✨SMS Derfflinger

SMS Derfflinger

SMS _Derfflinger_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm ba chiếc; các tàu chị em với nó là LützowHindenburg. Lớp tàu chiến-tuần dương Derfflinger lớn hơn và có nhiều cải tiến đáng kể so với các tàu chiến-tuần dương Đức trước đây về vũ khí, vỏ giáp bảo vệ và tầm xa hoạt động. Con tàu được đặt tên theo Thống chế Georg von Derfflinger, người đã tham gia cuộc Chiến tranh ba mươi năm.

Derfflinger nằm trong thành phần Đội Tuần tiễu một trong hầu hết thời gian của chiến tranh, và đã tham gia nhiều hoạt động của hạm đội trong cuộc xung đột. Nó tham gia các cuộc bắn phá các thị trấn bờ biển nước Anh, cũng như các trận Dogger Bank và Jutland, nơi sự chịu đựng ngoan cường của nó khiến đối thủ Anh đặt cho nó biệt danh "Iron Dog". Con tàu đã góp công vào việc đánh chìm hai tàu chiến-tuần dương Anh trong trận Jutland: Derfflinger đã cùng với Seydlitz tiêu diệt Queen Mary và cùng với tàu chị em Lützow đánh chìm Invincible.

Sau khi đạt được thỏa thuận đình chiến vào tháng 11 năm 1918, Derfflinger cùng với phần còn lại của Hạm đội Biển khơi Đức bị lưu giữ tại Scapa Flow. Theo lệnh của Chuẩn đô đốc Ludwig von Reuter, tư lệnh lực lượng bị lưu giữ, các con tàu chiến Đức bị đánh đắm vào ngày 21 tháng 6 năm 1919. Derfflinger bị chìm lúc 14 giờ 15 phút ngày hôm đó.

Thiết kế và chế tạo

nhỏ|trái|Sơ đồ lớp Derfflinger như được mô tả trong Jane's Fighting Ships 1919|alt=Design schematics for this type of ship; it carried two gun turrets on either end, with two large smoke stacks and two tall masts in between. Được chế tạo bởi hãng Blohm & Voss tại xưởng tàu của họ ở Hamburg, Derfflinger được đặt lườn vào tháng 1 năm 1912. Nó được dự định để hạ thủy vào ngày 14 tháng 6 năm 1913, nhưng trong buổi lễ hạ thủy, một trong những tấm gỗ trượt lót dưới lườn tàu bị kẹt và nó chỉ di chuyển được 30-40 cm; một lần cố gắn thứ hai để hạ thủy nó thành công gần một tháng sau đó, vào ngày 12 tháng 7. Một thủy thủ đoàn là công nhân xưởng tàu đã lái nó từ Hamburg vòng qua Skagen để đến Kiel. Đến cuối tháng 10, con tàu được phân về Đội Tuần tiễu 1; tuy nhiên, sự cố turbine bị hư hại trong khi đang chạy thử máy đã ngăn trở nó hoạt động thường trực cho đến ngày 16 tháng 11.

Vào lúc hoàn tất, Derfflinger có trọng lượng choán nước gần và dài . Thủy thủ đoàn của con tàu bao gồm 44 sĩ quan và 1.068 thủy thủ. Nó được trang bị được trang bị hai bộ turbine hơi nước, mỗi bộ bao gồm một cặp turbine áp lực cao và áp lực thấp; hơi nước được cung cấp từ 14 nồi hơi đốt than và dẫn động bốn trục chân vịt. Nó có thể đạt được tốc độ tối đa , và có khả năng di chuyển ở tốc độ đường trường .

Lịch sử hoạt động

nhỏ|upright|phải|Bản đồ [[Bắc Hải, nơi diễn ra hầu hết các hoạt động lớn của Hạm đội Đức|alt=Map of the North Sea, bounded in the west by Great Britain, the east by Scandinavia, and the south by mainland Europe. The sea opens into the Atlantic ocean in the north, and is connected by a narrow water passage in the east to the Baltic Sea.]]

Bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby

Hoạt động lớn đầu tiên mà Derfflinger tham gia là trận bắn phá các thị trấn bờ biển Anh Scarborough, Hartlepool, và Whitby. Trước đó, một cuộc bắn phá tương tự đã được Đội Tuần tiễu 1 tiến hành nhắm vào thị trấn Yarmouth vào cuối năm 1914. Đô đốc Friedrich von Ingenohl, Tổng tư lệnh Hạm đội Biển khơi Đức, quyết định tiến hành thêm một cuộc bắn phá khác vào bờ biển Anh Quốc với hy vọng lôi kéo một phần Hạm đội Grand vào cuộc chiến, nơi có thể bị tiêu diệt từng phần. Lúc 03 giờ 20 phút ngày 15 tháng 12, Chuẩn đô đốc Franz von Hipper, với cờ hiệu đặt trên chiếc tàu chiến-tuần dương Seydlitz, đã khởi hành từ Jade Estuary. Theo sau Seydlitz còn có các tàu chiến-tuần dương Derfflinger, Moltke, Von der Tann, tàu tuần dương bọc thép Blücher, các tàu tuần dương hạng nhẹ Kolberg, Strassburg, StralsundGraudenz cùng hai chi hạm đội tàu phóng lôi. Các con tàu của Hipper di chuyển lên phía Bắc, vượt qua Heligoland để đi đến hải đăng Horns Reef, nơi chúng chuyển hướng sang phía Tây hướng đến Scarborough. Mười hai giờ sau đó, thành phần phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi cũng lên đường để hỗ trợ từ xa, bao gồm 14 chiếc thiết giáp hạm dreadnought và 8 thiết giáp hạm tiền-dreadnought cùng một lực lượng hộ tống gồm 2 tàu tuần dương bọc thép, 7 tàu tuần dương hạng nhẹ và 54 tàu phóng lôi.

Trong đêm 15 tháng 12, thành phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi Đức đã bắt gặp các tàu khu trục Anh. Lo sợ một cuộc tấn công bằng ngư lôi ban đêm, Đô đốc Ingenohl ra lệnh cho các con tàu rút lui. Đến 09 giờ 45 phút ngày 16 tháng 12, hai nhóm tập hợp trở lại và bắt đầu rút lui về phía Đông. Sơ đồ vị trí của Hạm đội Biển khơi Đức vào sáng ngày [[16 tháng 12|alt=Map showing the locations of the British and German fleets; the German light cruisers pass between the British battleship and battlecruiser forces while the German battlecruisers steam to the northeast. The German battleships lie to the east of the other ships.]] Vào lúc này, các tàu chiến-tuần dương của Beatty đã ở vào vị trí ngăn chặn con đường mà Hipper lựa chọn để rút lui, trong khi các lực lượng khác đang trên đường tiến đến để hoàn thành việc bao vây. Đến 12 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải đội Tuần tiễu 2 bắt đầu băng qua lực lượng Anh để tìm kiếm lực lượng của Hipper. Một trong các tàu tuần dương của Hải đội Tuần dương nhẹ 2 phát hiện Stralsund và gửi một thông báo đến Beatty. Lúc 12 giờ 30 phút, Beatty đổi hướng các tàu chiến-tuần dương dưới quyền về phía các con tàu Đức, dự đoán rằng các tàu tuần dương Đức là lực lượng tiên phong bảo vệ cho các con tàu của Hipper; nhưng thực ra các tàu chiến-tuần dương Đức còn ở cách về phía trước. Sự nhầm lẫn này cho phép các tàu tuần dương nhẹ Đức chạy thoát và báo động cho Hipper vị trí của các tàu chiến-tuần dương Anh. Các tàu chiến Đức lẻn về phía Đông Bắc lực lượng Anh và đã chạy thoát. Lịch sử chính thức của Hải quân Đức phê phán Ingenohl đã không sử dụng lực lượng hạng nhẹ của mình để thăm dò quy mô lực lượng của hạm đội Anh, cho rằng: "Ông đưa ra quyết định không chỉ gây nguy hại đáng kể cho lực lượng phía trước ngoài khơi bờ biển Anh, mà còn cất đi khỏi Hạm đội Đức một thắng lợi chắc chắn và đáng kể." Ngày 23 tháng 1, Hipper khởi hành với cờ hiệu của mình trên chiếc Seydlitz, được tiếp nối bởi Moltke, DerfflingerBlücher cùng các tàu tuần dương hạng nhẹ Graudenz, Rostock, StralsundKolberg và 19 tàu phóng lôi thuộc chi hạm đội 5 và các bán-chi hạm đội 2, 18. GraudenzStralsund được phái đi hộ tống phía trước hải đội, trong khi RostockKolberg lần lượt được phân sang mạn phải và mạn trái tương ứng, mỗi tàu tuần dương hạng nhẹ có một bán-chi hạm đội tàu phóng lôi phối thuộc. Aurora khiêu khích Kolberg bằng một đèn pha, vào lúc mà Kolberg tấn công Aurora và ghi được hai phát trúng đích. Aurora bắn trả và cũng bắn trúng đối phương hai phát. Hipper lập tức cho chuyển hướng các tàu chiến-tuần dương của mình đến nơi nổ súng, trong khi hầu như đồng thời vào lúc đó, Stralsund trông thấy một lượng khói lớn về phía Tây Bắc vị trí của nó. Đây được xác định là một số lượng tàu chiến lớn đang hướng về phía các con tàu của Hipper. Lúc 10 giờ 30 phút, New Zealand, chiếc thứ tư trong hàng chiến trận của Beatty, tiếp cận Blücher trong tầm bắn và bắt đầu nổ súng; đến 10 giờ 35 phút, khoảng cách được rút ngắn xuống còn , khi toàn bộ hàng chiến trận Đức nằm trong tầm bắn hiệu quả của các tàu chiến Anh. Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương của mình nổ súng vào đối thủ Đức tương ứng đối diện song song. Tuy nhiên, sự lẫn lộn bên trên chiếc Tiger đã khiến thuyền trưởng của nó tin rằng nó phải nhắm vào Seydlitz, khiến cho Moltke hoàn toàn tự do để bắn mà không bị ngăn trở. trái|nhỏ|Blücher đang bị lật úp|alt=A sinking gray warship rolls over onto is side, its guns pointed skyward Đến 10 giờ 40 phút, một quả đạn pháo của Lion bắn trúng Seydlitz, gây hư hại nặng suýt thành thảm họa khi loại bỏ cả hai tháp pháo đuôi và làm 159 người thiệt mạng. Nhờ hành động nhanh chóng của vị sĩ quan cao cấp (hạm phó) đã ra lệnh làm ngập nước cả hai hầm đạn, đám cháy đã được ngăn chặn không cho lan vào các hầm đạn, vốn có thể gây tai họa phá hủy con tàu. Vào lúc này, các tàu chiến-tuần dương Đức tập trung hỏa lực nhắm vào Lion, liên tiếp bắn trúng nhiều phát. Lúc 11 giờ 01 phút, Seydlitz bắn trả trúng Lion bằng một quả đạn pháo , làm hỏng hai máy phát điện của Lion. Đến 11 giờ 18 phút, hai quả đạn pháo từ Derfflinger lại đánh trúng Lion, một quả trúng bên trên mực nước và xuyên thủng đai giáp, làm tràn nước biển vào thùng cấp nước bên mạn trái. Lion buộc phải tắt động cơ bên mạn trái do bị nhiễm nước mặn, và do đó bị tụt lại khỏi đội hình hàng chiến trận Anh. Đúng lúc đó, máy phát điện duy nhất còn hoạt động của Lion bị hỏng, làm giảm tốc độ của nó xuống còn . Bên trên chiếc Lion bị hỏng hóc, Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương còn lại "Tấn công đoạn hậu đối phương", nhưng sự nhầm lẫn trong việc truyền tín hiệu đã khiến các con tàu chỉ tập trung hỏa lực nhắm vào Blücher, cho phép Moltke, SeydlitzDerfflinger chạy thoát. Blücher bị bắn trúng trên 70 quả đạn pháo hạng nặng từ các tàu chiến-tuần dương Anh trong suốt trận chiến; chiếc tàu chiến bị hư hại nặng đã lật úp và chìm lúc khoảng 13 giờ 10. Khi Beatty nắm trở lại sự chỉ huy các con tàu của mình sau khi chuyển sang chiếc Princess Royal, các con tàu Đức đã ở quá xa để có thể bắt kịp; nên đến 13 giờ 50 phút, ông từ bỏ việc truy đuổi.

Sau trận chiến, công việc sửa chữa Derfflinger được tiến hành, kéo dài cho đến ngày 16 tháng 2. Turbine bên mạn phải của nó bị hư hại vào ngày 28 tháng 6, và con tàu lại phải trở vào ụ tàu để sửa chữa cho đến tháng 8. Các đơn vị hạng nặng của Hạm đội Biển khơi, dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Reinhard Scheer, lên đường lúc 13 giờ 40 phút, với mục đích hỗ trợ từ xa cho các con tàu của Bödicker. Bộ Hải quân Anh đã biết được việc xuất quân của Đức nhờ thu thập tình báo vô tuyến, nên đã cho bố trí Hạm đội Grand lúc 15 giờ 50 phút.

Lúc 04 giờ 50 phút ngày 25 tháng 4, các tàu chiến-tuần dương Đức tiếp cận Lowestoft khi các tàu tuần dương hạng nhẹ RostockElbing đang hộ tống phía bên sườn Nam trông thấy các tàu tuần dương hạng nhẹ và tàu khu trục thuộc lực lượng Harwich dưới quyền Thiếu tướng Hải quân Reginald Tyrwhitt. Tyrwhitt lập tức quay mũi các con tàu của mình và thoát về phía Nam, nhưng chỉ sau khi chiếc tàu tuần dương Conquest chịu đựng hư hại nặng. Do các báo cáo về tàu ngầm Anh và các cuộc tấn công bằng ngư lôi, Bödicker bỏ dỡ việc truy đuổi quay mũi về phía Đông hướng đến Hạm đội Biển khơi. Vào lúc này, Scheer được cảnh báo về việc Hạm đội Grand đã khởi hành từ Scapa Flow nên cũng quay trở lại vùng biển Đức. nhỏ|trái|Derfflinger đang bắn toàn bộ pháo chính qua mạn|alt=A large warship is partially obscured by smoke from its main guns firing Derfflinger cùng các tàu chiến-tuần dương khác thuộc Đội Tuần tiễu 1 dưới quyền Hipper đã thả neo phía bên ngoài vũng biển Jade trong đêm 30 tháng 5 năm 1916. Sáng hôm sau, lúc 02 giờ 00 giờ Trung Âu, các con tàu chậm rãi hướng đến Skagerrak với tốc độ . Đội Tuần tiễu 2, bao gồm các tàu tuần dương hạng nhẹ Frankfurt (soái hạm của Chuẩn đô đốc Bödicker), Wiesbaden, PillauElbing cùng 30 tàu phóng lôi thuộc các chi hạm đội 2, 6 và 9, tháp tùng theo lực lượng của Hipper. có sự tháp tùng của Đội Tuần tiễu 4 bao gồm các tàu tuần dương hạng nhẹ Stettin, München, Hamburg, FrauenlobStuttgart cùng 31 tàu phóng lôi thuộc các chi hạm đội 1, 3, 5 và 7, do Rostock dẫn đầu. Sáu chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc Hải đội Chiến trận 2 cũng khởi hành từ Elbe roads lúc 02 giờ 45 phút và gặp gỡ hạm đội chiến trận lúc 05 giờ 00. Khi các con tàu Anh bắt đầu bắn trả, sự lẫn lộn mục tiêu giữa các tàu chiến-tuần dương Anh đã khiến Moltke bị đối đầu bởi cả New Zealand lẫn Tiger. Các máy đo tầm xa phía Anh đã đo sai khoảng cách đến các mục tiêu Đức, nên loạt đạn pháo đầu tiên do các tàu Anh bắn trượt quá một hải lý đối với các tàu chiến-tuần dương Đức. Do lỗi trong liên lạc của phía Anh, Derfflinger đã không bị đối đầu trong suốt 10 phút đầu của trận chiến. Sĩ quan tác xạ của Derfflinger, Thiếu tá Hải quân (Korvettenkapitän) Georg von Hase sau này ghi lại: "Do một lỗi nào đó, chúng tôi bị bỏ quên. Tôi cười thầm và bắt đầu đối đầu với địch thủ với sự bình tỉnh hoàn toàn, cứ như trong thực tập, và với độ chính xác ngày càng tăng." Lúc 17 giờ 03 phút, tàu chiến-tuần dương Anh Indefatigable nổ tung sau 15 phút chịu đựng hỏa lực của Von der Tann. Không lâu sau đó, một nửa lực lượng còn lại của Beatty, bốn thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth thuộc Hải đội Chiến trận 5, tiến đến tầm bắn và bắt đầu nổ súng vào Von der TannMoltke. nhỏ|phải|Queen Mary nổ tung dưới các loạt đạn tập trung của SeydlitzDerfflinger|alt=A large warship is almost completely obscured by a huge column of smoke. Sau khi Lützow đã gây hư hại đáng kể cho Lion, Derfflinger mất dấu các tàu chiến Anh, nên lúc 17 giờ 16 phút, nó chuyển sang nhắm vào Queen Mary. Seydlitz cũng đối đầu với Queen Mary, và hỏa lực kết hợp của hai con tàu khiến chiếc tàu chiến-tuần dương Anh bị bắn trúng liên tiếp. Quan sát viên trên New ZealandTiger, những chiếc đi ngay phía sau và phía trước trong hàng chiến trận tương ứng, báo cáo ba phát trong loạt đạn pháo bốn viên đã bắn trúng con tàu cùng một lúc, rồi hai phát bắn trúng khác tiếp nối theo, đưa đến hậu quả một vụ nổ khủng khiếp bộc phát ngay giữa tàu và một cụm khói đen dày đặc bốc lên từ con tàu bị cháy, vốn đã vỡ làm đôi.

Những chiếc dẫn đầu của Hạm đội Biển khơi Đức lúc 18 giờ 00 đã đi đến tầm bắn hiệu quả đối với các con tàu Anh, và bắt đầu nả pháo xuống các tàu chiến-tuần dương Anh cùng các thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth. Trong khoảng từ 18 giờ 09 phút đến 18 giờ 19 phút, Derfflinger bị bắn trúng một quả đạn pháo , có thể từ Barham hoặc Valiant. Đến 18 giờ 55 phút, Derfflinger lại bị bắn trúng vào mũi tàu, xé toang một lỗ hổng khiến cho khoảng nước tràn vào con tàu.

Không lâu sau 19 giờ 00, tàu tuần dương Đức Wiesbaden bị bắn hỏng bởi một phát đạn pháo của tàu chiến-tuần dương Anh Invincible. Các tàu chiến-tuần dương Đức bẻ lái một góc 16 point về hướng Đông Bắc và đi hết tốc độ để trợ giúp chiếc tàu tuần dương. Lúc 19 giờ 15 phút, chúng phát hiện tàu tuần dương bọc thép Anh Defence vốn đang tham gia tấn công Wiesbaden. Hipper thoạt tiên do dự, nghi ngờ rằng đó là tàu tuần dương Đức Rostock, nhưng đến 19 giờ 16 phút, Đại tá Harder, hạm trưởng của Lützow, ra lệnh nổ súng; các tàu chiến Đức khác tiếp nối theo ngay sau đó. Trong trận chiến hỗn loạn sau đó, Defence trúng nhiều phát đạn pháo hạng nặng, trong đó một loạt đạn pháo xuyên thủng hàm đạn của con tàu và hậu quả vụ nổ khủng khiếp đã phá hủy chiếc tàu tuần dương. nhỏ|trái|Invincible nổ tung khi loạt đạn của Derfflinger gây nổ hầm đạn phía trước|alt=A ball of flame engulfs a large gray warship. Several smaller ships are seen in the distance. Đến 19 giờ 24 phút, Hải đội Chiến trận 3 phía Anh đã hội quân cùng với những tàu chiến-tuần dương còn lại của Beatty phía trước hàng chiến trận Đức. Các tàu chiến Anh dẫn đầu trông thấy LützowDerfflinger và bắt đầu bắn vào chúng. Trong vòng tám phút, tàu chiến-tuần dương Invincible ghi được tám phát trúng đích vào Lützow; đổi lại, LützowDerfflinger cũng tập trung hỏa lực vào đối thủ. Lúc Đến 19 giờ 31 phút, Derfflinger bắn loạt đạn pháo cuối cùng nhắm vào Invincible, không lâu sau đó hầm đạn phía trước của chiếc tàu chiến-tuần dương Anh bị phát nổ, và con tàu biến mất sau một loạt các vụ nổ dữ dội.

Đến 19 giờ 30 phút, Hạm đội Biển khơi, vốn cho đến lúc đó vẫn đang săn đuổi các tàu chiến–tuần dương Anh, vẫn chưa đụng độ với Hạm đội Grand. Scheer đã cân nhắc đến việc cho rút lui các lực lượng của mình trước khi bóng đêm phô bày các con tàu ra trước các cuộc tấn công của tàu phóng lôi. Tuy nhiên, ông chưa kịp đưa ra quyết định khi các thiết giáp hạm dẫn đầu của mình bắt đầu đối địch với thành phần chủ lực của Hạm đội Grand. Sự phát triển này khiến cho Scheer không thể rút lui, vì như vậy sẽ phải hy sinh các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ hơn của Hải đội Chiến trận 2 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Franz Mauve, còn nếu sử dụng các thiết giáp hạm dreadnought và tàu chiến-tuần dương hỗ trợ cho việc rút lui của chúng sẽ phô bày những con tàu mạnh nhất của mình ra trước hỏa lực áp đảo của phía Anh. Thay vào đó, Scheer ra lệnh cho các con tàu dưới quyền bẻ lái 16 point sang mạn phải, đưa những chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought về một vị trí tương đối an toàn bên phía rút lui của hàng chiến trận Đức.

Derfflinger và các tàu chiến-tuần dương khác tiếp nối theo việc chuyển hướng, đưa chúng đến phía sau König. Các con tàu bị đánh tơi tả của Hipper có được một khoảng thời gian nghỉ ngơi. Việc không chắc chắn về vị trí chính xác và hướng đi của các con tàu của Scheer đã khiến Đô đốc Anh John Jellicoe quay mũi các con tàu dưới quyền về phía Đông, về hướng mà ông nghĩ có thể là con đường rút lui của phía Đức. Thay vì vậy, hạm đội Đức đang di chuyển về hướng Tây, nhưng Scheer lại ra lệnh bẻ lái 16 point lần thứ hai, lộn ngược lại và hướng thẳng các con tàu của ông vào ngay giữa hạm đội Anh. Hạm đội Đức phải chịu đựng hỏa lực ác liệt từ hàng chiến trận Anh, và Scheer tung Derfflinger, Seydlitz, MoltkeVon der Tann ra hướng về phía hạm đội Anh với tốc độ cao, tìm cách phá vỡ đội hình của chúng tranh thủ thời gian cho lực lượng chính của mình rút lui. Lúc 20 giờ 17 phút, các tàu chiến-tuần dương Đức tiến đến gần chiếc Colossus ở khoảng cách , lúc mà Scheer chỉ thị cho các con tàu đối đầu với chiếc dẫn đầu của hàng chiến trận Anh. Tuy nhiên, ba phút sau đó, các tàu chiến-tuần dương Đức quay mũi rút lui dưới sự che chở của một cuộc tấn công của tàu phóng lôi.

Sự tạm ngừng chiến trận vào lúc trời sụp tối cho phép Derfflinger và các tàu chiến-tuần dương Đức cắt bỏ các mảnh xác tàu làm kẹt tháp pháo, dập tắt các đám cháy, sửa chữa thiết bị điều khiển hỏa lực và tín hiệu, và chuẩn bị đèn pha cho các hoạt động đêm. Vào giai đoạn này, hạm đội Đức được tái tổ chức thành đội hình chặt chẽ theo thứ tự lộn ngược, khi lực lượng hạng nhẹ Đức đụng độ với các tàu hộ tống Anh không lâu sau 21 giờ 00. Cuộc đấu pháo mới đã thu hút sự chú ý của Beatty, nên ông chuyển hướng các tàu chiến-tuần dương về phía Tây. Lúc 21 giờ 09 phút, ông trông thấy các tàu chiến-tuần dương Đức, tiếp cận đến gần ở khoảng cách trước khi nổ súng lúc 21 giờ 20 phút. Trong trận chiến lộn xộn, Derfflinger bị bắn trúng nhiều lần; lúc 21 giờ 34 phút, một quả đạn pháo hạng nặng đã bắn trúng tháp pháo cuối cùng của nó còn hoạt động, loại nó ra nốt khỏi vòng chiến. Các con tàu Đức bắn trả bằng mọi khẩu pháo có được, và đến 21 giờ 32 phút đã bắn trúng cả Lion lẫn Princess Royal trong bóng đêm. nhỏ|Những hư hại của Derfflinger trong trận chiến Vào cuối trận chiến, lúc 03 giờ 55 phút, Hipper chuyển một báo cáo cho đô đốc Scheer thông báo cho ông những hư hỏng nặng nề mà các con tàu dưới quyền phải chịu đựng. Vào lúc đó DerfflingerVon der Tann mỗi chiếc chỉ có hai khẩu pháo còn khả năng hoạt động, Moltke bị ngập khoảng 1.000 tấn nước, và Seydlitz bị hư hại nặng. Hipper báo cáo: "Đội Tuần tiễu 1 do đó không còn là một đơn vị chiến đấu hiệu quả, nên được Tổng tư lệnh chỉ thị quay trở về cảng, trong khi bản thân ông chờ đợi kết quả trận chiến ngoài khơi Horns Reef của hạm đội chiến trận." Derfflinger đã bắn tổng cộng 385 quả đạn pháo hạng nặng và 235 quả đạn pháo hạng hai cùng một quả ngư lôi. Thủy thủ đoàn của con tàu chịu tổn thất 157 người thiệt mạng và 26 người khác bị thương, cao nhấttrong số những con tàu không bị chìm của Đức trong trận này. Sự chịu đựng ngoan cường của nó trong trận Jutland đã khiến đối thủ Anh đặt cho nó biệt danh "Iron Dog"

Các hoạt động sau cùng

Trong trận Heligoland Bight thứ hai vào tháng 11 năm 1917, Derfflinger đã xuất phát từ cảng để hỗ trợ cho các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức thuộc Đội Tuần tiễu 2, nhưng khi nó cùng các tàu chiến-tuần dương khác đến nơi, các đối thủ Anh đã rút lui về phía Bắc.

Đến cuối năm 1917, Hạm đội Biển khơi bắt đầu tiến hành hoạt động cướp phá các đoàn tàu vận tải tại Bắc Hải giữa Anh và Na Uy. Vào tháng 10 và tháng 12 năm 1917, các tàu tuần dương và tàu khu trục Đức đã chặn đánh và tiêu diệt hai đoàn tàu vận tải Anh đi đến Na Uy, buộc đô đốc Beatty, giờ đây là Tổng tư lệnh Hạm đội Grand, phải cho tách ra nhiều thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương để bảo vệ các đoàn tàu vận tải. Việc này đã phô bày cho đô đốc Scheer cơ hội mà ông đã chờ đợi trong suốt cuộc chiến tranh: khả năng cô lập và tiêu diệt từng phần Hạm đội Grand. Lúc 05 giờ 00 ngày 23 tháng 4 năm 1918, Hạm đội Biển khơi rời cảng với ý định đánh chặn một trong các đoàn tàu vận tải được hộ tống mạnh mẽ. Liên lạc bằng vô tuyến được giữ ở mức tối thiểu nhằm ngăn phía Anh biết được về chiến dịch. Đến 14 giờ 10 phút vẫn không tìm thấy đoàn tàu vận tải Anh, nên Scheer cho quay mũi Hạm đội Biển khơi trở về vùng biển Đức. Tuy nhiên, khi hạm đội đang được tập trung tại Wilhelmshaven, thủy thủ trên các con tàu bắt đầu đào ngũ hàng loạt. Khi DerfflingerVon der Tann đi qua các âu tàu phân cách cảng phía trong Wilhelmshaven và vũng biển, khoảng 300 người trên cả hai con tàu đã trèo qua mạn tàu và biến mất trên bờ.

Sáng ngày 29 tháng 10 năm 1918, mệnh lệnh được đưa ra để chuẩn bị khởi hành từ Wilhelmshaven để tập trung lực lượng tại Jade Estuary vào ngày hôm sau. Bắt đầu từ đêm 29 tháng 10, thủy thủ trên nhiều tàu chiến làm binh biến. Ba chiếc thuộc Hải đội Chiến trận 3 từ chối nhổ neo, và các hành động phá hoại xảy ra trên các chiếc ThüringenHelgoland. Sự bất ổn lan rộng ra các tàu chiến khác, và cuối cùng chiến dịch phải bị hủy bỏ; và trong một cố gắng để dập tắt cuộc nổi loạn, Scheer ra lệnh phân tán hạm đội. Vào đầu tháng 11 năm 1918, cuộc Cách mạng Đức bắt đầu; dẫn đến việc đình chiến và kết thúc chiến tranh cũng như lật đổ nền quân chủ tại Đức.

Số phận

nhỏ|trái|Derfflinger đang chìm dưới làn sóng|alt=A large warship rolls onto its side Sau khi Đức đầu hàng, hầu hết tàu chiến của Hạm đội Biển khơi, kể cả Derfflinger, bị lưu giữ tại căn cứ hải quân Anh tại Scapa Flow, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter. Trước khi Hạm đội Đức khởi hành, Đô đốc Adolf von Trotha khẳng định lại với von Reuter chỉ thị không được để cho phe Đồng Minh chiếm các con tàu trong bất kỳ tình huống nào. Hạm đội đã gặp gỡ tàu tuần dương hạng nhẹ Anh Cardiff, vốn đã dẫn đầu các con tàu Đức đi đến điểm gặp gỡ hạm đội Đồng Minh, một lực lượng khổng lồ bao gồm 370 tàu chiến của Anh, Mỹ và Pháp, vốn sẽ hộ tống hạm đội Đức đến Scapa Flow. Khi bị lưu giữ trong suốt thời gian diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình, mà sau này cuối cùng sẽ dẫn đến Hiệp ước Versailles,

Một bản in của báo The Times cung cấp thông tin cho von Reuter rằng Thỏa thuận Ngừng bắn sẽ hết hiệu lực vào giữa trưa ngày 21 tháng 6 năm 1919, thời hạn cuối cùng mà Đức phải ký vào Hiệp định hòa bình. Đô đốc Von Reuter đưa đến kết luận người Anh sẽ tìm cách chiếm hữu các con tàu Đức sau khi Thỏa thuận Ngừng bắn hết hiệu lực. Không biết rằng thời hạn của thỏa thuận đã được triển hạn đến ngày 23 tháng 6, ông quyết định đánh đắm các con tàu của mình vào cơ hội thuận tiện đầu tiên có được. Sáng ngày 21 tháng 6, Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành thực tập huấn luyện; và đến 11 giờ 20 phút Reuter truyền mệnh lệnh này đến các con tàu của mình. và hiện đang được trưng bày tại nhà thờ St. Michael trên đảo Outer Hebrides thuộc Eriskay. Bản đồ vị trí các con tàu bị đánh đắm tại Scapa Flow. Derfflinger được đánh dấu với số 20|alt=A map designating the locations where the German ships were sunk.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**SMS _Hindenburg**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức và là chiếc thứ ba thuộc lớp _Derfflinger_. Tên của nó được đặt nhằm vinh danh Thống chế Paul von Hindenburg, người
**SMS _Lützow**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ hai thuộc lớp _Derfflinger_ của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Được đặt hàng
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**SMS _Von der Tann**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo, cũng là chiếc tàu chiến chủ lực đầu tiên của Đức vận hành bằng turbine hơi
**SMS _Blücher**_ là chiếc tàu tuần dương bọc thép cuối cùng được Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) chế tạo. Được thiết kế để bắt kịp với những gì mà tình báo Đức tin
**SMS _Schlesien**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903
**SMS _Baden**_ là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được hạ thủy vào tháng 10 năm 1915 và hoàn
**SMS _Schleswig-Holstein**_ là một thiết giáp hạm của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
**SMS _König Albert**_, tên đặt theo Vua Albert của Saxony, là chiếc thứ tư trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
**SMS _Prinzregent Luitpold**_, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính Luitpold của Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong
**SMS _Markgraf**_ là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Markgraf_ được đặt lườn vào tháng 11 năm
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**HMS _Princess Royal**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Là chiếc thứ hai trong lớp _Lion_ bao gồm hai chiếc, nó được
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Carl Friedrich Heinrich Reinhard Scheer** (30 tháng 9 năm 1863 – 26 tháng 11 năm 1928) là một Đô đốc của Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_). Scheer gia nhập hải quân vào năm