✨Lion (lớp tàu chiến-tuần dương)

Lion (lớp tàu chiến-tuần dương)

Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh chìm tàu tuần dương hạng nhẹ Đức Köln trong Trận Heligoland Bight, và phục vụ như là soái hạm cho Phó Đô đốc David Beatty trong các trận Dogger Bank và Jutland. Nó bị hư hại nặng trong Trận Heligoland Bight đến mức phải được chiếc Indomitable kéo quay trở về cảng; việc sửa chữa đã kéo dài hơn hai tháng. Trong Trận Jutland, nó chịu đựng một đám cháy thuốc phóng nghiêm trọng đến mức có thể đã phá hủy toàn bộ con tàu, nếu như không có hành động kịp thời của Thiếu tá Francis Harvey, chỉ huy tháp pháo, người được truy tặng huân chương Chữ thập Victoria do đã ra lệnh làm ngập nước hầm đạn. Tuy nhiên, đám cháy đã phá hủy một tháp pháo, buộc phải tháo dỡ và tái cấu trúc khi con tàu được sửa chữa trong nhiều tháng sau đó.

Princess Royal hoạt động trong Trận Heligoland Bight một tháng sau khi chiến tranh bắt đầu, và đã được gửi xuống phía Nam đến vùng biển Carribe nhằm ngăn chặn Hải đội Đông Á Đức Quốc sử dụng kênh đào Panama. Sau khi lực lượng này bị tiêu diệt trong Trận chiến Quần đảo Falkland bởi các chiếc InvincibleInflexible vào tháng 12 năm 1914, Princess Royal tái gia nhập Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1. Trong trận Dogger Bank, nó chỉ ghi được một ít phát đạn bắn trúng, cho dù một trong số đó đã trực tiếp đánh hỏng chiếc tàu tuần dương bọc thép Blücher, khiến nó bị bắt kịp và bị đánh chìm bởi hỏa lực tập trung của các tàu chiến-tuần dương Anh. Không lâu sau đó, nó trở thành soái hạm của Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Osmond Brock. Nó bị hư hại trung bình trong Trận Jutland, phải mất một tháng rưỡi để sửa chữa sau đó.

Cả hai đã trải qua phần còn lại của cuộc chiến tuần tra tại Bắc Hải mà không gặp sự kiện gì, mặc dù chúng đã hỗ trợ từ xa trong Trận Heligoland Bight thứ hai vào năm 1917. Đến năm 1920 cả hai được đưa về lực lượng dự bị, rồi được bán để tháo dỡ vài năm sau đó theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington.

Thiết kế

Bối cảnh

Việc tăng tốc trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1907–1908 của Đế quốc Đức khiến Chính phủ Anh chịu một sức ép nặng từ phía công luận, buộc phải chế tạo nhiều tàu chiến hơn trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1909–1910. Chỉ có một thiết giáp hạm và một tàu chiến-tuần dương được phê duyệt trong Chương trình Chế tạo 1908–1909, nhưng lên đến ba thiết giáp hạm và một tàu chiến-tuần dương được thông qua trong Chương trình Chế tạo 1909–1910, với ba thiết giáp hạm và một tàu chiến-tuần dương khác được vạch kế hoạch như là những con tàu "phòng hờ" nhằm xoa dịu công chúng và Bộ Hải quân Anh. Những áp lực tiếp theo đã buộc Chính phủ phải công bố vào tháng 7 năm 1909 rằng các con tàu "phòng hờ" cũng sẽ được chế tạo. Sức ép này cũng khiến Bộ Hải quân Anh được sự chấp thuận gia tăng kích cỡ và sức mạnh của những con tàu mới, nhằm duy trì ưu thế về phẩm chất so với các thiết giáp hạm dreadnought mới của Đức đang được chế tạo.

Lớp tàu chiến-tuần dương Lion được thiết kế để vượt trội hơn những tàu chiến-tuần dương Đức thuộc lớp Moltke, giống như chúng nhằm để vượt qua lớp Invincible của Anh. Sự gia tăng về tốc độ, vỏ giáp và cỡ nòng pháo đã khiến kích thước tăng thêm 70% so với lớp Indefatigable, làm cho chúng trở thành những tàu chiến lớn nhất thế giới vào lúc đó. Việc sắp đặt được cải tiến từ thiết kế của lớp "siêu-dreadnought" đầu tiên, lớp Orion trang bị pháo vào năm 1910. Đây là những con tàu đầu tiên được trang bị kiểu pháo mới 13,5 inch (343 mm) do Vickers phát triển. Thiết kế của lớp Lion sửa chữa một số thiếu sót của những tàu chiến-tuần dương trước đó, vốn mắc phải hạn chế các tháp pháo bố trí hình thang giữa tàu không thể bắn chéo qua sàn tàu một cách an toàn, nên bị giới hạn với ba tháp pháo bắn qua mạn. Tuy nhiên, điều này lại được thực hiện do kích cỡ và trọng lượng của các khẩu pháo mới khiến cho việc bố trí tháp pháo bên mạn là không thực tế. Vì vậy, cả bốn tháp pháo của Lion đều được đặt trên trục giữa, mặc dù tháp pháo 'Q' được đặt giữa tàu và không thể bắn thẳng về phía đuôi. Giám đốc Chế tạo Hải quân, Sir Philip Watts, đề nghị bổ sung một tháp pháo thứ năm bắn thượng tầng bên trên tháp pháo đuôi, nếu con tàu được kéo dài thêm ba khoang và dài thêm tổng cộng , vốn chỉ làm gia tăng rất ít chi phí chế tạo ngoại trừ khoảng 175.000 Bảng Anh dành cho tháp pháo, nhưng sẽ tăng thêm đến 25% hỏa lực cho con tàu. Tuy nhiên điều này đã không được chấp thuận, có thể do sự lo ngại về tính khả thi.

Động lực

Lớp Lion có hai bộ turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp được đặt trong các phòng động cơ riêng biệt. Các trục phía ngoài được nối với các turbine áp lực cao, hơi nước thoát ra được dẫn vào các turbine áp lực thấp dẫn động trục phía trong. Một tầng giảm tốc chạy đường trường được chế tạo vào vỏ của mỗi turbine áp lực cao phía trước để di chuyển ở tốc độ thấp. Hai chân vịt ba cánh phía trong của nó có đường kính trong khi cặp chân vịt phía ngoài có đường kính . Turbine được cung cấp hơi nước từ 42 nồi hơi ống nước Yarrow bố trí trong 7 phòng nồi hơi. Chúng được thiết kế để cung cấp tổng công suất , nhưng đã đạt đến trên khi chạy thử máy, cho dù Lion không vượt hơn tốc độ thiết kế dành cho nó, còn Princess Royal chỉ đạt .

Các con tàu có thể mang theo tối đa than cùng dầu đốt để phun vào than nhằm gia tăng tốc độ cháy. Ở trữ lượng nhiên liệu tối đa, tầm xa hoạt động của chúng là ở tốc độ .

Vũ khí

Lớp Lion trang bị tám khẩu pháo BL Mark V trên bốn tháp pháo nòng đôi vận hành bằng thủy lực, được đặt tên lần lượt là 'A', 'B', 'Q' và 'Y' từ trước ra sau. Các khẩu pháo có thể hạ đến góc −3° và nâng lên đến 20°, cho dù máy đo tầm xa điều khiển tháp pháo bị giới hạn ở góc nâng tối đa 15° 21', cho đến khi được trang bị lăng kính ngắm siêu nâng ngay trước trận Jutland vào tháng 5 năm 1916 để có nâng tối đa. Chúng bắn ra đạn pháo nặng ở lưu tốc đầu đạn . Ở góc nâng 14,75°, tầm bắn xa của loại đạn pháo xuyên thép (AP) đạt được ; và ở góc nâng 20°, tầm bắn xa được mở rộng đến . Tốc độ bắn của các khẩu pháo này là 1,5–2 quả đạn pháo mỗi phút. Con tàu mang theo tổng cộng 880 quả đạn pháo trong thời chiến, 110 quả cho mỗi khẩu pháo.

Dàn pháo hạng hai của chúng bao gồm mười sáu khẩu BL Mk VII, hầu hết được đặt trong các tháp pháo ụ. Mỗi khẩu pháo được cung cấp 150 quả đạn. Ngoài ra kiểu QF 3 inch 20 cwt trên bệ MkII góc cao cũng được sử dụng; chúng có khả năng hạ đến 10° và nâng tối đa lên đến 90°. Nó bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn và tốc độ 12–14 viên mỗi phút. Trần bắn hiệu quả của kiểu pháo này là .

Princess Royal được trang bị hai khẩu 4 inch Mark VII trên bệ góc cao MkII có khả năng nâng tối đa lên đến góc 60° vào tháng 4 năm 1917, Chúng bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn , đạt đến trần bắn hiệu quả tối đa là . Tốc độ bắn thực tế của loại vũ khí này là từ 50 đến 75 viên mỗi phút.

Hai ống phóng ngư lôi ngầm được trang bị bên mạn.

Kiểm soát hỏa lực

Dàn pháo chính của lớp Lion được kiểm soát từ tháp chỉ huy. Dữ liệu đo được từ máy đo tầm xa Argo đặt bên trên tháp chỉ huy được nạp vào một Bảng Kiểm soát Hỏa lực Dreyer Mk I (một máy tính cơ khí kiểm soát hỏa lực) đặt trong trạm truyền tin bên dưới tháp chỉ huy, nơi chúng được biên dịch thành dữ liệu tầm xa và độ lệch được các khẩu pháo sử dụng. Dữ liệu về mục tiêu cũng được ghi lại trên một sơ đồ giúp cho sĩ quan tác xạ dự đoán sự di chuyển của mục tiêu. Tháp kiểm soát hỏa lực ngư lôi phía sau cũng được sử dụng làm trạm kiểm soát hỏa lực dự phòng. Các tháp pháo 'B' và 'X' được cung cấp máy đo tầm xa và được trang bị như những trạm kiểm soát hỏa lực thứ cấp.

Kỹ thuật kiểm soát hỏa lực tiến bộ nhanh chóng vào những năm ngay trước thế chiến, và việc phát triển hệ thống định hướng hỏa lực là một sự phát triển đáng kể. Nó bao gồm bộ kiểm soát hỏa lực đặt trên cao của con tàu, cung cấp bằng điện góc nâng và góc xoay của tháp pháo bằng con trỏ, và các pháo thủ làm theo chỉ dẫn đó. Sĩ quan hỏa lực có thể bắn đồng thời các khẩu pháo thành loạt, giúp vào việc quan sát điểm rơi của đạn pháo cũng như hạn chế ảnh hưởng của sự chòng chành con tàu trên sự phân tán của đạn pháo. Lion được trang bị bộ kiểm soát hỏa lực cải tiến vào đầu năm 1915 trong khi được sửa chữa những hư hại sau trận Dogger Bank, còn Princess Royal được trang bị vào đầu năm 1916. Một bộ kiểm soát hỏa lực thứ hai được bổ sung cho các con tàu vào năm 1918.

Các tháp pháo chính có mặt trước và mặt hông dày , và lớp vỏ nóc dày . Bệ tháp pháo được bảo vệ bởi vỏ giáp dày 9 inch bên trên sàn tàu, nhưng giảm còn trên sàn tàu bọc thép phía trên và bên dưới nó. Mặt hông của tháp chỉ huy dày , với nóc và các ống liên lạc dày 3 inch. Vách ngăn chống ngư lôi bằng thép nickel dày được đặt ngang các hầm đạn và phòng đạn pháo. Ống khói của nó được bảo vệ bởi thép nickel chống mảnh đạn dày ở mặt hông và 1 inch ở hai đầu giữa sàn trên và sàn trước. Sau khi trận Jutland bộc lộ ra sự mong manh của các con tàu đối với đạn pháo bắn tới, một lớp vỏ giáp bổ sung dày 1 inch nặng khoảng

Chế tạo

Chỉ có Lion được hoàn tất với thiết kế nguyên thủy, với ống khói đầu tiên được đặt giữa cấu trúc thượng tầng phía trước và cột ăn-ten ba chân. Cách sắp xếp như vậy đã khiến khói và hơi nóng thoát ra từ nồi hơi làm cho việc trinh sát trên cột ăn-ten trước hoàn toàn không thể tiến hành khi con tàu di chuyển hết tốc độ, cầu tàu trên không thể sống được tủy theo hướng gió, và các cờ hiệu có nguy cơ bị cháy. Cả hai con tàu đã được cải biến để khắc phục vấn đề này, Lion trước khi đưa nó vào hoạt động, và Princess Royal đang khi nó được trang bị hoàn tất, với tổng chi phí 68.170 Bảng Anh. Hai khẩu đội pháo 4 inch thuộc nhóm phía trước, được đặt trong ụ che để bảo vệ pháo thủ của khẩu đội khỏi hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt và hoạt động của đối phương, cũng là một phần của đợt tái trang bị này. và của Princess Royal là từ 2.089.178

Các cải biến trong thời chiến

Cột ăn-ten trước dạng cột được cải biến thành dạng ba chân sau năm 1916. Đó là do sự gia tăng trọng lượng của thiết bị kiểm soát hỏa lực đặt trên đỉnh cột. Vào năm 1917, LionPrincess Royal được bổ sung các tháp đèn pha tìm kiếm trên ống khói sau và cột ăn-ten chính, đồng thời tháo dỡ một khẩu đội phía đuôi. Đến đầu năm 1918, cả hai chiếc được gắn bệ cất cánh trên các tháp pháo 'Q' và 'X' dành cho thủy phi cơ kiểu Sopwith Pup và Sopwith 1½ Strutter. Lion được trang bị một trạm điều khiển ngư lôi ở phía đầu cuối của cấu trúc thượng tầng.

Lịch sử hoạt động

Trước chiến tranh

Khi được đưa vào hoạt động, cả Lion lẫn Princess Royal đều được phân về Hải đội Tuần dương 1, vốn được đổi tên thành Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 vào tháng 1 năm 1913, trong đó Lion đảm nhiệm vai trò soái hạm. Chuẩn Đô đốc David Beatty tiếp nhận quyền chỉ huy Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 vào ngày 1 tháng 3 năm 1913. LionPrincess Royal cùng với phần còn lại của Hải đội 1 đã viếng thăm cảng Brest, Pháp vào tháng 2 năm 1914, và viếng thăm Nga vào tháng 6,

Trận Heligoland Bight

nhỏ|Tàu chiến-tuần dương HMS Lion Hoạt động đầu tiên của Lion là trong vai trò soái hạm của lực lượng tàu chiến-tuần dương dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Beatty trong Trận Heligoland Bight vào ngày 28 tháng 8 năm 1914. Các con tàu của Beatty thoạt tiên được dự định sẽ hỗ trợ từ xa cho các tàu tuần dương và tàu khu trục Anh tiếp cận bờ biển Đức trong trường hợp các tàu chiến chủ lực của Hạm đội Biển khơi Đức xuất quân đáp trả các cuộc tấn công của Anh. Chúng quay mũi về phía Nam đi hết tốc độ lúc 11 giờ 35 phút khi lực lượng hạng nhẹ Anh không tách ra kịp thời theo kế hoạch, và triều cường đang dâng cao khiến các tàu chiến chủ lực Đức có thể vượt qua các bãi tại cửa sông Jade Estuary. Chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ mới nguyên Arethusa đã bị đánh hỏng trước đó trong trận chiến do hỏa lực từ các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức StrassburgKöln, khi các tàu chiến-tuần dương của Beatty hiện ra từ làn sương mù lúc 12 giờ 37 phút. Strassburg lẫn vào trong làn sương mù và né tránh được hỏa lực pháo, nhưng Köln vẫn bị trông thấy và nhanh chóng bị đánh hỏng bởi đạn pháo của hải đội. Tuy nhiên, Beatty bị thu hút khỏi hoạt động kết liễu nó do sự xuất hiện bất ngờ của chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ cũ Ariadne ngay trước mũi. Ông quay mũi đuổi theo, biến nó thành một xác tàu cháy bùng chỉ với ba loạt đạn pháo ở khoảng cách chưa đầy . Đến 13 giờ 10 phút, Beatty quay mũi về phía Bắc và ra mệnh lệnh chung để rút lui. Thành phần chủ lực của Beatty bắt gặp Köln đã bị đánh hỏng không lâu sau khi đổi hướng lên phía Bắc, và nó bị đánh chìm bởi hai loạt đạn pháo từ chiếc Lion.

Princess Royal được cho tách khỏi Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 và đã khởi hành từ Cromarty vào ngày 28 tháng 9 để gặp gỡ một đoàn tàu vận tải chuyển quân Canada, và hộ tống chúng đến Anh Quốc. Nó gia nhập trở lại Hải đội vào ngày 26 tháng 10, nhưng không lâu sau đó lại được cho tách ra để tăng cường các hải đội Bắc Đại Tây Dương và Caribbe nhằm truy tìm Hải đội Đông Á của Đô đốc Graf Spee, sau khi nó tiêu diệt Hải đội Tây Ấn của Chuẩn Đô đốc Christopher Cradock trong trận Coronel vào ngày 1 tháng 11 năm 1914. Nó đi đến Halifax vào ngày 21 tháng 11 trước khi tuần tra ngoài khơi thành phố New York trong một thời gian, rồi xuôi xuống khu vực Caribbe đề phòng khả năng Graf Spee sử dụng kênh đào Panama. Nó rời Kingston, Jamaica quay trở về Anh Quốc vào ngày 19 tháng 12 sau khi Hải đội Đông Á bị đánh chìm trong Trận chiến quần đảo Falkland vào ngày 7 tháng 12.

Cuộc bắn phá Scarborough

Hải quân Đức quyết định theo một chiến lược bắn phá các thị trấn Anh trên bờ biển Bắc Hải trong một nỗ lực lôi kéo và tiêu diệt từng phần Hải quân Hoàng gia. Trận bắn phá Yarmouth đầu tiên vào ngày 3 tháng 11 đã thành công một phần, nên một chiến dịch với quy mô lớn hơn được Đô đốc Franz von Hipper đặt ra sau đó. Các tàu chiến-tuần dương nhanh sẽ tiến hành bắn phá, trong khi toàn bộ Hạm đội Biển khơi sẽ chiếm lấy vị trí về phía Đông Dogger Bank sẵn sàng hỗ trợ cho lượt quay về đồng thời tiêu diệt mọi đơn vị Hải quân Anh phản ứng lại cuộc bắn phá. Nhưng người Đức đã không thể biết là phía Anh đã giải được mật mã hải quân của Đức và có kế hoạch đánh chặn lực lượng bắn phá trên đường quay trở về nhà; mặc dù họ không biết được sự có mặt ngoài biển của Hạm đội Biển khơi. Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 của Đô đốc Beatty, giờ đây giảm xuống còn bốn chiếc trong đó có Lion, cùng với Hải đội Chiến trận 2 với sáu thiết giáp hạm dreadnought, được cho tách ra từ Hạm đội Grand trong một cố gắng đánh chặn lực lượng Đức gần Dogger Bank.

Đô đốc Hipper khởi hành vào ngày 15 tháng 12 năm 1914 cho một đợt bắn phá khác và đã nả pháo thành công vào nhiều thị trấn Anh, nhưng các tàu khu trục Anh hộ tống cho Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 đã đụng độ với các tàu khu trục Đức hộ tống cho Hạm đội Biển khơi lúc 05 giờ 15 phút, trong một trận chiến bất phân thắng bại. Phó Đô đốc Sir George Warrender, Tư lệnh hải đội chiến trận 2, nhận được tín hiệu lúc 05 giờ 40 phút rằng tàu khu trục Lynx đã đối đầu với tàu khu trục đối phương, mặc dù Đô đốc Beaty đã không biết. Tàu khu trục Shark đã nhìn thấy tàu tuần dương bọc thép Đức Roon cùng các tàu hộ tống lúc khoảng 07 giờ 00, nhưng đã không thể truyền tín hiệu cho đến 07 giờ 25 phút. Cùng với tàu chiến-tuần dương New Zealand, Warrender nhận được tin tức này, nhưng Beatty cũng không biết, mặc dù trong thực tế New Zealand được giao nhiệm vụ chuyển tiếp các thông điệp giữa các tàu khu trục và Beatty. Warrender tìm cách chuyển đi tin tức của Shark cho Beatty lúc 07 giờ 36 phút, nhưng đã không liên lạc được cho đến 07 giờ 55 phút. Beatty cho chuyển hướng ngay khi nhận được thông tin, và cho tách New Zealand ra để truy tìm Roon. Nó bị New Zealand đuổi kịp đúng vào lúc Beatty nhận được tin tức Scarborough đang bị bắn phá lúc 09 giờ 00. Beatty ra lệnh cho New Zealand gia nhập trở lại hải đội và quay về phía Tây hướng đến Scarborough. nhỏ|trái|Vị trí tương quan giữa các lực lượng Anh và Đức lúc khoảng 12 giờ 00 Lực lượng Anh được tách ra làm đôi để đi vòng qua khu vực nước nông Southwest Patch thuộc Dogger Bank; các con tàu của Beatty vòng lên phía Bắc, trong khi Warrender băng qua phía Nam khi chúng hướng về phía Tây ngăn chặn con đường chính ngang qua các bãi thủy lôi phòng thủ bờ biển Anh Quốc. Việc này đã để lại một khoảng trống mà lực lượng hạng nhẹ Đức bắt đầu di chuyển. Đến 12 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Lực lượng Tuần tiễu 2 bắt đầu vượt qua lực lượng Anh để truy tìm Hipper. Tàu tuần dương hạng nhẹ Southampton trông thấy tàu tuần dương hạng nhẹ Đức Stralsund và báo cáo lên Beatty. Đến 12 giờ 30 phút Beatty quay mũi các tàu chiến-tuần dương của mình hướng về các con tàu Đức. Ông đoán rằng các tàu tuần dương Đức là lực lượng đi tiên phong cho các con tàu của Hipper, tuy nhiên chúng đang tụt lại phía sau khoảng . Hải đội Tuần dương nhẹ 2, vốn là lực lượng hộ tống cho các con tàu của Beatty, được cho tách ra để săn đuổi các tàu tuần dương Đức, nhưng một tín hiệu bị hiểu sai được truyền đạt từ các tàu chiến-tuần dương Anh đã điều chúng quay trở lại vị trí hộ tống. Sự lẫn lộn này cho phép các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức thoát được, và báo động cho Hipper vị trí của các tàu chiến-tuần dương Anh. Các tàu chiến-tuần dương Đức lượn về phía Đông Bắc lực lượng Anh và thoát đi an toàn.

Trận Dogger Bank

Ngày 23 tháng 1 năm 1915, một lực lượng tàu chiến-tuần dương Đức dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Franz von Hipper lên đường để quét sạch khu vực Dogger Bank khỏi mọi tàu đánh cá hay tàu nhỏ của Anh vốn có thể hiện diện để thu thập tin tức tình báo về các hoạt động của phía Đức. Tuy nhiên, người Anh đã đọc được các bảng mã của đối phương, nên một lực lượng lớn các tàu chiến-tuần dương Anh dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Beatty đã ra khơi để đánh chặn. Cuộc tiếp xúc đầu tiên diễn ra lúc 07 giờ 20 phút ngày 24 tháng 1, khi tàu tuần dương Arethusa phát hiện tàu tuần dương hạng nhẹ Đức Kolberg. Đến 07 giờ 35 phút, phía Đức nhìn thấy lực lượng của Beatty, và Hipper ra lệnh bẻ lái về phía Nam với tốc độ , tin rằng đủ nhanh nếu như đối phương ở về phía Tây Bắc của ông là những thiết giáp hạm Anh, và ông luôn luôn có khả năng tăng lên tốc độ tối đa của Blücher nếu như đó là các tàu chiến-tuần dương Anh.

Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương của mình mở hết tốc độ có thể để bắt kịp các tàu chiến Đức trước khi chúng chạy thoát. Những chiếc dẫn đầu Lion, Princess RoyalTiger, đạt đến khi truy đuổi, và Lion khai hỏa lúc 08 giờ 52 phút ở khoảng cách . Các tàu khác tiếp nối vài phút sau đó, nhưng do ảnh hưởng bởi khoảng cách quá xa và tầm nhìn bị giảm sút, chỉ có thể bắn trúng Blücher phát đầu tiên lúc 09 giờ 09 phút. Bản thân các tàu chiến-tuần dương Đức nổ súng lúc 09 giờ 11 phút ở khoảng cách , và tập trung hỏa lực vào chiếc Lion. Chúng bắn trúng quả đạn pháo đầu tiên lúc 9 giờ 28 phút ở mực nước làm ngập nước một khoang chứa than. Không lâu sau đó một quả đạn pháo từ Blücher đã bắn trúng nóc tháp pháo 'A', gây một vết lỏm và loại bỏ khẩu pháo bên trái trong vòng hai giờ. Đến 09 giờ 35 phút, Beatty ra lệnh "Đối đầu với tàu tương đương trong hàng chiến trận đối phương", nhưng vị chỉ huy của Tiger, Đại tá Pelly, tin rằng Indomitable đã giao chiến cùng với Blücher, nên đã bắn vào Seydlitz giống như chiếc Lion đã làm, để lại Moltke không bị kháng cự và vẫn có thể tiếp tục bắn vào Lion mà không gặp khó khăn. MoltkeDerfflinger phối hợp hỏa lực với nhau để nhằm tiêu diệt Lion trong vòng một giờ sau đó, cho dù Princess Royal đã đối đầu cùng Derfflinger vào lúc này.

Vào lúc đó Blücher đã bị hư hại nặng bởi hỏa lực của tất cả các tàu chiến-tuần dương Anh; tốc độ của nó giảm xuống còn và bánh lái bị kẹt. Beatty ra lệnh cho Indomitable tấn công nó lúc 10 giờ 48 phút; sáu phút sau Beatty trông thấy cái mà ông nghĩ là kinh tiềm vọng của một tàu ngầm bên mạn phải, nên ra lệnh bẻ lái 90° ngay lập tức sang mạn trái để tránh tàu ngầm, cho dù ông đã không giương cờ hiệu "cảnh báo tàu ngầm" do hầu hết dây treo tín hiệu của Lion đã bị bắn bay mất. Hầu như ngay sau đó, Lion bị hỏng chiếc dynamo còn lại do bị tràn nước, làm mất điện và ánh sáng toàn bộ con tàu. Ông ra lệnh "Chuyển hướng Đông Bắc" lúc 11 giờ 02 phút để đưa các con tàu quay lại đuổi theo Hipper. Ông cũng giương hiệu lệnh "Tấn công đoạn hậu đối phương" trên một dây treo tín hiệu khác cho dù không có liên quan gì giữa hai tín hiệu trên. Điều này đã khiến Chuẩn Đô đốc Sir Gordon Moore, tạm thời chỉ huy trên chiếc New Zealand, nghĩ rằng tín hiệu này có nghĩa là tấn công Blücher, vốn cách khoảng về hướng Đông Bắc; nên họ đã tách khỏi việc truy đuổi lực lượng chủ lực của Hipper để tấn công Blücher. Beatty cố gắng sửa chữa sai lầm, nhưng ông tụt lại phía sau cách xa các tàu chiến-tuần dương dẫn đầu, nên các tín hiệu của ông không thể đọc được giữa làn khói đạn pháo và sương mù dày đặc.

Beatty chuyển cờ hiệu của mình sang tàu khu trục Attack lúc 11 giờ 50 phút, và đuổi theo các tàu chiến-tuần dương của mình. Ông bắt kịp chúng không lâu trước khi Blücher bị chìm và chuyển sang chiếc Princess Royal lúc 12 giờ 20 phút. Ông ra lệnh tiếp tục truy đuổi các tàu chiến-tuần dương Đức, nhưng đã hủy bỏ mệnh lệnh khi rõ ràng là đã phí mất quá nhiều thời gian vào việc đánh chìm Blücher, các con tàu của Hipper có thể về đến vùng biển của Đức trước khi lực lượng Anh có thể bắt kịp. Động cơ bên mạn phải của Lion tạm thời phải tắt do nước nạp bị nhiễm mặn, nhưng được tái khởi động trở lại và nó hướng về vùng biển nhà với vận tốc , khi các tàu chiến-tuần dương còn lại bắt kịp nó vào khoảng 12 giờ 45 phút. Đến 14 giờ 30 phút, động cơ bên mạn phải của Lion lại gặp trục trặc và tốc độ bị giảm còn . Indomitable được lệnh kéo Lion trở về cảng lúc 15 giờ 00, nhưng nó phải mất hai giờ và hai lần cố gắng trước khi có thể bắt đầu kéo được Lion, và phải thêm một ngày rưỡi trước khi về đến cảng với vận tốc , ngay cả sau khi động cơ của Lion đã được sửa chữa tạm.

Lion được sửa chữa tạm thời tại Rosyth với gỗ và xi măng trước khi lên đường đi Newcastle upon Tyne để được sửa chữa tại xưởng tàu Palmers. Đó là do Bộ Hải quân Anh không muốn công luận biết rằng nó bị hư hại nặng đến mức cần được sửa chữa tại xưởng tàu Portsmouth hay Devonport, vốn sẽ bị xem là một dấu hiệu của sự thua trận. Nó được đặt nghiêng 8° sang mạn phải trong khi bốn giếng kín nước được đặt từ ngày 9 tháng 2 đến ngày 28 tháng 3 để sửa chữa khoảng vỏ đáy tàu cùng thay thế năm tấm vỏ giáp thép và cấu trúc nâng đỡ của chúng. Nó gia nhập trở lại lực lượng tàu chiến-tuần dương vào ngày 7 tháng 4, và lại đảm nhiệm vai trò soái hạm của Beatty.

Princess Royal đã bắn trúng một phát vào Derfflinger, nhưng chỉ gây hư hại cho các tấm vỏ giáp vốn làm ngập nước một khoang chứa than. Nó cũng bắn trúng Blücher ít nhất hai lần, trong đó có phát trúng đã đánh hỏng nó; nhưng đã bắn tổng cộng đến 271 quả đạn pháo 13,5 inch trong suốt trận chiến, với một tỉ lệ trúng chỉ đạt 0.7%. Nó còn bắn hai quả đạn mảnh 13,5 inch nhắm vào khí cầu Đức L5 khi nó tìm cách ném bom xuống chiếc _Blücher_đang chìm, nhầm nó với một tàu chiến Anh, cho dù góc nâng của các khẩu pháo chỉ có 20°.

Trận Jutland

nhỏ|trái|Tháp pháo 'Q' trên chiếc Lion, cho thấy lớp vỏ giáp bị bong ra do đám cháy đạn pháo|alt=Two-gun turret with front section of armoured roof missing Ngày 31 tháng 5 năm 1916, Princess Royal là soái hạm của Chuẩn Đô đốc Osmond Brock,

Đến đây bắt đầu một quá trình được gọi là đợt "Chạy về phía Nam" khi Beatty đổi hướng sang Đông Đông Nam lúc 15 giờ 45 phút, song song với hướng đi của Hipper, giờ đây ở khoảng cách dưới . Phía Đức khai hỏa trước tiên lúc 15 giờ 48 phút, và được phía Anh đáp trả. Các con tàu Anh vẫn đang còn trong quá trình đổi hướng, chỉ có hai chiếc dẫn đầu đội hình là LionPrincess Royal ổn định được hướng đi khi các tàu Đức nổ súng. Hỏa lực của phía Đức khá chính xác ngay từ đầu, còn phía Anh đã ước lượng quá xa khoảng cách khi các con tàu Đức lẫn khuất trong làn sương mù. LionPrincess Royal đối đầu với Lützow, chiếc dẫn đầu đội hình Đức. Lützow nhắm vào Lion trong khi Derfflinger, chiếc thứ hai trong hàng, đối đầu với Princess Royal, chiếc đối diện với nó. Hỏa lực từ phía hai con tàu Đức khá chính xác, cả LionPrincess Royal đều bị bắn trúng hai lần trong vòng ba phút. Đến 15 giờ 54 phút, khoảng cách giữa hai bên được rút ngắn xuống còn , và Beatty ra lệnh bẻ lái 2 point (22,5°) sang mạn phải để gia tăng khoảng cách giữa hai bên lúc 15 giờ 57 phút.

Lion bắn trúng phát đầu tiên vào Lützow hai phút sau đó, nhưng Lützow đáp trả lúc 16 giờ 00 khi một trong những phát đạn pháo 305 mm của nó bắn trúng tháp pháo 'Q' của Lion ở khoảng cách . Quả đạn pháo xuyên thủng nơi tiếp giáp lớp vỏ thép mặt trước tháp pháo dày 9 inch và lớp nóc dày 3,5 inch, kích nổ ngay giữa khẩu pháo bên trái. Sức ép của vụ nổ bật tung vỏ bọc thép nóc phía trước và phía giữa của mặt trước tháp pháo, làm thiệt mạng hay bị thương toàn bộ nhân sự của tháp pháo, và gây ra một đám cháy cho dù các nỗ lực chữa cháy tin rằng đã dập tắt hoàn toàn được nó. Các chi tiết sau đó được mô tả khác nhau, nhưng cửa hầm đạn đã được đóng và hầm đạn được làm cho ngập nước khi đám cháy tiếp tục âm ỉ đã kích nổ tám liều thuốc phóng trong phòng đạn pháo lúc 16 giờ 28 phút. Chúng bùng cháy dữ dội, ngọn lửa bốc cao đến tận đầu cột ăn-ten, và đã giết chết hầu hết nhân sự của hầm đạn và phòng đạn pháo còn kẹt lại bên dưới. Sức hơi ép đã làm bung cánh cửa của hầm đạn, và hầm đạn đã có thể phát nổ nếu đã không làm ngập nước. Thiếu tá Francis Harvey, người chỉ huy tháp pháo bị tử thương, đã được truy tặng Huân chương Chữ thập Victoria do đã ra lệnh làm ngập nước hầm đạn.

Đến 16 giờ 11 phút, Princess Royal trông thấy đường đi của một quả ngư lôi được Moltke phóng ra, băng qua bên dưới lườn tàu của nó, nhưng lại cho rằng xuất phát từ một tàu ngầm U-boat ở phía đối diện. Điều này lại được xác nhận khi tàu khu trục Landrail báo cáo trông thấy một kính tiềm vọng trước khi phát hiện đường đi của quả ngư lôi. Khoảng cách giữa hai bên đã trở nên quá xa để có thể bắn chính xác, nên Beatty đổi hướng 4 point (45°) sang mạn trái để rút ngắn khoảng cách từ 16 giờ 12 phút đến 16 giờ 15 phút. Sự cơ động này đã bộc lộ Lion ra trước hỏa lực của các tàu chiến-tuần dương Đức, và nó bị bắn trúng nhiều phát. Khói và lửa do những cú bắn trúng này khiến Derfflinger mất dấu Princess Royal, nên nó chuyển hỏa lực sang chiếc Queen Mary lúc 16 giờ 16 phút. Đến 16 giờ 25 phút, khoảng cách được rút ngắn xuống còn , và Beatty ra lệnh bẻ lái 2 point sang mạn phải để gia tăng khoảng cách một lần nữa. Tuy nhiên, việc cơ động này đã quá trễ đối với Queen Mary, nó bị bắn trúng nhiều lần liên tiếp và hầm đạn phía trước của nó nổ tung. Lúc 16 giờ 30 phút, tàu tuần dương hạng nhẹ Southampton, đi trinh sát phía trước các tàu chiến của Beatty, nhìn thấy các đơn vị của Hạm đội Biển khơi hướng lên phía Bắc với tốc độ tối đa. Ba phút sau, nó trông thấy cột ăn-ten của các thiết giáp hạm dưới quyền Phó Đô đốc Reinhard Scheer, nhưng đã chần chừ không báo cáo cho đến năm phút sau. Beatty tiếp tục tiến về phía Nam thêm hai phút nữa để xác định báo cáo về đối phương trước khi ra lệnh cho lực lượng dưới quyền quay lên phía Bắc. Trong quá trình "Chạy về phía Nam", Princess Royal bị Derfflinger bắn trúng tổng cộng sáu lần, nhưng may mắn là không có phát nào nghiêm trọng.

Lion còn bị bắn trúng thêm hai lần nữa, trong quá trình được gọi là đợt "Chạy về phía Bắc", sau khi các tàu chiến-tuần dương Đức cũng quay mũi sang hướng Bắc để truy đuổi. Các con tàu của Beatty duy trì tốc độ tối đa, cố tạo ra khoảng cách giữa chúng và Hạm đội Biển khơi, và dần dần vượt ra khỏi tầm bắn. Chúng hướng lên phía Bắc, rồi Đông Bắc, tìm cách gặp gỡ thành phần chủ lực của Hạm đội Grand, và đến 17 giờ 40 phút lại nổ súng vào đối thủ Đức. Ánh sáng ngược khi mặt trời lặn đã che mắt các pháo thủ Đức nên họ không thể xác định các con tàu Anh, và đổi sang hướng Đông Bắc lúc 17 giờ 47 phút. Beatty dần dần chuyển về hướng Đông để các con tàu của ông có thể bảo vệ quá trình bố trí của Hạm đội Grand thành đội hình chiến trận; nhưng ông đã tính toán sai thời gian việc cơ động của mình, buộc các đơn vị Anh dẫn đầu cơ động về hướng Đông tách xa khỏi lực lượng Đức. Lúc 18 giờ 35 phút, Beatty đi theo sau Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 3 khi chúng dẫn đầu Hạm đội Grand về hướng Đông Đông Nam, và tiếp tục đối đầu với các tàu chiến-tuần dương của Hipper về phía Tây Nam. Vài phút trước đó, Scheer đã ra lệnh một cú đổi hướng đồng loạt 180° sang mạn phải, và Beatty mất dấu đối phương trong làn sương mù.

Lúc 18 giờ 44 phút, Beatty đổi hướng các con tàu của mình sang hướng Đông Nam, rồi sang Nam Đông Nam bốn phút sau đó, để tìm kiếm lực lượng của Hipper. Beatty nhân cơ hội này ra lệnh cho hai chiếc tàu còn lại của Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 3 chiếm lấy vị trí phía sau New Zealand rồi giảm tốc độ xuống còn và đổi hướng về phía Nam để tránh không bị tách xa khỏi Hạm đội Grand. Vào lúc này con quay la bàn của Lion bị hỏng, và nó đi hết một vòng tròn rộng trước khi bánh lái của nó được kiểm soát trở lại. Đến 18 giờ 55 phút, Scheer ra lệnh một cú đổi hướng 180° khác, đưa các con tàu Đức vào một hướng đi hội tụ để đối đầu với Hạm đội Grand, vốn đã đổi hướng về phía Nam. Điều này cho phép Hạm đội Grand cắt ngang chữ T lực lượng của Scheer và gây hư hại đáng kể cho các chiếc dẫn đầu. Scheer ra lệnh một cú đổi hướng 180° nữa lúc 19 giờ 13 phút trong một nỗ lực nhằm giải thoát Hạm đội Biển khơi khỏi cái bẫy mà sự cơ động của ông đã tạo ra. nhỏ|phải|Lion bị đạn pháo bắn trúng trong Trận Jutland|alt=Large ship at sea billowing dark smoke Cú cơ động này đã thành công và phía Anh mất dấu các con tàu Đức cho đến 20 giờ 05 phút, khi Castor phát hiện khói ở hướng Tây Tây Bắc; mười phút sau nó tiếp cận, phát hiện nhiều tàu phóng lôi Đức và giao chiến cùng với chúng. Nghe thấy tiếng súng, Beatty ra lệnh cho các tàu dưới quyền quay mũi sang hướng Tây, và phát hiện các tàu chiến-tuần dương Đức chỉ cách có . Inflexible nổ súng lúc 20 giờ 20 phút, được nối tiếp hầu như ngay lập tức bởi các tàu chiến-tuần dương còn lại. Không lâu sau 20 giờ 30 phút, các thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc Hải đội Chiến trận 2 dưới quyền Chuẩn Đô đốc Mauve bị phát hiện, và hỏa lực chuyển sang nhắm vào mục tiêu mới. Các tàu Đức chỉ nổ súng vài loạt đạn do tầm nhìn kém rồi quay mũi về phía Tây; các tàu chiến-tuần dương Anh bắn trúng đối thủ nhiều phát trước khi chúng biến mất vào làn sương mù lúc khoảng 20 giờ 40 phút. Sau đó Beatty chuyển hướng sang Nam Đông Nam và duy trì hướng đi này, dẫn trước cả Hạm đội Grand lẫn Hạm đội Biển khơi, cho đến 02 giờ 55 phút rạng sáng ngày 1 tháng 6 vào lúc có mệnh lệnh đổi hướng quay về nhà.

Lion, Princess Royal và các tàu chiến-tuần dương còn lại về đến Rosyth sáng ngày 2 tháng 6 năm 1916, nơi Lion được bắt đầu sửa chữa vốn kéo dài cho đến ngày 19 tháng 7. Phần còn lại của tháp pháo 'Q' được tháo dỡ, và nó không được thay thế mãi cho đến sau này. Nó bị bắn trúng tổng cộng mười bốn lần, chịu thương vong 99 người thiệt mạng và 51 người khác bị thương trong suốt trận chiến. Nó đã bắn 326 quả đạn pháo từ dàn pháo chính, nhưng chỉ bắn trúng Lützow bốn phát cùng một phát trên chiếc Derfflinger. Nó cũng đã bắn bảy quả ngư lôi: bốn nhắm vào các thiết giáp hạm, hai nhắm vào Derfflinger và một vào tàu tuần dương hạng nhẹ Wiesbaden nhưng tất cả đều không thành công.

Khi về đến Rosyth, Princess Royal bắt đầu được sửa chữa vốn kéo dài cho đến ngày 10 tháng 6. Nó lên đường đi Plymouth vào ngày hôm đó, nơi các công việc sửa chữa triệt để khác được tiến hành và kéo dài cho đến ngày 15 tháng 7, trước khi nó quay trở lại Rosyth vào ngày 21 tháng 7. Nó bị bắn trúng chín lần trong quá trình trận chiến: sáu phát từ Derfflinger, hai phát từ Markgraf và phát còn lại từ Posen; khiến 22 người thiệt mạng và 81 người khác bị thương. Nó chỉ bắn 230 quả đạn pháo từ dàn pháo chính, bởi tầm nhìn của nó hầu như bị khói và lửa trên chiếc Lion che khuất, và chỉ ghi được ba phát trúng trên Lützow cùng hai phát trúng vào Seydlitz. Nó cũng đã bắn một quả ngư lôi vào các thiết giáp hạm tiền-dreadnought Đức mà không thành công. Trong suốt ngày 19 tháng 8, Jellicoe và Scheer nhận được những tin tức tình báo mâu thuẫn với nhau, vốn đưa đến hậu quả là trên đường đi đến điểm gặp gỡ tại Bắc Hải, Hạm đội Grand chuyển hướng lên phía Bắc do tin tưởng sai lầm là đang tiến vào một bãi mìn trước khi quay lại hướng Nam. Riêng Scheer lại bẻ lái về hướng Đông Nam để săn đuổi cái mà ông tin là một hải đội chiến trận Anh đơn độc được một khí cầu Đức phát hiện, nhưng thực ra chỉ là Lực lượng Harwich dưới quyền Thiếu tướng Hải quân Reginald Tyrwhitt. Nhận ra sai lầm, phía Đức đổi hướng quay trở về cảng nhà. Tiếp xúc duy nhất giữa hai phía là vào lúc chiều tối khi Tyrwhitt nhìn thấy Hạm đội Biển khơi, nhưng không thể đi đến một vị thế tấn công thuận tiện trước khi trời tối, nên đã tách ra khỏi trận chiến. Cả hai hạm đội Anh và Đức đều quay trở về nhà, phía Anh bị mất hai tàu tuần dương do các cuộc tấn công bằng tàu ngầm còn phía Đức có một thiết giáp hạm dreadnought bị hư hại bởi ngư lôi.

Lion trở thành soái hạm của Phó Đô đốc W. C. Pakenham vào tháng 12 năm 1916, khi ông kế nhiệm chức vụ Tư lệnh Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1, do Beatty được đề bạt lên chỉ huy Hạm đội Grand. Khi Hạm đội Biển khơi đi đến Scapa Flow vào ngày 21 tháng 11 năm 1918 để bị lưu giữ, Lion nằm trong thành phần tàu chiến Đồng Minh hộ tống. Cùng với phần còn lại của Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1, LionPrincess Royal đã canh gác các con tàu bị lưu giữ cho đến khi cả hai được phân về Hạm đội Đại Tây Dương Anh Quốc vào tháng 4 năm 1919.

Số phận

Lion được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 3 năm 1920, được cho ngừng hoạt động vào ngày 30 tháng 3 năm 1922 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 31 tháng 1 năm 1924 với trị giá 77.000 Bảng Anh. Princess Royal được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1920, và một cuộc thương lượng nhằm bán nó cho Chile vào giữa năm đó đã không thành công. Nó trở thành soái hạm của Tổng tư lệnh Duyên hải Scotland vào ngày 22 tháng 2 năm 1922, nhưng rồi bị bán để tháo dỡ vào tháng 12 năm 1922. Cả hai chiếc đều phải tháo dỡ nhằm tuân thủ hạn ngạch về tải trọng tàu chiến do Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Kongō**_ (tiếng Nhật: 金剛型巡洋戦艦 - Kongō-gata junyōsenkan) là một lớp gồm bốn chiếc tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng được nâng cấp đáng kể thành những
**HMS _Lion**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, vốn được đặt tên lóng là những "Con mèo Tráng lệ" (Splendid Cats).
**HMS _Queen Mary**_ là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Thiết kế của
**HMS _Princess Royal**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Là chiếc thứ hai trong lớp _Lion_ bao gồm hai chiếc, nó được
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**HMS _New Zealand**_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp _Indefatigable_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được hạ
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**HMS _Tiger_ (1913)** là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Được chế
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**HMS _Indomitable**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Invincible_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã hoạt động tích cực trong cuộc
**HMS _Invincible**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó bao gồm ba chiếc, và là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu
Mười tám tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Lion**_, theo tên sư tử, vốn cũng là một hình tượng biểu trưng cho Anh Quốc và Scotland: *
**HMS _Inflexible**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Invincible_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã hoạt động tích cực trong cuộc
**HMS _Indefatigable**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp _Indefatigable_, một phiên bản mở rộng so với lớp _Invincible_ dẫn trước, được cải thiện
**SMS _Lützow**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ hai thuộc lớp _Derfflinger_ của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Được đặt hàng
**Lớp tàu tuần dương trực thăng _Tiger**_ là lớp đầu tiên loại này của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và cũng là những tàu tuần dương cuối cùng được chế tạo cho Hải quân
**SMS _Blücher**_ là chiếc tàu tuần dương bọc thép cuối cùng được Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) chế tạo. Được thiết kế để bắt kịp với những gì mà tình báo Đức tin
**Lớp _Lion**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm được thiết kế cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nhưng chỉ có hai chiếc được đặt lườn ngay trước khi Chiến tranh Thế giới
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Lớp _King George V**_ (lấy tên theo vua George đệ ngũ của Anh_)_ là lớp thiết giáp hạm áp chót được hoàn tất bởi Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Năm chiếc thuộc lớp này
**Lớp thiết giáp hạm _Revenge**_ bao gồm năm thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh, được đặt hàng vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp mở màn, và
**HMS _Lion_ (C34)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nguyên được đặt hàng như một chiếc thuộc lớp _Minotaur_ vào năm 1942, nó được đặt lườn cùng
Năm tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Princess Royal**_ (Công chúa Hoàng gia): * HMS _Princess Royal_ (1682) là một tàu chiến tuyến hạng hai 90 khẩu
**SMS _König**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. König (tiếng Đức, nghĩa là Quốc vương) được
**SMS _Prinzregent Luitpold**_, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính Luitpold của Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong
**HMS _Vanguard_ (23)** là một thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai và chỉ được đưa vào
**HMS _Audacious**_ là một thiết giáp hạm dreadnought thuộc lớp _King George V_ thứ nhất được Hải quân Hoàng gia chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó bị đánh chìm do
**USS _Sproston_ (DD-577/DDE-577)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**HMS _Virago_ (R75/F76)** là một tàu khu trục lớp V được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh để phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**Paul Joseph Goebbels** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Giô-xép Gơ-ben** (; (29 tháng 10 năm 1897 – 1 tháng 5 năm 1945) là một chính trị gia người Đức giữ chức
**HMS _Revenge_ (06)** là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm Anh Quốc _Revenge_; là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải quân Hoàng gia mang cái tên này. Nó từng tham gia trận
**Louis Francis Albert Victor Nicholas Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ nhất của Miến Điện** (tên khai sinh là Hoàng tử Louis của Battenberg; 25 tháng 6 năm 1900 – 27 tháng 8 năm 1979), là
**Jakarta** (phiên âm tiếng Việt: **Gia-các-ta**, ), tên đầy đủ là **Tỉnh Đặc khu Thủ đô Jakarta** (tiếng Indonesia: _Propinsi Daerah Khusus Ibukota Jakarta_, viết tắt là _Propinsi DKI Jakarta_ hoặc _DKI Jakarta_), là thủ
nhỏ|300x300px|Một chiếc xe tăng hành trình Các xe **tăng hành trình** (tiếng Anh: _cruiser tank_), còn gọi là **xe tăng kỵ binh** hoặc **xe tăng cơ động, xe tăng trinh sát, xe tăng tuần sát**
**James VI và I** (19 tháng 6 năm 1566 – 27 tháng 3 năm 1625) là vua Scotland với vương hiệu là **James VI**, và là vua Anh và vua Ireland với vương hiệu là
**Richard I** (8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Quốc vương nước Anh từ 6 tháng 7 năm 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy,
thumb|[[Magic Kingdom của Walt Disney World tại Florida – Lâu đài Cinderella, biểu tượng của công viên.]] thumb|Lối vào chính của [[Warner Bros. Movie World ở Queensland, Úc.]] thumb|Vườn thú [[Unity Park tại Addis Ababa,
- còn được gọi là series **Câu chuyện của Ác ma** là một series Video âm nhạc sử dụng phần mềm tổng hợp giọng nói Vocaloid của Yamaha. Tới thời điểm hiện tại, series đã
**Khách sạn Sofitel Legend Metropole Hanoi** (trước đây là **Grand Métropole Hotel**), mở cửa năm 1901 tại Hà Nội, thủ đô Liên bang Đông Dương là khách sạn năm sao sang trọng mang trong mình
nhỏ|phải|Những con [[Bò tót Tây Ban Nha|bò tót sẽ điên tiết và húc thẳng vào bất cứ thứ gì màu đỏ, đây là một định kiến phổ biến, trên thực tế, bò bị mù màu,
**_Tarzan_** là một vở nhạc kịch dựa trên bộ phim cùng tên của Walt Disney Animation Studios năm 1999. Các bài hát được viết bởi Phil Collins, tác giả của quyển sách cùng tên là
**James Douglas Morrison** (sinh ngày 8 tháng 12 năm 1943 tại Melbourne, Florida; mất ngày 3 tháng 7 năm 1971 tại Paris) là ca sĩ, người sáng tác ca khúc, viết nhạc cũng là một