✨SMS Seydlitz

SMS Seydlitz

SMS _Seydlitz_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910 và đưa ra hoạt động vào tháng 5 năm 1913, nó là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ tư được chế tạo cho Hạm đội Biển khơi. Seydlitz được đặt tên theo Friedrich Wilhelm von Seydlitz, vị tướng Phổ vào triều đại vua Frederick đại đế và từng phục vụ trong cuộc Chiến tranh bảy năm.

Thiết kế của Seydlitz phản ảnh sự tích lũy kinh nghiệm trong thế hệ đầu tiên của các tàu chiến-tuần dương Đức, khởi đầu từ chiếc Von der Tann vào năm 1906 và tiếp nối bởi hai chiếc thuộc lớp Moltke được đặt hàng vào các năm 1907 và 1908. Seydlitz mang nhiều đặc tính được cải thiện so với các thiết kế dẫn trước, bao gồm hệ thống động lực được thiết kế lại và cải tiến sơ đồ vỏ giáp. Con tàu cũng lớn hơn đáng kể so với những chiếc tiền nhiệm, nặng hơn khoảng so với những chiếc thuộc lớp Moltke.

Seydlitz tham gia nhiều hoạt động chính của hạm đội trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, bao gồm các trận Dogger Bank và Jutland tại Bắc Hải. Con tàu bị hư hại đáng kể trong cả hai trận đụng độ trên: trong trận Dogger Bank, một quả đạn pháo từ chiếc tàu chiến-tuần dương Anh Lion đã trúng tháp pháo tận cùng phía đuôi của Seydlitz, suýt gây nên một vụ nổ hầm đạn vốn sẽ phá hủy con tàu. Đến trận Jutland , nó bị bắn trúng 21 lần bởi các quả đạn pháo hạng nặng, trong đó một quả đã xuyên thủng phòng tiếp đạn của tháp pháo bắn thượng tầng phía sau. Mặc dù hậu quả của đám cháy đã phá hủy tháp pháo, các biện pháp an toàn được đề ra sau trận Dogger Bank đã ngăn ngừa một tảm họa tồi tệ. Con tàu còn trúng một quả ngư lôi trong trận chiến, khiến ngập khoảng nước và độ nổi của con tàu bị giảm mất . Nó phải áp dụng nhiều biện pháp giảm trọng lượng để có thể vượt qua Jadebusen. Tuy nhiên, Seydlitz cũng gây thiệt hại đáng kể cho các đối thủ Anh; vào đầu trận chiến, các loạt đạn pháo từ SeydlitzDerfflinger đã phá hủy tàu chiến-tuần dương Anh Queen Mary chỉ trong vòng vài giây. Con tàu cũng có những hoạt động giới hạn tại biển Baltic, khi nó hộ tống cho chi hạm đội Đức trong Trận chiến vịnh Riga vào năm 1915.

Giống như tất cả các tàu chiến-tuần dương Đức sống sót qua cuộc chiến tranh, Seydlitz bị lưu giữ tại Scapa Flow vào năm 1918. Cùng với phần còn lại của Hạm đội Biển khơi Đức, nó bị đánh đắm vào tháng 6 năm 1919 nhằm ngăn không cho Hải quân Hoàng gia Anh chiếm hữu. Seydlitz được cho nổi trở lại vào ngày 2 tháng 11 năm 1928 và bị tháo dỡ vào năm 1930 tại Rosyth.

Phát triển

nhỏ|phải|Seydlitz trong ụ tàu nổi tại [[Kiel trước chiến tranh|alt=A large ship in a drydock, surrounded by construction equipment.]] Cho dù thiết kế của các tàu chiến-tuần dương Đức trước đây như Von der Tann và hai chiếc thuộc lớp Moltke, vẫn có sự tranh luận đáng kể về thiết kế của những con tàu mới. Vào năm 1909, Văn phòng Vũ trang Hải quân Đế quốc (Reichsmarineamt) yêu cầu Đô đốc Alfred von Tirpitz cung cấp những đặc tính cải tiến cần cho việc thiết kế lớp tàu chiến-tuần dương tiếp theo. Đô đốc Tirpitz tiếp tục giữ quan điểm sử dụng chúng thuần túy như những tàu trinh sát cho hạm đội và tiêu diệt tàu tuần dương đối phương. Ngược lại, Kaiser Wilhelm II cùng đa số thành viên trong Bộ hải quân cho rằng do sự yếu kém về số lượng của Đức so với Hải quân Hoàng gia Anh, các con tàu này cần có khả năng tác chiến trong hàng chiến trận. Cuối cùng quan điểm của Kaiser và Bộ Hải quân đã thắng thế, nên chiếc tàu chiến-tuần dương chế tạo cho Tài khóa 1909-1910 vẫn tiếp tục xu hướng thiết kế của các lớp Von der TannMoltke trước đó.

Khó khăn về tài chính đã buộc phải có sự thỏa hiệp giữa tốc độ, khả năng tác chiến và tải trọng. Các đặc tính thiết kế ban đầu bắt buộc tốc độ phải đạt ít nhất ngang với lớp Moltke, và con tàu được trang bị tám khẩu pháo hoặc mười khẩu pháo . Nhóm thiết kế cũng đã cân nhắc đến tháp pháo ba nòng, nhưng ý định này bị hủy bỏ sau khi có quyết định các tháp pháo 280 mm nòng đôi là đủ.

Thiết kế

Các đặc tính chung

Seydlitz có chiều dài ở mực nước, và chiều dài chung là . Con tàu có mạn thuyền rộng , và sẽ tăng lên nếu được trang bị lưới chống ngư lôi; nó có độ sâu của mớn nước ở phía trước và ở phía sau. Seydlitz được thiết kế với trọng lượng choán nước bình thường , và lên đến khi đầy tải; nó có một đáy kép chiếm 76% chiều dài con tàu. Chiếc tàu chiến mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm bao gồm một xuồng gác, ba xuồng chỉ huy, hai xuồng đổ bộ, hai xuồng yawl và hai xuồng nhỏ.

Seydlitz được mô tả như một con tàu đi biển tốt, chuyển động nhẹ nhàng. Con tàu bị mất cho đến 60% tốc độ khi bẻ lái gắt, và nghiêng cho đến 9°. Thủy thủ đoàn tiêu chuẩn bao gồm 43 sĩ quan và 1.025 thủy thủ, và khi phục vụ như là soái hạm của Đội Tuần tiễu 1, nó được bổ sung thêm 13 sĩ quan và 62 thủy thủ.

Động lực

Hệ thống động lực của Seydlitz bao gồm 27 nồi hơi ống nước nhỏ Schulz-Thornycroft với 52 lò đốt, được chia thành ba phòng động cơ. Chúng cung cấp hơi nước cho hai bộ turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp; mỗi bộ bao gồm một turbine áp lực cao phía ngoài, rồi hơi nước thoát ra tiếp tục đi vào một turbine áp lực thấp phía trong. Mỗi turbine dẫn động một chân vịt ba cánh đường kính ; việc chuyển hướng được thực hiện bằng một cặp bánh lái. đặt trên năm tháp pháo nòng đôi. Các khẩu pháo cũng được bố trí theo sơ đồ tương tự, với một tháp pháo phía trước, hai tháp pháo mạn đặt so le và hai tháp pháo bắn thượng tầng phía đuôi. Dàn pháo chính được cung cấp 87 quả đạn pháo xuyên thép cho mỗi khẩu pháo, lên đến tổng cộng 870 quả đạn.

Lịch sử hoạt động

Trước chiến tranh

Seydlitz được hạ thủy vào ngày 30 tháng 3 năm 1912, và được đỡ đầu bởi tướng kỵ binh von Kleist. Vào ngày 22 tháng 5 năm 1913 con tàu được đưa ra hoạt động cùng Hạm đội Đức, được vận hành bởi thủy thủ đoàn của chiếc tàu tuần dương bọc thép cũ Yorck, vốn vừa mới được đưa về hạm đội dự bị.

Cùng với những tàu chiến-tuần dương còn lại của Đội Tuần tiễu 1, Seydlitz đặt căn cứ tại Wilhelmshaven Roads vào buổi sáng ngày diễn ra trận chiến. Lúc 08 giờ 50 phút, Hipper xin phép Đô đốc Friedrich von Ingenohl, Tổng tư lệnh Hạm đội Biển khơi, để gửi các tàu chiến-tuần dương của mình đến trợ giúp các tàu tuần dương Đức đang bị vây hãm. Các tàu chiến-tuần dương MoltkeVon der Tann sẵn sàng lên đường lúc 12 giờ 10 phút, tuy nhiên, các con tàu bị mắc lại do thủy triều thấp, vốn ngăn trở các tàu chiến-tuần dương vượt qua một cách an toàn bãi cạn ở cửa sông Jadebusen. Mãi đến 14 giờ 10 phút, MoltkeVon der Tann mới có thể băng qua cồn cát, và Hipper ra lệnh cho các tàu tuần dương Đức rút lui về phía sau hai chiếc tàu chiến hạng nặng, trong khi bản thân Hipper bị tụt lại khoảng một giờ phía sau trên chiếc Seydlitz. Đến 14 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ còn lại Strassburg, Stettin, Frauenlob, StralsundAriadne gặp gỡ các tàu chiến-tuần dương. Seydlitz đến được chiến trường lúc 15 giờ 10 phút, Ariadne không chịu nổi các hư hại trong chiến đấu và bị đắm. Hipper tiến lên phía trước một cách thận trọng để truy tìm hai tàu tuần dương hạng nhẹ bị mất tích MainzKöln, vốn đã bị đánh chìm trong trận chiến trước đó. Đến 16 giờ 00, hải đội Đức bắt đầu rút lui về Jade Estuary, đến nơi vào khoảng 20 giờ 23 phút.

Bắn phá Yarmouth

Vào lúc 16 giờ 30 ngày 2 tháng 11 năm 1914, trong vai trò soái hạm của Hipper, Moltke, cùng với Seydlitz, Von der Tann, tàu tuần dương bọc thép Blücher và bốn tàu tuần dương hạng nhẹ Strassburg, Graudenz, KolbergStralsund đã rời Jade Estuary hướng lên phía Bắc theo một vòng cung để tránh Heligoland cùng các tàu ngầm Anh được bố trí tại đây, rồi gia tăng tốc độ lên 18 knot hướng sang bờ biển Anh Quốc. Hải đội đi đến ngoài khơi Great Yarmouth lúc bình minh ngày hôm sau và bắt đầu bắn phá cảng, trong khi chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Stralsund tiến hành rải mìn. Tàu ngầm Anh D5 đã đáp trả lại cuộc tấn công, nhưng nó trúng phải một quả thủy lôi do Stralsund cài và bị chìm. Không lâu sau đó, Hipper ra lệnh cho các con tàu của mình quay trở về vùng biển Đức. Tuy nhiên, lúc quay về, một làn sương mù dày đặc bao phủ Heligoland Bight, nên các con tàu được lệnh chờ cho đến khi đến khi tầm nhìn được cải thiện để chúng có thể đi qua an toàn các bãi mìn phòng thủ. Tàu tuần dương bọc thép Yorck rời Jade mà không được phép, và trên đường đi Wilhelmshaven đã phạm sai lầm trong dẫn đường, đi ngay vào một bãi mìn Đức. Yorck trúng hai quả thủy lôi và chìm nhanh chóng; chiếc hải phòng hạm Hagen cứu được 127 người trong số thủy thủ đoàn của nó. Các con tàu của Hipper di chuyển lên phía Bắc, vượt qua Heligoland để đi đến hải đăng Horns Reef, nơi chúng chuyển hướng sang phía Tây hướng đến Scarborough. Mười hai giờ sau khi Hipper khởi hành, phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi, bao gồm 14 chiếc thiết giáp hạm dreadnought và 8 thiết giáp hạm tiền-dreadnought cùng một lực lượng hộ tống gồm 2 tàu tuần dương bọc thép, 7 tàu tuần dương hạng nhẹ và 54 tàu phóng lôi lên đường để hỗ trợ từ xa.

Trong đêm 15 tháng 12, thành phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi Đức đã đụng độ với tàu khu trục Anh. Lo sợ một cuộc tấn công bằng ngư lôi ban đêm, Đô đốc Ingenohl ra lệnh cho các con tàu rút lui. Trong khi bắn phá Hartlepool, Seydlitz bị bắn trúng ba lần còn Blücher trúng sáu phát bởi các khẩu pháo phòng thủ duyên hải. Seydlitz chỉ bị hư hại nhẹ và không bị thương vong. Sơ đồ vị trí của Hạm đội Biển khơi Đức vào sáng ngày [[16 tháng 12|alt=Map showing the locations of the British and German fleets; the German light cruisers pass between the British battleship and battlecruiser forces while the German battlecruisers steam to the northeast. The German battleships lie to the east of the other ships.]] Vào lúc này, các tàu chiến-tuần dương của Beatty đã ở vào vị trí ngăn chặn con đường mà Hipper lựa chọn để rút lui, trong khi các lực lượng khác đang trên đường tiến đến để hoàn thành việc bao vây. Đến 12 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải đội Tuần tiễu 2 bắt đầu băng qua lực lượng Anh để tìm kiếm lực lượng của Hipper. Một trong các tàu tuần dương của Hải đội Tuần dương nhẹ 1 phát hiện Stralsund và gửi một thông báo đến Beatty. Lúc 12 giờ 30 phút, Beatty đổi hướng các tàu chiến-tuần dương dưới quyền về phía các con tàu Đức, dự đoán rằng các tàu tuần dương Đức là lực lượng tiên phong bảo vệ cho các con tàu của Hipper; nhưng thực ra các tàu chiến-tuần dương Đức còn ở cách về phía trước. Hải đội Tuần tiễu 2 vốn đang bảo vệ cho các con tàu của Beatty đã được cho tách ra để truy đuổi các tàu tuần dương Đức; nhưng do việc diễn dịch sai tín hiệu từ các tàu chiến-tuần dương Anh đã gửi chúng quay trở lại vị trí hộ tống. Sự nhầm lẫn này cho phép các tàu tuần dương nhẹ Đức chạy thoát và báo động cho Hipper vị trí của các tàu chiến-tuần dương Anh. Các tàu chiến Đức lẻn về phía Đông Bắc lực lượng Anh và đã chạy thoát. Lịch sử chính thức của Hải quân Đức phê phán Ingenohl đã không sử dụng lực lượng hạng nhẹ của mình để thăm dò quy mô lực lượng của hạm đội Anh, cho rằng: "Ông đưa ra quyết định không chỉ gây nguy hại đáng kể cho lực lượng phía trước ngoài khơi bờ biển Anh, mà còn cất đi khỏi Hạm đội Đức một thắng lợi chắc chắn và đáng kể." Ngày 23 tháng 1, Hipper khởi hành với cờ hiệu của mình trên chiếc Seydlitz, được tiếp nối bởi Moltke, DerfflingerBlücher cùng các tàu tuần dương hạng nhẹ Graudenz, Rostock, StralsundKolberg và 19 tàu phóng lôi thuộc các chi hạm đội 2, 5 và bán-chi hạm đội 18. GraudenzStralsund được phái đi hộ tống phía trước hải đội, trong khi RostockKolberg lần lượt được phân sang mạn phải và mạn trái tương ứng, mỗi tàu tuần dương hạng nhẹ có một bán-chi hạm đội tàu phóng lôi phối thuộc. Aurora khiêu khích Kolberg bằng một đèn pha, vào lúc mà Kolberg tấn công Aurora và ghi được hai phát trúng đích. Aurora bắn trả và cũng bắn trúng đối phương hai phát. Hipper lập tức cho chuyển hướng các tàu chiến-tuần dương của mình đến nơi nổ súng, trong khi hầu như đồng thời vào lúc đó, Stralsund trông thấy một lượng khói lớn về phía Tây Bắc vị trí của nó. Đây được xác định là một số lượng tàu chiến lớn đang hướng về phía các con tàu của Hipper. Lúc 10 giờ 30 phút, New Zealand, chiếc thứ tư trong hàng chiến trận của Beatty, tiếp cận Blücher trong tầm bắn và bắt đầu nổ súng; đến 10 giờ 35 phút, khoảng cách được rút ngắn xuống còn , khi toàn bộ hàng chiến trận Đức nằm trong tầm bắn hiệu quả của các tàu chiến Anh. Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương của mình nổ súng vào đối thủ Đức tương ứng đối diện song song. Tuy nhiên, sự lẫn lộn bên trên chiếc Tiger đã khiến thuyền trưởng của nó tin rằng nó phải nhắm vào Seydlitz, khiến cho Moltke hoàn toàn tự do để bắn mà không bị ngăn trở.

Trong phòng nạp đạn pháo, nơi quả đạn pháo bắn trúng xuyên thủng, một phần liều thuốc phóng đang sẵn sàng để nạp bị bắt lửa. Ngọn lửa bốc cao lên đến tháp pháo và lan xuống phòng đạn pháo, rồi lan qua một khung cửa vốn phải được đóng kín, là đường mà các pháo thủ trong phòng đạn pháo tìm cách thoát sang tháp pháo phía trước. Đám cháy đã tìm đường lan rộng sang phòng đạn pháo bên kia, rồi đến tháp pháo thứ hai, và do đó làm cho toàn bộ thành viên khẩu đội của cả hai tháp pháo nhanh chóng bị tiêu diệt. Ngọn lửa bốc cao lên đến gần bằng một tòa nhà bên trên các tháp pháo. Thượng sĩ Wilhelm Heidkamp đã bị thương nặng khi ông dùng tay quay những van đang nóng đỏ rực để làm ngập nước hầm đạn. Lúc 11 giờ 01 phút, _Seydlitz_ bắn trả trúng _Lion_ bằng một quả đạn pháo , làm hỏng hai động cơ của _Lion_. Không lâu sau đó, hai quả đạn pháo từ _Derfflinger_ lại đánh trúng _Lion_, một quả trúng bên trên mực nước. Cú đánh trúng làm tràn nước biển vào thùng cấp nước bên mạn trái, cuối cùng đã đánh hỏng _Lion_, vì việc nhiễm nước mặn đã buộc thủy thủ phải tắt động cơ bên mạn trái. Đến 11 giờ 25 phút, _Seydlitz_ lại bị bắn trúng phát thứ ba, cũng là phát trúng cuối cùng, vào đai giáp giữa tàu, nhưng chỉ gây hư hại nhẹ. Đúng lúc đó, máy phát điện duy nhất còn hoạt động của _Lion_ bị hỏng, làm giảm tốc độ của nó xuống còn . Bên trên chiếc _Lion_ bị hỏng hóc, Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương còn lại "Tấn công đoạn hậu đối phương", nhưng sự nhầm lẫn trong việc truyền tín hiệu đã khiến các con tàu chỉ tập trung hỏa lực nhắm vào _Blücher_, cho phép _Moltke_, _Seydlitz_ và _Derfflinger_ chạy thoát. Vào lúc Beatty nắm trở lại sự chỉ huy các con tàu của mình sau khi chuyển sang chiếc _Princess Royal_, các con tàu Đức đã ở quá xa để có thể bắt kịp; nên đến 13 giờ 50 phút, ông từ bỏ việc truy đuổi.

Seydlitz được sửa chữa tại xưởng tàu Kaiserliche Werft ở Wilhelmshaven từ ngày 25 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 1915, sau đó nó gia nhập trở lại hạm đội. Trong suốt chiến dịch, Seydlitz và hai tàu chiến-tuần dương còn lại ở ngoài biển Baltic hỗ trợ từ xa cho các hoạt động xâm nhập vịnh Riga. Các đơn vị hạng nặng của Hạm đội Biển khơi lên đường lúc 13 giờ 40 phút, với mục đích hỗ trợ từ xa cho các con tàu của Bödicker. Bộ Hải quân Anh đã biết được việc xuất quân của Đức nhờ thu thập tình báo vô tuyến, nên đã cho bố trí Hạm đội Grand lúc 15 giờ 50 phút. Nó phải ngừng hoạt động trên một tháng để sửa chữa những hư hại do thủy lôi.

Trận Jutland

Bản đồ trình bày sự cơ động của hạm đội Anh (xanh) và Đức (đỏ) trong ngày [[31 tháng 5–1 tháng 6 năm 1916.|alt=The British fleet sailed from northern Britain to the east while the Germans sailed from Germany in the south; the opposing fleets met off the Danish coast]] Hầu như ngay sau cuộc bắn phá Lowestoft, Đô đốc Reinhard Scheer bắt đầu vạch kế hoạch cho một cuộc xâm nhập khác vào Bắc Hải. Thoạt tiên ông dự định tiến hành chiến dịch vào giữa tháng 5, nhưng những hư hại của Seydlitz do mìn tỏ ra khó sửa chữa, và Scheer lại không sẵn lòng tiến hành một cuộc bắn phá lớn mà không có đầy đủ sức mạnh của lực lượng tàu chiến-tuần dương. Ngày 22 tháng 5, xưởng tàu Wilhelmshaven báo cáo con tàu đã có thể hoạt động, nhưng những thử nghiệm trong đêm cho thấy khoang chứa ngư lôi bên mạn vốn bị hư hại bởi mìn đã không kín nước, và có việc rò rỉ nước ở các vách ngăn ngang trước và sau. Cần có các công việc sửa chữa khác, nên chiến dịch bị hoãn lại thêm một tuần, thời điểm mà xưởng tàu Wilhelmshaven cam đoan với Scheer là con tàu sẽ sẵn sàng. Giữa trưa ngày 28 tháng 5, công việc sửa chữa Seydlitz hoàn tất, và nó gia nhập trở lại Đội Tuần tiễu 1.

Trong đêm 30 tháng 5 năm 1916, Seydlitz cùng bốn tàu chiến-tuần dương khác của Đội Tuần tiễu 1 thả neo tại vũng biển Jade. Sáng hôm sau lúc 02 giờ 00 giờ Trung Âu, các con tàu chậm rãi di chuyển về phía Skagerrak với tốc độ . có sự tháp tùng của Đội Tuần tiễu 4 bao gồm các tàu tuần dương hạng nhẹ Stettin, München, Hamburg, FrauenlobStuttgart cùng 31 tàu phóng lôi thuộc các chi hạm đội 1, 3, 5 và 7, do Rostock dẫn đầu. Sáu chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc Hải đội Chiến trận 2 cũng khởi hành từ Elbe roads lúc 02 giờ 45 phút và gặp gỡ hạm đội chiến trận lúc 05 giờ 00. Máy đo tầm xa trên các con tàu Anh đã đọc nhầm cự ly đến các mục tiêu Đức, nên khi bắt đầu bắn trả loạt đạn đầu tiên đã bắn xa hơn mục tiêu cả dặm. Vì cả hai hàng tàu chiến-tuần dương đối địch được bố trí để đối đầu lẫn nhau, Seydlitz bắt đầu đấu pháo tay đôi với đối thủ tương ứng bên hành chiến trận Anh, tàu chiến-tuần dương Queen Mary. Đến 16 giờ 54 phút, khoảng cách giữa các con tàu giảm xuống còn , cho phép dàn pháo hạng hai của Seydlitz bắt đầu tham chiến. Nó đang ở gần các chi hạm đội khu trục 9 và 10 của Anh đến mức dàn pháo hạng hai của nó đối đầu một cách hiệu quả. Bốn tàu chiến-tuần dương Đức còn lại sử dụng pháo hạng hai để chống lại các tàu chiến-tuần dương Anh.

Từ 16 giờ 55 phút đến 16 giờ 57 phút, Seydlitz bị bắn trúng hai quả đạn pháo hạng nặng từ Queen Mary. Quả đạn pháo thứ nhất xâm nhập mạn hông tàu bên trên sàn tàu chính, gây ra một số đám chát nhỏ. Quả đạn pháo thứ nhất xuyên thủng bệ của tháp pháo bắn thượng tầng phía đuôi. Bốn liều thuốc phóng đã bị kích nổ bên trong phòng đạn pháo, đám cháy phát sinh lan rộng lên tháp pháo và xuống hầm đạn. Các biện pháp chống lóe lửa được áp dụng kịp thời sau trận Dogger Bank đã giúp ngăn chặn các vụ nổ khác phát sinh. Dù sao, tháp pháo bị phá hủy và hầu hết pháo thủ của khẩu đội đều thiệt mạng do vụ nổ. nhỏ|phải|Queen Mary nổ tung do hỏa lực đạn pháo của Seydlitz và [[SMS Derfflinger|Derfflinger|alt=A large warship is almost completely obscured by a huge column of smoke.]] Đến 17 giờ 25 phút, các tàu chiến-tuần dương Anh đã chịu đựng hư hại đáng kể bởi các đối thủ Đức. Indefatigable bị tiêu diệt bởi một loạt đạn pháo của Von der Tann khoảng 20 phút trước đó, và Đô đốc Beatty cố quay mũi 2 point tách các con tàu của mình ra để tổ chức lại đội hình, trong khi các thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth thuộc Hải đội Chiến trận 5 của Anh bắt đầu đến nơi và bắn pháo hỗ trợ. Khi các tàu chiến-tuần dương Anh bắt đầu tách ra, SeydlitzDerfflinger có thể tập trung hỏa lực nhắm vào Queen Mary. Những người chứng kiến cho biết có ít nhất năm quả đạn pháo thuộc hai loạt đạn đã bắn trúng nó, gây một vụ nổ khủng khiếp làm vỡ đôi Queen Mary. Không lâu sau khi Queen Mary bị phá hủy, tàu khu trục của cả hai phía bắt đầu tìm cách tấn công bằng ngư lôi vào đối phương. Một quả ngư lôi đã đánh trúng Seydlitz lúc 17 giờ 57 phút, trúng ngay bên dưới tháp pháo phía trước, chệch về phía sau nơi mà nó từng bị hư hại bởi mìn vào tháng trước. Vụ nổ xé toang một lỗ hổng rộng và làm con tàu nghiêng nhẹ. Cho dù bị hư hại, con tàu vẫn có khả năng duy trì tốc độ tối đa và giữ vững vị trí trong hàng chiến trận.

Những chiếc dẫn đầu của hạm đội chiến trận Đức lúc 18 giờ 00 đã đi đến tầm bắn hiệu quả đối với các con tàu Anh, và bắt đầu nả pháo xuống các tàu chiến-tuần dương Anh cùng các thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth. Trong khoảng từ 18 giờ 09 phút đến 18 giờ 19 phút, Seydlitz bị bắn trúng một quả đạn pháo có thể từ Barham hoặc Valiant. Quả đạn pháo trúng vào mặt trước tháp pháo giữa tàu bên mạn trái, làm vô hiệu hóa tháp pháo. Một phát đạn pháo 380 mm thứ hai xuyên thủng vào tháp pháo bắn thượng tầng phía đuôi vốn đã bị bắn hỏng, kích nổ các liều thuốc phóng cordite chưa bị cháy tại đây. Con tàu cũng bị vô hiệu hai khẩu đội 150 mm do hỏa lực từ phía Anh, và tháp pháo phía đuôi bị mất khẩu pháo bên phải.

Chiều tối đến, tầm nhìn bắt đầu hạn chế đối với các con tàu Đức. Hạm trưởng của Seydlitz, Đại tá Hải quân (Kapitän zur See) von Egidy, sau này kể lại:

"Tầm nhìn nói chung trở nên bất lợi. Sương mù dày đặc, vì vậy theo quy luật chỉ có thể thấy được ánh chớp đầu nòng pháo đối phương chứ không thể thấy chính những con tàu. Khoảng cách giữa hai bên rút ngắn còn từ 18.000 đến 13.000 yard. Từ hướng Tây Bắc đến hướng Đông Bắc trước mặt chúng tôi là một hàng hỏa lực đối địch, cho dù qua làn sương mù từng lúc một chỉ có thể thấy các ánh chớp đầu nòng pháo. Đây là một cảnh tượng vĩ đại và khủng khiếp."
Vào khoảng 19 giờ 00, lực lượng của Beatty đã tiến đến gần thành phần chủ lực của Hạm đội Grand, và để trì hoãn việc hạm đội Đức phát hiện ra vị trí của Hạm đội Grand, ông quay mũi các con tàu dưới quyền về phía hàng chiến trận Đức nhằm buộc chúng cũng phải đổi hướng. Việc này đã làm rút ngắn khoảng cách giữa các tàu chiến-tuần dương Anh và Đức xuống còn . Tầm nhìn kém tiếp tục tạo thuận lợi cho phía Anh, và các tàu chiến-tuần dương Đức phải trả giá. Trong vòng vài phút tiếp theo sau, _Seydlitz_ bị bắn trúng sáu phát, chủ yếu vào phần phía trước của con tàu. Một đám cháy bùng phát tại sàn trước con tàu. Hỏa lực rất căng từ phía các con tàu của Beatty đã buộc Hipper phải tạm thời cho rút lui các tàu chiến-tuần dương dưới quyền về phía Tây Nam. Trong khi các con tàu rút lui, _Seydlitz_ tiếp tục bị ngập thêm nước, độ nghiêng sang mạn phải xấu đi; con tàu bị ngập nước bên trên sàn giữa ở các ngăn trước tàu, và hầu như mất toàn bộ độ nổi.

Đến 19 giờ 30 phút, Hạm đội Biển khơi, vốn cho đến lúc đó vẫn đang săn đuổi các tàu chiến–tuần dương Anh, vẫn chưa đụng độ với Hạm đội Grand. Scheer đã cân nhắc đến việc cho rút lui các lực lượng của mình trước khi bóng đêm phô bày các con tàu ra trước các cuộc tấn công của tàu phóng lôi. Tuy nhiên, ông chưa kịp đưa ra quyết định khi các thiết giáp hạm dẫn đầu của mình bắt đầu đối địch với thành phần chủ lực của Hạm đội Grand. Sự phát triển này khiến cho Scheer không thể rút lui, vì như vậy sẽ phải hy sinh các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ hơn của Hải đội Chiến trận 2, còn nếu sử dụng các thiết giáp hạm dreadnought và tàu chiến-tuần dương hỗ trợ cho việc rút lui của chúng sẽ phô bày những con tàu mạnh nhất của mình ra trước hỏa lực áp đảo của phía Anh. Thay vào đó, Scheer ra lệnh cho các con tàu dưới quyền bẻ lái 16 point sang mạn phải, đưa những chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought về một vị trí tương đối an toàn bên phía rút lui của hàng chiến trận Đức.

Seydlitz và các tàu chiến-tuần dương khác tiếp nối theo việc chuyển hướng, đưa chúng đến phía sau thiết giáp hạm König. Các con tàu bị đánh tơi tả của Hipper có được một khoảng thời gian nghỉ ngơi. Việc không chắc chắn về vị trí chính xác và hướng đi của các con tàu của Scheer đã khiến Đô đốc Anh John Jellicoe quay mũi các con tàu dưới quyền về phía Đông, về hướng mà ông nghỉ có thể là con đường rút lui của phía Đức. Thay vì vậy, hạm đội Đức đang di chuyển về hướng Tây, nhưng Scheer lại ra lệnh bẻ lái 16 point lần thứ hai, lộn ngược lại và hướng thẳng các con tàu của ông vào ngay giữa hạm đội Anh. Hạm đội Đức phải chịu đựng hỏa lực ác liệt từ hàng chiến trận Anh, và Scheer tung ra Seydlitz, Von der Tann, MoltkeDerfflinger hướng về phía hạm đội Anh với tốc độ cao, tìm cách phá vỡ đội hình của chúng tranh thủ thời gian cho lực lượng chính của mình rút lui. Lúc 20 giờ 17 phút, các tàu chiến-tuần dương Đức tiến đến gần thiết giáp hạm Colossus ở khoảng cách , lúc mà Scheer chỉ thị cho các con tàu đối đầu với chiếc dẫn đầu của hàng chiến trận Anh. Seydlitz bắn trúng một phát vào Colossus, nhưng chỉ gây hư hại nhẹ cho cấu trúc thượng tầng. Ba phút sau đó, các tàu chiến-tuần dương Đức quay mũi rút lui dưới sự che chở của một đợt tấn công bởi tàu phóng lôi. nhỏ|trái|Seydlitz bị hư hại nặng sau trận Jutland, đang cố lết về cảng nhà|alt=A large gray warship, heavily flooded, it's deck is nearly submerged. Thick black smoke pours from the funnels. An in-photo caption reads: "Seydlitz nach Skaggerak-schlacht", or "Seydlitz after the Skaggerack battle." Một sự tạm ngừng chiến trận vào lúc trời sụp tối cho phép Seydlitz và các tàu chiến-tuần dương Đức cắt bỏ các mảnh xác tàu làm kẹt tháp pháo, dập tắt các đám cháy, sửa chữa thiết bị điều khiển hỏa lực và tín hiệu, và chuẩn bị đèn pha cho các hoạt động đêm. Vào giai đoạn này, hạm đội Đức được tái tổ chức thành đội hình chặt chẽ theo thứ tự lộn ngược, khi lực lượng hạng nhẹ Đức đụng độ với các tàu hộ tống Anh không lâu sau 21 giờ 00. Cuộc đấu pháo mới đã thu hút sự chú ý của Beatty, nên ông chuyển hướng các tàu chiến-tuần dương về phía Tây. Lúc 21 giờ 09 phút, ông trông thấy các tàu chiến-tuần dương Đức, tiếp cận đến gần ở khoảng cách trước khi nổ súng lúc 21 giờ 20 phút. Trong trận chiến lộn xộn diễn ra sau đó, Seydlitz bị bắn trúng nhiều lần. Một quả đạn pháo trúng vào tháp pháo phía đuôi, và một quả khác trúng cầu tàu, làm thiệt mạng tất cả nhân sự trên cầu tàu và làm nhiều người trên tháp chỉ huy bị thương. Các con tàu Đức bắn trả bằng mọi khẩu pháo có được, và đến 21 giờ 32 phút đã bắn trúng cả Lion lẫn Princess Royal trong bóng đêm. Việc cơ động của các tàu chiến-tuần dương Đức đã buộc Hải đội Chiến trận 1 (Đức) phải quay sang phía Tây để tránh va chạm; điều này đã đưa các thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc Hải đội Chiến trận 2 lên ngay phía sau các tàu chiến-tuần dương, ngăn trở các con tàu Anh săn đuổi các tàu chiến-tuần dương Đức khi chúng quay mũi về phía Nam. Các tàu chiến-tuần dương Anh nổ súng vào các thiết giáp hạm cũ, phía Đức đổi hướng về phía Tây Nam để xoay mọi khẩu pháo hướng vào các con tàu Anh. Tuy nhiên, chỉ có MoltkeSeydlitz đủ khả năng làm theo mệnh lệnh; DerfflingerVon der Tann chỉ có thể di chuyển tối đa , và bị tụt lại phía sau. MoltkeSeydlitz đang trong quá trình di chuyển đến trước hàng chiến trận khi chúng áp sát Stettin, buộc chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ phải bất ngờ giảm tốc độ để tránh va chạm; điều này đã buộc các tàu tuần dương hạng nhẹ Frauenlob, StuttgartMünchen phải bẻ lái sang mạn trái, đưa chúng tiến đến gần và đụng độ với Hải đội Tuần dương nhẹ 2 (Anh). Ở khoảng cách , các tàu tuần dương của cả hai phía bắn loạn xạ vào nhau. Chuẩn đô đốc Ludwig von Reuter quyết định tìm cách nhữ các tàu tuần dương Anh về phía MoltkeSeydlitz. Tuy nhiên, hầu như cùng lúc đó, các tàu tuần dương Anh bị hư hại nặng cũng rút ra khỏi cuộc chiến. Khi các tàu tuần dương đang tách xa nhau, một quả ngư lôi phóng từ Southampton đã đánh trúng Frauenlob, khiến nó nổ tung. Đội hình Đức bị rối loạn, và trong cảnh lẫn lộn đó, Seydlitz mất dấu Moltke; Seydlitz không còn khả năng theo kịp tốc độ của Moltke, nên tách ra một mình và hướng đến hải đăng Horns Reef một cách độc lập. Đến 01 giờ 12 phút, Seydlitz đã vượt qua đội hình hạm đội Anh thành công và tiếp tục đi về vùng biển Horns Reef an toàn. Lúc khoảng 03 giờ 40 phút, nó gặp trục trặc ngoài khơi Horns Reef, cả hai la bàn con quay đều gặp trục trặc, nên chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Pillau được gửi đến dẫn hướng cho nó. Lúc 15 giờ 30 phút, Seydlitz ở trong một tình trạng nguy cấp; mũi tàu hầu như bị ngập hoàn toàn, và phần phía trước duy nhất của con tàu còn nổi là ngăn thủy lôi bên mạn. Công việc chuẩn bị di tản những người bị thương được tiến hành khi hai chiếc tàu bơm hơi nước tiến đến hiện trường. Chúng đã duy trì ổn định được việc ngập nước của Seydlitz, và con tàu lết được trở về cảng. Nó về đến phía ngoài sông Jade vào sáng ngày 2 tháng 6, và vào ngày 3 tháng 6 nó cặp vào cảng Wilhelmshaven. Vào lúc nguy hiểm nhất, nó đã bị ngập đến nước. nhỏ|phải|Một nòng pháo 28 cm của Seydlitz bị hư hại trong [[trận Jutland.|alt=The gray gun barrel has a large gouge in the center where a British shell had struck it.]] Vào cuối trận chiến, lúc 03 giờ 55 phút, Hipper chuyển một báo cáo cho đô đốc Scheer thông báo cho ông những hư hỏng nặng nề mà các con tàu dưới quyền phải chịu đựng. Vào lúc đó DerfflingerVon der Tann mỗi chiếc chỉ có hai khẩu pháo còn khả năng hoạt động, Moltke bị ngập khoảng 1.000 tấn nước, và Seydlitz bị hư hại nặng. Hipper báo cáo: "Đội Tuần tiễu 1 do đó không còn là một đơn vị chiến đấu hiệu quả, nên được Tổng tư lệnh chỉ thị quay trở về cảng, trong khi bản thân ông chờ đợi kết quả trận chiến ngoài khơi Horns Reef của hạm đội chiến trận." Con tàu chịu đựng tổn thất 98 người thiệt mạng và 55 người bị thương. Bản thân Seydlitz đã bắn tổng cộng 376 quả đạn từ dàn pháo chính và ghi được khoảng 10 phát trúng đích. Việc này đã phô bày cho đô đốc Scheer cơ hội mà ông đã chờ đợi trong suốt cuộc chiến tranh: khả năng cô lập và tiêu diệt từng phần Hạm đội Grand. Lúc 05 giờ 00 ngày 23 tháng 4 năm 1918, Hạm đội Biển khơi rời cảng với ý định đánh chặn một trong các đoàn tàu vận tải được hộ tống mạnh mẽ. Liên lạc bằng vô tuyến được giữ ở mức tối thiểu nhằm ngăn phía Anh biết được về chiến dịch. Đến 14 giờ 10 phút vẫn không tìm thấy đoàn tàu vận tải Anh, nên Scheer cho quay mũi Hạm đội Biển khơi trở về vùng biển Đức. Tuy nhiên, khi hạm đội đang được tập trung tại Wilhelmshaven, thủy thủ trên các con tàu bắt đầu đào ngũ hàng loạt. Khi Von der TannDerfflinger đi qua các âu tàu phân cách cảng phía trong Wilhelmshaven và vũng biển, khoảng 300 người trên cả hai con tàu đã trèo qua mạn tàu và biến mất trên bờ.

Sáng ngày 29 tháng 10 năm 1918, mệnh lệnh được đưa ra để chuẩn bị khởi hành từ Wilhelmshaven để tập trung lực lượng tại Jade Estuary vào ngày hôm sau. Bắt đầu từ đêm 29 tháng 10, thủy thủ trên nhiều tàu chiến làm binh biến. Ba chiếc thuộc Hải đội Chiến trận 3 từ chối nhổ neo, và các hành động phá hoại xảy ra trên các chiếc ThüringenHelgoland. Sự bất ổn lan rộng ra các tàu chiến khác, và cuối cùng chiến dịch phải bị hủy bỏ; và trong một cố gắng để dập tắt cuộc nổi loạn, Scheer ra lệnh phân tán hạm đội. Vào đầu tháng 11 năm 1918, cuộc Cách mạng Đức bắt đầu; dẫn đến việc đình chiến và kết thúc chiến tranh cũng như lật đổ nền quân chủ tại Đức.

Số phận

Bản đồ vị trí các con tàu bị đánh đắm tại Scapa Flow. Seydlitz được đánh dấu với số 24|alt=A map designating the locations where the German ships were sunk. Sau khi Đức đầu hàng, hầu hết tàu chiến của Hạm đội Biển khơi, kể cả Seydlitz, bị lưu giữ tại căn cứ hải quân Anh tại Scapa Flow, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter. Trước khi Hạm đội Đức khởi hành, Đô đốc Adolf von Trotha khẳng định lại với von Reuter chỉ thị không được để cho phe Đồng Minh chiếm các con tàu trong bất kỳ tình huống nào. Hạm đội đã gặp gỡ tàu tuần dương hạng nhẹ Anh Cardiff, vốn đã dẫn đầu các con tàu Đức đi đến điểm gặp gỡ hạm đội Đồng Minh, một lực lượng khổng lồ bao gồm 370 tàu chiến của Anh, Mỹ và Pháp, vốn sẽ hộ tống hạm đội Đức đến Scapa Flow. Khi bị lưu giữ trong suốt thời gian diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình, mà sau này cuối cùng sẽ dẫn đến Hiệp ước Versailles,

Một bản in của báo The Times cung cấp thông tin cho von Reuter rằng Thỏa thuận Ngừng bắn sẽ hết hiệu lực vào giữa trưa ngày 21 tháng 6 năm 1919, thời hạn cuối cùng mà Đức phải ký vào Hiệp định hòa bình. Đô đốc Von Reuter đưa đến kết luận người Anh sẽ tìm cách chiếm hữu các con tàu Đức sau khi Thỏa thuận Ngừng bắn hết hiệu lực. Không biết rằng thời hạn của thỏa thuận đã được triển hạn đến ngày 23 tháng 6, ông quyết định đánh đắm các con tàu của mình vào cơ hội thuận tiện đầu tiên có được. Sáng ngày 21 tháng 6, Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành thực tập huấn luyện; và đến 11 giờ 20 phút Reuter truyền mệnh lệnh này đến các con tàu của mình. Mạn và đáy tàu ở độ sâu 12 fathom bên dưới mực nước thường bị nhầm như một hòn đảo nhỏ; và nó được bán trong tình trạng như vậy cho hãng Cox and Danks cùng với một thiết giáp hạm và 26 tàu khu trục. Nó được cho nổi trở lại vào ngày 2 tháng 11 năm 1928, và vẫn đang trong tư thế lật úp, nó được kéo về phía Nam và được tháo dỡ tại Rosyth vào năm 1930. Chiếc chuông của Seydlitz hiện đang được trưng bày tại Đài tưởng niệm Hải quân Lahoe.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**SMS _Schlesien**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**SMS _Blücher**_ là chiếc tàu tuần dương bọc thép cuối cùng được Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) chế tạo. Được thiết kế để bắt kịp với những gì mà tình báo Đức tin
**SMS _Von der Tann**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo, cũng là chiếc tàu chiến chủ lực đầu tiên của Đức vận hành bằng turbine hơi
**SMS _Posen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được đặt lườn tại xưởng tàu Germaniawerft ở Kiel
**SMS _Rheinland**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Rheinland_ được trang bị dàn pháo chính bao gồm mười hai
**SMS _Friedrich der Große**_ (_Friedrich Đại Đế_) là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Friedrich der Große_
**SMS _Yorck**_ là chiếc thứ hai cũng là chiếc sau cùng trong lớp tàu tuần dương bọc thép _Roon_ của Hải quân Đế quốc Đức. _Yorck_ được đặt tên theo Ludwig Yorck von Wartenburg, vị
**SMS _Westfalen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Westfalen_ được đặt lườn tại xưởng tàu AG Weser ở Bremen
**SMS _Kaiser**_ (hoàng đế) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiser_ được đóng
**SMS _Lützow**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ hai thuộc lớp _Derfflinger_ của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Được đặt hàng
**SMS _Hessen**_ là chiếc thứ ba trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Hannover**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, chiếc thứ hai trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ
**SMS _Pommern**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903
**SMS _Hindenburg**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức và là chiếc thứ ba thuộc lớp _Derfflinger_. Tên của nó được đặt nhằm vinh danh Thống chế Paul von Hindenburg, người
**SMS _Helgoland**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Thiết kế
**SMS _Schleswig-Holstein**_ là một thiết giáp hạm của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
**SMS _Nassau**_ là chiếc thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức, một hành động đáp trả lại việc hạ thủy thiết giáp hạm HMS _Dreadnought_ của Hải
**SMS _Grosser Kurfürst**_ là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Grosser Kurfürst_ (còn có thể viết là
**SMS _König**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. König (tiếng Đức, nghĩa là Quốc vương) được
**SMS _Kronprinz**_ là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kronprinz_ được đặt lườn vào ngày tháng 11
**SMS _Markgraf**_ là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Markgraf_ được đặt lườn vào tháng 11 năm
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**Carl Friedrich Heinrich Reinhard Scheer** (30 tháng 9 năm 1863 – 26 tháng 11 năm 1928) là một Đô đốc của Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_). Scheer gia nhập hải quân vào năm
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913
**Trận chiến quần đảo Falkland** là một thắng lợi của Hải quân Hoàng gia Anh trước Hải quân Đế chế Đức vào ngày 8 tháng 12 năm 1914 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
**Trận Jutland** là trận hải chiến lớn nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất diễn ra giữa Hạm đội công hải của Đức và Đại hạm đội của Anh từ ngày 31 tháng 5
**HMS _Tiger_ (1913)** là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Được chế
**HMS _Princess Royal**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Là chiếc thứ hai trong lớp _Lion_ bao gồm hai chiếc, nó được
**Lớp thiết giáp hạm _Helgoland**_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: _Helgoland_, _Ostfriesland_,
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**Lớp thiết giáp hạm _Queen Elizabeth**_ bao gồm năm chiếc thiết giáp hạm thế hệ siêu-dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh. Tên của lớp được đặt nhằm tôn vinh Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất
**_Prinz Eugen_** (Vương công Eugène) là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Được xem là