, Kiwi phá hủy khẩu súng máy và khiến khẩu hải pháo 14-cm im tiếng, khiến hạm trưởng và phần lớn thủy thủ trên cầu tàu và trên boong tử trận, cũng như bắn cháy chiếc xuồng Daihatsu. Không được điều khiển, I-1 chuyển hướng chậm sang mạn phải. Trên chiếc tàu ngầm, sĩ quan ngư lôi tiếp nhận quyền chỉ huy I-1, ra lệnh phân phối vũ khí cá nhân để sẵn sàng chống trả, và cử người tiếp tục vận hành hải pháo.

Đến 21 giờ 20, Kiwi chuyển hướng lao thẳng đến I-1 với vận tốc tối đa từ khoảng cách , húc chiếc tàu ngầm bên mạn trái phía sau tháp chỉ huy. Kiwi tiếp tục húc vào I-1 lần thứ hai sượt qua phía mũi, làm hỏng bánh lái ngang phía mũi chiếc tàu ngầm. Kiwi lại húc vào I-1 lần thứ ba, lần này bên mạn phải, khiến bản thân nó bị hư hại mũi tàu và hỏng vòm sonar, nhưng đã đâm thủng một lổ trên thùng dằn chính của chiếc tàu ngầm và khiến phần lớn bơm không thể hoạt động. I-1 bắt đầu bị nghiêng sang mạn phải. Bị hư hại và nòng pháo 4-inch quá nóng, Kiwi rút lui, trong khi Moa bắt đầu thay phiên để chiếu sáng và tiếp tục nả pháo vào mục tiêu, nhưng không có hiệu quả khi phần lớn đạn pháo nảy ra khỏi vỏ giáp chiếc tàu ngầm.

I-1 tiếp tục hướng đến Guadalcanal với vận tốc . Đến 23 giờ 15 phút, nó mắc cạn tại đá ngầm Fish ngoài khơi bờ biển Guadalcanal, cách vịnh Kamimbo về phía Bắc. Toàn bộ nữa sau con tàu bị ngập nước và nó nghiêng nặng sang mạn phải. 66 người còn lại đã bỏ tàu không lâu trước khi I-1 đắm tại tọa độ . Khoàng phần mũi của I-1 nhô lên khỏi mặt nước ở một góc 45 độ. I-1 chịu đựng 27 người thiệt mạng hay mất tích trong cuộc đối đầu với KiwiMoa; 68 người đã sống sót, bao gồm hai người rơi xuống nước và bơi được đến Guadalcanal. Phía Kiwi có một người duy nhất tử thương, là thủy thủ vận hành đèn pha đã trúng đạn khi chiếc corvette húc I-1 lần thứ hai, và từ trần hai ngày sau đó.

Các nỗ lực trục vớt và phá hủy

Moa tiếp tục tuần tra tại khu vực xác tàu đắm của I-1 cho đến ngày 30 tháng 1, khi nó tiếp cận và khảo sát. Nó tìm thấy hai người sống, bắt giữ một người và giết người còn lại bằng súng máy. Nó cũng thu được các hải đồ và một sách được cho là bảng mật mã, nhưng nhiều khả năng chỉ là nhật ký hải trình. Pháo bờ biển Nhật Bản trên bờ bắt đầu nả vào chiếc tàu corvette, buộc Moa phải rút lui khỏi khu vực.

Sáu mươi ba người sống sót của I-1 được triệt thoái khỏi Guadalcanal 1 tháng 2. Khi họ đi đến Rabaul và báo cáo, Hải quân Nhật Bản nhận thức các bộ mật mã có trên xác tàu đắm của I-1 có khả năng bị tiết lộ. Sĩ quan ngư lôi của I-1 và hai sĩ quan khác cùng 11 thủy thủ từ một tàu khu trục đã tiếp cận I-1 bằng xuồng Daihatsu lúc 19 giờ 00 ngày 2 tháng 2. Họ cài đặt hai quả mìn sâu và bốn liều thuốc nổ để tìm cách phá hủy xác tàu nhờ những quả ngư lôi trên tàu còn chưa sử dụng. Cho dù các quả ngư lôi đã không kích nổ như mong muốn và xác tàu không bị phá hủy, vụ nổ đã khiến xác tàu bị hư hại đến mức không thể trục vớt. Khi được cho triệt thoái khỏi Guadalcanal vào ngày 7 tháng 2, ngày Chiến dịch Guadalcanal kết thúc với với việc hoàn tất Chiến dịch Ke nhằm triệt thoái toàn bộ lực lượng Nhật Bản còn lại khỏi hòn đảo này, ba sĩ quan đã báo cáo thất bại của họ trong việc phá hủy xác tàu đắm khi họ về đến Rabaul.

Đến ngày 10 tháng 2, phía Nhật Bản một lần nữa tìm cách phá hủy xác tàu đắm của I-1, khi chín máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A1 xuất phát từ Bougainville, được 28 máy bay tiêm kích Mitsubishi A6M Zero hộ tống, tấn công xác tàu. Hầu hết chúng đã không tìm thấy mục tiêu, chỉ có một chiếc Aichi D3A1 ném một quả bom xuống gần tháp chỉ huy con tàu. Đến ngày 11 tháng 2, I-2 xuất phát từ quần đảo Shortland với sĩ quan ngư lôi của I-1 trên tàu, với nhiệm vụ tìm kiếm và phá hủy xác tàu đắm của I-1. thumb|left|Thủy thủ [[PT boat PT-65 và nhân viên tình báo khảo sát xác tàu đắm của I-1, ngày 11 tháng 2, 1943.]] Đúng như phía Nhật Bản lo ngại, Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu khảo sát xác tàu đắm của I-1 với hy vọng có thể thu thập thông tin tình báo hữu ích. Vào ngày 11 tháng 2, đúng lúc I-2 rời quần đảo Shortland, xuồng tuần tra phóng lôi PT-65 đã đưa các sĩ quan tình báo Lục quân Hoa Kỳ đi đến vị trí I-1 bị đánh chìm. Tàu cứu hộ tàu ngầm đã khảo sát I-1, và thợ lặn của nó đã thu được năm bộ mật mã cùng những tài liệu quan trọng khác. Chiều tối hôm đó, I-2 đi đến nơi và xâm nhập vào vịnh Kamimbo cách bờ biển chỉ có , nhưng nó đã không tìm thấy xác tàu của I-1. Đến ngày 15 tháng 2, khi Hải quân Nhật Bản nhận định các bộ mật mã có trên I-1 đã bị phá nên thay đổi và nâng cấp bộ mã, I-2 tìm cách xâm nhập một lần nữa, đi đến vị trí cách bờ biển , nhưng bị các PT-boat phát hiện và thả mìn sâu tấn công. Sau khi một máy bay đối phương tấn công I-2 lúc 11 giờ 20 phút, nó từ bỏ nỗ lực và rút lui về quần đảo Shortland. Hải quân Hoa Kỳ cuối cùng cho biết đã thu được các bộ mật mã, hải đồ, hướng dẫn, nhật ký hải trình, các tài liệu mật và thiết bị khác từ I-1.

Tên của I-1 được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 1 tháng 4, 1943.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-1_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm tuần dương
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-12_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 1 (Type A2). Nhập
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-20_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-351_** là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất của lớp tàu ngầm chở dầu _I-351_ () được Nhật Bản hoàn tất trong giai đoạn cuối Chiến tranh
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-366_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-367_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-13_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM). Được
**_I-176_** (nguyên là **_tàu ngầm số 154_**, rồi **_I-76_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-182_** (nguyên mang tên **_I-82_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-365_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-60_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Nó liên can đến tai nạn va chạm vốn đã làm
**_I-68_**, sau đổi tên thành **_I-168_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-179_** (nguyên là **_tàu ngầm số 157_**, rồi **_I-79_** cho đến ngày 1 tháng 11, 1941) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-178_** (nguyên là **_tàu ngầm số 156_**, rồi **_I-78_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-23_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã