✨SMS Von der Tann
SMS _Von der Tann_ là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo, cũng là chiếc tàu chiến chủ lực đầu tiên của Đức vận hành bằng turbine hơi nước. Vào lúc được chế tạo, Von der Tann là chiếc tàu chiến kiểu dreadnought nhanh nhất, có khả năng đạt tốc độ trên . Được chế tạo bởi hãng đóng tàu Blohm & Voss tại Hamburg, với tên được đặt theo Ludwig von der Tann, Von der Tann chính là "con ngựa thồ" của Hải đội Tuần tiễu thuộc Hạm đội Biển khơi Đức.
Von der Tann được thiết nhằm đối phó lại lớp tàu chiến-tuần dương Invincible của Anh. Trong khi thiết kế của Đức mang một cỡ pháo hơi nhỏ hơn, chỉ so với cỡ của loại hải pháo BL 12 inch Mk X trên các con tàu Anh, Von der Tann lại nhanh hơn và có vỏ giáp mạnh hơn đáng kể. Von der Tann đã đặt ra một tiền lệ cho các tàu chiến-tuần dương Đức, mang một vỏ giáp mạnh hơn các đối thủ Anh, cho dù phải đánh đổi với cỡ pháo nhỏ hơn.
Con tàu đã tham gia một số hoạt động của hạm đội trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, bao gồm trận Jutland, nơi nó đã tiêu diệt chiếc tàu chiến-tuần dương Anh HMS Indefatigable chỉ trong vòng vài phút giao chiến. Von der Tann cũng bị bắn trúng nhiều quả đạn pháo hạng nặng, nhưng những hư hỏng này được nhanh chóng sửa chữa và con tàu quay trở lại hoạt động cùng hạm đội sau hai tháng.
Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1918, giống như phần lớn tàu chiến của Hạm đội Biển khơi, Von der Tann bị lưu giữ tại Scapa Flow trong khi các cuộc đàm phán hòa bình diễn ra nhằm quyết định số phận của chúng. Hầu hết hạm đội đã bị đánh đắm vào ngày 21 tháng 6 năm 1919 nhằm ngăn chúng không bị rơi vào tay người Anh. Xác tàu đắm của Von der Tann được cho nổi trở lại vào năm 1930, và được tháo dỡ tại Rosyth từ năm 1931 đến năm 1934.
Bối cảnh
Thiết kế lớp tàu tuần dương lớn dẫn trước của Đức, chiếc Blücher, là một sự gia tăng kích cỡ ấn tượng so với những tàu tuần dương bọc thép trước đó. Blücher được trang bị mười hai khẩu pháo và được thiết kế để đối phó với những gì mà người Đức biết được về lớp tàu chiến-tuần dương Invincible, vốn dự đoán là một phiên bản mở rộng và lặp lại kiểu tàu tuần dương bọc thép căn bản. Khi đã có đủ thông tin về những chiếc tàu tuần dương mới của Anh, rõ ràng chúng không chỉ đơn giản là mở rộng trên những thiết kế trước đó, mà là một kiểu tàu chiến hoàn toàn mới, tàu chiến-tuần dương, mà Blücher yếu kém hơn toàn diện. Tuy nhiên, họ không có đủ kinh phí để thay đổi thiết kế của Blücher, nên chiếc tàu tuần dương dành cho tài khóa 1907 sẽ có một thiết kế hoàn toàn mới.
Việc thiết kế Von der Tann được bắt đầu vào tháng 8 năm 1906, dưới cái tên tạm thời "tàu tuần dương F", cho dù còn có sự bất đồng về vai trò dự định của con tàu mới. Đô đốc Alfred von Tirpitz chủ trương một con tàu tương tự như những tàu chiến-tuần dương mới thuộc lớp Invincible của Anh: pháo hạng nặng, vỏ giáp nhẹ và tốc độ cao với ý định sử dụng trong vai trò tàu trinh sát cho hạm đội cũng như để tiêu diệt tàu tuần dương của hạm đội đối phương. Tirpitz không có ý định sử dụng con tàu trong hàng chiến trận chính. Tuy nhiên, Kaiser Wilhelm II cùng với đa số sĩ quan của Văn phòng Hải quân Đế chế (Reichsmarineamt), có xu hướng muốn đưa con tàu vào hàng chiến trận sau khi bắt gặp đối phương, vốn yêu cầu một vỏ giáp mạnh hơn đáng kể. Việc nhấn mạnh đến khả năng tác chiến trong hàng chiến trận là hậu quả của tình trạng thua sút của Hạm đội Biển khơi Đức về số lượng so với Hải quân Hoàng gia Anh. loại tháp pháo kiểu LC/1907 nâng bằng thủy lực Bù lại, thiết kế phân bố một dàn pháo hạng hai tương đối mạnh mẽ.
Trong một hội nghị vào tháng 9 năm 1906, nhiều bất đồng chung quanh thiết kế của con tàu được giải quyết. Giám đốc Chế tạo Hải quân von Eickstedt tranh luận rằng do các cuộc thử nghiệm nổ cho các hệ thống bảo vệ được đề nghị cho chiếc tàu chiến-tuần dương mới chưa được hoàn tất, việc chế tạo phải được hoãn lại hầu có thể áp dụng mọi thay đổi cho thiết kế nếu cần. Ông cũng tranh luận rằng đạn pháo cỡ hoặc là đủ để xuyên thủng vỏ giáp những chiếc tàu chiến-tuần dương mới của Anh. Tuy nhiên, Đô đốc von Heeringen của Bộ tham mưu hải quân cho rằng, để con tàu có thể đối đầu với thiết giáp hạm đối phương, cỡ pháo là thực sự cần thiết.
Đô đốc Capelle, Phó giám đốc Vũ khí Hải quân, cho biết phải đến giữa tháng 11 năm 190, việc thử nghiệm thiết kế hệ thống bảo vệ dưới nước mới hoàn tất. Ông đề nghị nếu vách ngăn chống ngư lôi cần được gia cường thêm, con tàu có thể quá nặng cho cỡ pháo nếu như trọng lượng choán nước khoảng được duy trì. Đô đốc Tirpitz từ chối xem xét một cỡ pháo chính nhỏ hơn, ngay cả khi cần phải gia tăng tải trọng con tàu. Von Eickstedt đề nghị trang bị cỡ pháo hạng hai thay vì như thiết kế, nhưng trọng lượng nặng thêm khiến không thể trang bị đủ tám khẩu pháo chính. đặt trên bốn tháp pháo nòng đôi, gồm một phía trước, một phía sau và hai tháp pháo đặt so le qua mạn. Các khẩu pháo được đặt trên bệ kiểu Drh.L C/1907, vốn được xoay bằng điện, nhưng bản thân các khẩu pháo được nâng bằng thủy lực.
Không giống như những đối thủ Anh đương thời, Von der Tann còn mang một dàn pháo hạng hai mạnh bao gồm mười khẩu pháo SK L/45 đặt trên các bệ MPL C/06 bố trí trong các tháp pháo ụ, mỗi khẩu được cung cấp 150 quả đạn công phá và đạn xuyên thép. Vào lúc chế tạo, các khẩu pháo này có thể bắn đạn pháo nặng đến mục tiêu ở khoảng cách ; và sau đợt tái trang bị năm 1915, tầm xa được nâng lên . Nó cũng được trang bị mười sáu khẩu pháo SK L/45 nhằm tự vệ chống lại các tàu phóng lôi và tàu khu trục. Các khẩu pháo này cũng được bố trí trên các bệ kiểu MPL C/01-06, được cung cấp tổng cộng 3.200 quả đạn pháo; chúng bắn ra đạn pháo nặng với tốc độ 15 phát mỗi phút và tầm xa cho đến , khá xa đối với một loại vũ khí có cỡ nòng nhỏ.
Giống như những tàu chiến chủ lực vào thời đó, Von der Tann còn được trang bị bốn ống phóng ngư lôi với tổng cộng 11 quả ngư lôi. Chúng được bố trí trước mũi, sau đuôi và hai bên mạn tàu. Kiểu ngư lôi này mang đầu đạn nặng , và có tầm bắn hiệu quả khi cài ở tốc độ , nhưng bị giảm còn nếu phóng ở tốc độ . và sử dụng 10% nhiều hơn trọng lượng của nó dành cho vỏ giáp so với những tàu chiến-tuần dương mà nó đối đầu trong trận Jutland. Giống như chiếc tàu tuần dương bọc thép Blücher dẫn trước, nó được bảo vệ bởi một vách ngăn chống ngư lôi dày , được bố trí cách về phía sau vỏ lườn tàu bên ngoài; khoảng trống ở giữa được dùng để chứa than.
Hệ thống động lực
Von der Tann được cung cấp động lực bởi 18 nồi hơi đốt than hải quân kép, được phân thành năm phòng nồi hơi. Hơi nước được cung cấp với áp lực . Sau khi kết thúc cuộc bắn phá Scarborough, chỉ huy của Von der Tann, Đại tá Hải quân Max von Hahn, nhận xét rằng "than kém chất lượng và tính năng cháy của nó đã đưa đến khói dày đặc, làm bộc lộ vị trí của chúng ta." Trong trận Jutland, con tàu không thể duy trì tất cả các nồi hơi sau 16 giờ 00 do than kém phẩm chất. Nhiều tàu chiến Đức khác cũng mắc phải khó khăn tương tự trong trận đánh, kể cả Derfflinger và Seydlitz. Sau năm 1916, việc đốt than trong các nồi hơi được tăng cường bằng cách phun hắc ín lên than nhằm để than cháy tốt hơn. Các sống lườn tàu sau đó được bổ sung để cải thiện độ ổn định, và chỗ trống trước đây dành choc ác thùng chống lật được dùng để chứa thêm nhiên liệu. Lườn tàu của Von der Tann bao gồm 15 ngăn kín nước, và một đáy kép kéo dài đến 75% chiều dài con tàu. Vào ngày 8 tháng 5 năm 1911, Von der Tann gia nhập Đơn vị Tuần tiễu. Đến tháng 6 năm 1911 chiếc tàu chiến-tuần dương tham gia cuộc Duyệt binh Hạm đội tại Spithead nhân lễ đăng quang của vua George V của Anh.
Von der Tann sẵn sàng lên đường lúc 10 giờ 15 phút, một giờ trước khi các tàu chiến-tuần dương Anh đi đến chiến trường. Tuy nhiên, con tàu bị mắc lại do thủy triều thấp, vốn ngăn trở các tàu chiến-tuần dương vượt qua bãi cạn ở cửa sông Jadebusen. Mãi đến 14 giờ 10 phút, Von der Tann và Moltke mới có thể băng qua cồn cát, và Hipper ra lệnh cho các tàu tuần dương rút lui về phía sau hai chiếc tàu chiến hạng nặng, trong khi bản thân Hipper bị tụt lại khoảng một giờ phía sau trên chiếc tàu chiến-tuần dương Seydlitz. Đến 14 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ còn lại Strassburg, Stettin, Frauenlob, Stralsund và Ariadne hội quân với các tàu chiến-tuần dương. Seydlitz đến được chiến trường lúc 15 giờ 10 phút, Ariadne không chịu nổi các hư hại trong chiến đấu và bị đắm. Hipper tiến lên phía trước một cách thận trọng để truy tìm hai tàu tuần dương hạng nhẹ bị mất tích Mainz và Köln. Đến 16 giờ 00, hải đội Đức bắt đầu rút lui về Jade Estuary, đến nơi vào khoảng 20 giờ 23 phút.
Các cuộc bắn phá bờ biển Anh Quốc
Cuối năm đó Von der Tann đã tham gia cuộc bắn phá Yarmouth vào ngày 2–3 tháng 11. Lúc 16 giờ 30 phút ngày 2 tháng 11, cùng với Seydlitz (soái hạm của Hipper), Moltke, tàu tuần dương bọc thép Blücher cùng bốn tàu tuần dương hạng nhẹ Strassburg, Graudenz, Kolberg và Stralsund rời Jade Estuary hướng sang bờ biển Anh Quốc với ý định rải mìn các tuyến đường biển Anh. Sau đó lúc 18 giờ 00, hai hải đội chiến trận dreadnought của Hạm đội Biển khơi sẽ khởi hành để hỗ trợ từ xa. Lực lượng của Hipper hướng lên phía Bắc theo một vòng cung để tránh Heligoland cùng các tàu ngầm Anh được bố trí tại đây, rồi gia tăng tốc độ lên 18 knot. Khoảng 06 giờ 30 phút sáng hôm sau, các tàu chiến-tuần dương của Hipper trông thấy tàu quét mìn Anh Halcyon và đã khai hỏa, nên thu hút sự chú của tàu khu trục Anh Lively. Hipper nhận ra ông đang bỏ phí thời gian, và việc tiếp tục theo đuổi sẽ đưa các con tàu của mình đến một bãi mìn đã biết trước, nên ông ra lệnh cho các con tàu quay trở ra biển. Khi hải đội quay mũi, các con tàu bắn nhiều loạt đạn pháo nhắm vào Great Yarmouth, nhưng ít có tác dụng. Vào lúc Bộ Hải quân Anh nắm được toàn bộ tình hình, lực lượng Đức đã quay trở về vùng biển của mình.
Von der Tann cũng tham gia cuộc bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby vào ngày 15–16 tháng 12. Đội Tuần tiễu 1, cùng với Đội Tuần tiễu 2 bao gồm bốn tàu tuần dương hạng nhẹ Kolberg, Strassburg, Stralsund và Graudenz cùng hai chi hạm đội tàu phóng lôi, rời Jade Estuary lúc 03 giờ 20 phút. Các con tàu của Hipper di chuyển lên phía Bắc, đi qua các luồng mở giữa các bãi mìn, vượt qua Heligoland đi đến hải đăng Horns Reef, nơi các con tàu chuyển hướng sang phía Tây hướng đến bờ biển Anh Quốc. Các hải đội chiến trận của Hạm đội Biển khơi khởi hành lúc chiều tối ngày 15 tháng 12. Trong đêm đó, thành phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi đụng độ với các tàu khu trục Anh; lo sợ một cuộc tấn công bằng ngư lôi ban đêm, Đô đốc Ingenohl ra lệnh cho các con tàu dưới quyền rút lui. nhỏ|trái|Sự bố trí của Hạm đội Biển khơi vào sáng ngày [[16 tháng 12|alt=Map showing the locations of the British and German fleets; the German light cruisers pass between the British battleship and battlecruiser forces while the German battlecruisers steam to the northeast. The German battleships lie to the east of the other ships.]] Khi đến gần bờ biển Anh, các tàu chiến-tuần dương của Hipper tách làm hai nhóm. Seydlitz, Moltke và Blücher vòng lên phía Bắc bắn phá Hartlepool, trong khi Von der Tann và Derfflinger đi về phía Nam để bắn phá Scarborough và Whitby. Hai chiếc này đã phá hủy các trạm tuần duyên tại cả hai thị trấn cùng trạm liên lạc tại Whitby. Đến 09 giờ 45 phút ngày 16 tháng 12, hai nhóm hội quân trở lại và rút lui về phía Đông. Hipper đã không biết được việc rút lui của Ingenohl, nên sau khi hoàn thành việc bắn phá các mục tiêu theo kế hoạch, quay trở lại điểm hẹn với hạm đội Đức. Vào lúc này các tàu chiến-tuần dương Anh dưới quyền Phó đô đốc David Beatty ở vào vị trí ngăn chặn đường rút lui mà Hipper chọn, trong khi các đơn vị khác đang trên đường khép chặt vòng vây. Lúc 12 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ của Đội Tuần tiễu 2 bắt đầu vượt qua lực lượng Anh để tìm kiếm Hipper. Một trong các tàu tuần dương của Hải đội Tuần dương nhẹ 2 của Anh phát hiện Stralsund và đã thông báo cho Beatty. Đến 12 giờ 30 phút, Beatty cho quay mũi các tàu chiến-tuần dương dưới quyền về phía các con tàu Đức; ông dự đoán rằng những tàu tuần dương này là lực lượng mở đường cho các con tàu của Hipper, nhưng thực ra chúng đang ở khoảng 50 km (31 dặm) về phía trước. Hải đội Tuần dương nhẹ 2, vốn là lực lượng hộ tống cho các tàu của Beatty, được cho tách ra để săn đuổi các tàu tuần dương Đức. Tuy nhiên, một tín hiệu truyền đi từ các tàu chiến-tuần dương Anh được diễn dịch sai đã khiến chúng quay trở lại vị trí hộ tống. Sự lẫn lộn này cho phép các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức thoát được và báo động cho Hipper vị trí của các tàu chiến-tuần dương Anh. Lực lượng tàu chiến-tuần dương Đức rẽ lên phía Đông Bắc của lực lượng Anh và thoát được.
Von der Tann đang được tái trang bị vào lúc diễn ra trận Dogger Bank, và vì vậy nó bị lỡ mất trận này. Nó được thay thế bởi chiếc tàu tuần dương bọc thép Blücher, vốn bị đánh chìm trong trận chiến; một nhóm thủy thủ của Von der Tann đã được gửi sang Blücher và đã chìm theo con tàu. Trong năm 1915, con tàu tham gia các chiến dịch tại Bắc Hải và biển Baltic. Vào ngày 10 tháng 8 năm 1915, Von der Tann đã bắn phá đảo pháo đài Utö về phía Đông biển Baltic, trong đó nó đã đấu pháo tay đôi với tàu tuần dương bọc thép Nga Admiral Makarov. Von der Tann cũng đụng độ với tàu tuần dương bọc thép Nga Bayan và năm tàu khu trục, trong đó Von der Tann bị đánh trúng một quả đạn pháo vào ống khói, nhưng không bị thương vong. Vào ngày 3–4 tháng 2 năm 1916, Von der Tann tham gia cuộc xuất quân của hạm đội chào đón chiếc tàu cướp tàu buôn Möwe quay trở về nhà. Chiếc tàu chiến-tuần dương cũng có mặt trong các cuộc tiến quân hạm đội vào các ngày 5–7 tháng 3 năm 17 tháng 4,21–22 tháng 4 và 5 tháng 5. Các đơn vị hạng nặng của Hạm đội Biển khơi lên đường lúc 13 giờ 40 phút, với mục đích hỗ trợ từ xa cho các con tàu của Bödicker. Bộ Hải quân Anh đã biết được việc xuất quân của Đức nhờ thu thập tình báo vô tuyến, nên đã cho bố trí Hạm đội Grand lúc 15 giờ 50 phút.
Lúc 04 giờ 50 phút ngày 25 tháng 4, các tàu chiến-tuần dương Đức tiếp cận Lowestoft khi các tàu tuần dương hạng nhẹ Rostock và Elbing đang hộ tống phía bên sườn Nam trông thấy các tàu tuần dương hạng nhẹ và tàu khu trục thuộc lực lượng Harwich dưới quyền Đô đốc Reginald Tyrwhitt. Tyrwhitt lập tức quay mũi các con tàu của mình và thoát về phía Nam, nhưng chỉ sau khi chiếc tàu tuần dương Conquest chịu đựng hư hại nặng. Do các báo cáo về tàu ngầm Anh và các cuộc tấn công bằng ngư lôi, Bödicker bỏ dỡ việc truy đuổi quay mũi về phía Đông hướng đến Hạm đội Biển khơi. Vào lúc này, Scheer được cảnh báo về việc Hạm đội Grand đã khởi hành từ Scapa Flow nên cũng quay trở lại vùng biển Đức. Không lâu trước 16 giờ 00 giờ Trung Âu ngày 31 tháng 5 năm 1916, lực lượng của Hipper đã đụng độ với Hải đội Tàu chiến-Tuần dương của Đô đốc Beatty; các con tàu Đức nổ súng đầu tiên ở cự ly khoảng . Von der Tann đã bắn trúng Indefatigable năm lần trong tổng số 52 quả đạn pháo hạng nặng được bắn ra,
Sau khi Indefatigable bị phá hủy, Beatty quay mũi lực lượng dưới quyền, trong khi Hải đội Chiến trận 5 tiến đến gần các tàu chiến-tuần dương Đức và khai hỏa ở cự ly khoảng . Von der Tann và Moltke, hai chiếc sau cùng trong hải đội của Hipper, phải chịu đựng hỏa lực của ba chiếc thiết giáp hạm Anh dẫn đầu Hải đội Chiến trận 5 là Barham, Valiant và Malaya. Các tàu chiến-tuần dương Đức bắt đầu chạy zig-zag để lẩn tránh hỏa lực từ các con tàu Anh. Lúc 17 giờ 09 phút, sáu phút sau khi Indefatigable bị đánh chìm, Bản đồ trình bày sự cơ động của hạm đội Anh (xanh) và Đức (đỏ) trong ngày [[31 tháng 5–1 tháng 6 năm 1916.|alt=The British fleet sailed from northern Britain to the east while the Germans sailed from Germany in the south; the opposing fleets met off the Danish coast]] Lúc 17 giờ 20 phút, một quả đạn pháo từ chiếc tàu chiến-tuần dương Tiger đã đánh trúng bệ của tháp pháo A của Von der Tann. Một đoạn vỏ giáp bị bật ra bên trong tháp pháo kẹt vào bên trong cơ cấu xoay của tháp pháo, khiến nó bị kẹt ở góc 120°; loại bỏ khỏi vòng chiến tháp pháo "A" trong suốt trận chiến. Đến 17 giờ 23 phút, con tàu lại bị đánh trúng một quả đạn pháo 13,5 inch từ Tiger, đánh trúng gần tháp pháo "C" và làm thiệt mạng 6 người. Quả đạn pháo làm thủng sàn tàu và gây hư hại đến mức tháp pháo không thể xoay, đồng thời phòng động cơ bên mạn phải bị hư hại. Tháp pháo "C" bị loại khỏi vòng chiến cho đến khi mảnh hư hại được cắt rời khỏi lườn tàu. Đám cháy phát sinh do các mục tiêu thực hành chứa bên dưới tháp pháo đã khiến con tàu bị che khuất. Một phần lưới chống ngư lôi bị bung ra và kéo theo phía sau con tàu; tuy nhiên chúng được cắt rời trước khi bị mắc vào chân vịt. New Zealand, vốn đối đầu với Von der Tann sau khi Indefatigable bị phá hủy, mất dấu mục tiêu nên phải chuyển sang Moltke. Lúc 17 giờ 18 phút, khoảng cách giữa Von der Tann và Barham bị rút ngắn còn , khi Von der Tann nổ súng nhắm vào chiếc thiết giáp hạm Anh. Không lâu sau đó, Lúc 17 giờ 23 phút, Von der Tann ghi được một phát bắn trúng vào Barham, gây hư hại nghiêm trọng. Tuy nhiên, chỉ sau 24 phát đạn pháo, Von der Tann phải chuyển sang mục tiêu trước đó, chiếc New Zealand, do các tháp pháo trước mũi và sau đuôi bị loại khỏi vòng chiến, còn các tháp pháo giữa tàu không thể nhắm vào Barham.
Đến 18 giờ 15 phút, tháp pháo cuối cùng còn lại bị kẹt, khiến Von der Tann không còn khẩu pháo chính nào hoạt động. Dù vậy, nó vẫn tiếp tục ở lại trong hàng chiến trận để thu hút các pháo thủ Anh. Mười một phút sau đó, lúc 20 giờ 30 phút, tháp pháo 'B' hoạt động trở lại, và đến 21 giờ 00, tháp pháo 'C' cũng được phục hồi.
Lúc khoảng 22 giờ 15 phút, Hipper, giờ đây đặt cờ hiệu của mình trên chiếc Moltke, ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương của mình tăng tốc độ lên để đi vào phía sau hàng chiến trận Đức. Cả hai chiếc Derfflinger và Von der Tann, lần lượt do những hư hại trong chiến đấu, và do ảnh hưởng của than kém chất lượng trong việc đốt nồi hơi, đã không thể di chuyển với tốc độ nhanh hơn . Cả hai đã chiếm lấy các vị trí phía sau Hải đội Chiến trận 2, rồi sau đó có sự tham gia của các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ Schlesien và Schleswig-Holstein lúc 00 giờ 05 phút ngày 1 tháng 6. Đến 03 giờ 37 phút, tàu khu trục Anh Moresby bắn một quả ngư lôi vào cuối hàng chiến trận Đức; quả ngư lôi băng qua sát mũi chiếcVon der Tann, buộc con tàu phải bẻ lái gắt sang mạn phải để né tránh. Vào gần cuối trận đánh, lúc 03 giờ 55 phút, Hipper chuyển một báo cáo cho Đô đốc Scheer, thông báo cho cấp trên những hư hại lớn lao mà các con tàu dưới quyền phải chịu đựng. Vào lúc đó, Derfflinger và Von der Tann mỗi chiếc chỉ có hai khẩu pháo còn hoạt động, Moltke bị tràn khoảng 1.000 tấn nước, và Seydlitz bị hư hại nặng. Hipper báo cáo: "Đội Tuần tiễu 1 không còn khả năng chiến đấu một cách hiệu quả, và đang quay về cảng theo chỉ thị của Tổng tư lệnh, trong khi ông đang chờ đợi kết quả tác chiến ngoài khơi Horns Reef của Hạm đội Chiến trận."
Trong quá trình trận đánh, hai trong số các tháp pháo chính của Von der Tann bị hỏa lực pháo của Anh đánh hỏng, trong khi hai tháp pháo kia gặp trục trặc cơ khí. Con tàu đã bắn với tốc độ nhanh đến mức nhiều khẩu trên các tháp pháo giữa tàu quá nóng làm kẹt cơ cấu trượt chống giật, và không thể hoạt động trở lại. Von der Tann đã không có dàn pháo chính trong vòng 11 giờ, mặc dù ba tháp pháo đã phục hồi được hoạt động trước khi trận chiến kết thúc. Tháp pháo 'D' chỉ hoạt động trở lại sau khi mảnh kim loại uốn công được cắt rời bằng mỏ hàn oxy-acetylene khỏi lườn tàu; sau đó các khẩu pháo của nó chỉ có thể vận hành bằng tay.
Các hoạt động sau cùng
Sau trận Jutland, Von der Tann trãi qua đợt sửa chữa từ ngày 2 tháng 6 đến ngày 29 tháng 7. Phía Anh đã biết được kế hoạch của Đức và đã cho toàn bộ Hạm đội Grand xuất trận để đối đầu. Đến 14 giờ 35 phút, Scheer được cảnh báo về sự xuất hiện của Hạm đội Grand, và vì không muốn đối đầu với toàn bộ Hạm đội Grand chỉ mười một tuần sau khi trận Jutland kết thúc, nên đã quay mũi lực lượng của mình rút lui trở về các cảng Đức.
Von der Tann đã phục vụ như là soái hạm của Chuẩn đô đốc Ludwig von Reuter trong cuộc xuất quân của hạm đội đến Na Uy vào ngày 23–25 tháng 4 năm 1918, cũng như trong đợt tiến quân vào ngày 8–9 tháng 7. Trong khi Hạm đội Biển khơi được tập trung tại Wilhelmshaven, thủy thủ bắt đầu đào ngũ hàng loạt. Khi Derfflinger và Von der Tann băng qua các âu tàu phân cách cảng phía trong và vũng biển, khoảng 300 người của cả hai con tàu đã leo qua mạn tàu rồi biến mất trên bờ. Sáng ngày 29 tháng 10 năm 1918, mệnh lệnh được đưa ra để chuẩn bị khởi hành từ Wilhelmshaven vào ngày hôm sau. Bắt đầu từ đêm 29 tháng 10, thủy thủ trên chiếc Thüringen, và sau đó trên nhiều tàu chiến khác, đã làm binh biến. Sự bất ổn cuối cùng đã buộc Hipper và Scheer phải hủy bỏ chiến dịch. Được thông báo về tình hình, Kaiser phát biểu "Tôi không còn có một lực lượng Hải quân nữa".
Số phận
Bản đồ vị trí các con tàu bị đánh đắm tại Scapa Flow. Von der Tann được đánh dấu với số 22|alt=A map designating the locations where the German ships were sunk. Sau khi Đức đầu hàng vào tháng 11 năm 1918, hầu hết tàu chiến của Hạm đội Biển khơi, kể cả Von der Tann, bị lưu giữ tại căn cứ hải quân Anh tại Scapa Flow, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter. Hạm đội đã gặp gỡ tàu tuần dương hạng nhẹ Anh Cardiff, vốn đã dẫn đầu các con tàu Đức đi đến điểm gặp gỡ hạm đội Đồng Minh, một lực lượng khổng lồ bao gồm 370 tàu chiến của Anh, Mỹ và Pháp, vốn sẽ hộ tống hạm đội Đức đến Scapa Flow. Khi bị lưu giữ trong suốt thời gian diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình, mà sau này cuối cùng sẽ dẫn đến Hiệp ước Versailles, Von der Tann được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân Wollante; tuy nhiên, một ủy ban thủy thủ được hình thành bên trên con tàu, ủy ban này chiếm quyền kiểm soát con tàu một cách toàn diện, độc tài trong suốt thời gian bị chiếm giữ. nhỏ|trái|upright|Chiếc chuông của Von der Tann trưng bày tại [[Đài tưởng niệm Hải quân Laboe|alt=A large brass bell, engraved with the words "S.M.S. Von Der Tann", suspended on a white brick wall.]] Một bản in của báo The Times cung cấp thông tin cho von Reuter rằng Thỏa thuận Ngừng bắn sẽ hết hiệu lực vào giữa trưa ngày 21 tháng 6 năm 1919, thời hạn cuối cùng mà Đức phải ký vào Hiệp định hòa bình. Đô đốc Von Reuter đưa đến kết luận người Anh sẽ tìm cách chiếm hữu các con tàu Đức sau khi Thỏa thuận Ngừng bắn hết hiệu lực. Không biết rằng thời hạn của thỏa thuận đã được triển hạn đến ngày 23 tháng 6, ông quyết định đánh đắm các con tàu của mình vào cơ hội thuận tiện đầu tiên có được. Sáng ngày 21 tháng 6, Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành thực tập huấn luyện; và đến 11 giờ 20 phút Reuter truyền mệnh lệnh này đến các con tàu của mình. Nhiệm vụ cho nổi trở lại chiếc tàu chiến-tuần dương được giao cho công ty trục vớt của Ernest Cox. Trong công việc chuẩn bị, ba công nhân đã suýt thiệt mạng khi các mỏ hàn cắt bằng oxy-acetylene gây ra một vụ nổ lớn. Sức ép đã xé tung những lỗ hổng trong con tàu còn đang chìm, khiến nước tràn vào khoang vốn đã được đẩy nước ra bằng hơi ép. Vào lúc các công nhân được giải cứu, ngăn đã hầu như ngập nước hoàn toàn cho đến tận cổ họ. Dù sao, cuối cùng con tàu cũng được nổi trở lại thành công vào ngày 7 tháng 12 năm 1930, và được tháo dỡ tại Rosyth trong khoảng thời gian từ năm 1931 đến năm 1934.