✨Derfflinger (lớp tàu chiến-tuần dương)

Derfflinger (lớp tàu chiến-tuần dương)

Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913 như là sự đáp trả lại việc Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo ba chiếc tàu chiến-tuần dương mới thuộc lớp Lion vốn được hạ thủy vài năm trước đó. Lớp Moltke dẫn trước cùng với chiếc Seydlitz được nâng cấp đôi chút là tiêu biểu cho việc kết thúc sự tiến hóa thế hệ tàu chiến-tuần dương thứ nhất của Đức. Lớp Derfflinger tích hợp nhiều cải tiến đáng kể, bao gồm dàn pháo chính lớn hơn và được bố trí toàn bộ trên trục dọc nhằm loại bỏ việc tháp pháo giữa tàu có góc bắn giới hạn. Con tàu cũng lớn hơn đáng kể so với lớp dẫn trước; tuy nhiên, lớp Derfflinger lại sử dụng cùng một hệ thống động lực như lớp trước, và kết quả là với một trọng lượng choán nước lớn hơn, chúng chậm hơn đôi chút.

Lớp tàu này bao gồm ba chiếc: Derfflinger, LützowHindenburg, cả ba đều đã hoạt động cùng Hạm đội Biển khơi Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Derfflinger được đưa vào hoạt động không lâu sau khi chiến tranh nổ ra, và đã hiện diện trong hầu hết các hoạt động hải quân tại Bắc Hải, bao gồm trận Dogger Bank và trận Jutland. Lützow được đưa vào hoạt động vào tháng 8 năm 1915 và chỉ tham gia cuộc bắn phá Yarmouth trước khi bị đánh chìm trong trận Jutland. Hindenburg chỉ được đưa vào hoạt động cùng hạm đội vào tháng 5 năm 1917 nên đã không tham gia hoạt động đáng kể nào. DerfflingerHindenburg đã bị lưu giữ tại Scapa Flow sau khi có thỏa thuận ngừng bắn vào tháng 11 năm 1918. Trong khi số phận của chúng còn chưa được định đoạt, Chuẩn đô đốc Ludwig von Reuter, người chỉ huy Hạm đội Đức bị lưu giữ, đã ra lệnh đánh đắm các con tàu trong một nỗ lực tránh cho chúng khỏi bị Hải quân Hoàng gia Anh chiếm.

Thiết kế

Lớp tàu chiến-tuần dương Derfflinger là kết quả của Đạo luật Hải quân thứ tư, cũng là sau cùng, được thông qua vào năm 1912. Đô đốc Alfred von Tirpitz sử dụng phản ứng mạnh mẽ của công luận đối với việc Anh Quốc can thiệp vào vụ Khủng hoảng Agadir năm 1911 nhằm gây áp lực đối với Quốc hội Đức để phân bổ thêm ngân sách cho Hải quân. Đạo luật Hải quân thứ tư đảm bảo kinh phí đóng ba tàu chiến dreadnought mới, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và tăng cường thêm 15.000 sĩ quan và thủy thủ cho Hải quân vào năm 1912. Ba chiếc dreadnought được thông qua bởi đạo luật này chính là Derfflinger, LützowHindenburg. Việc thiết kế hai chiếc đầu tiên được bắt đầu vào tháng 10 năm 1910 và tiếp tục cho đến tháng 6 năm 1911; Hindenburg được chế tạo với một thiết kế cải biến đôi chút, vốn được tạo ra từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1912.

Khi công việc thiết kế bắt đầu, Hải quân được yêu cầu đưa ra những đề nghị nhằm khắc phục những khiếm khuyết tìm thấy trên những lớp tàu chiến-tuần dương dẫn trước, chủ yếu bao gồm hệ thống động lực và dàn pháo chính. Các tàu chiến-tuần dương trước đây sử dụng bốn trục động cơ; việc giảm xuống còn ba trục cho phép các con tàu mới trang bị một động cơ diesel cho trục giữa, vốn sẽ giúp làm tăng tầm xa hoạt động, thuận tiện trong việc tiếp nhiên liệu đồng thời giảm số nhân sự cần đến cho phòng động cơ. Hải quân cũng tranh luận về việc gia tăng kích cỡ dàn pháo chính từ lên kiểu vũ khí mạnh mẽ hơn. Đó là do trong thực tế các thiết giáp hạm mới nhất của Anh có đai giáp dày hơn, cho đến . Vì các tàu chiến-tuần dương Đức được dự định để hoạt động trong hàng chiến trận, vũ khí của chúng phải đủ mạnh để xuyên thủng vỏ giáp của các đối thủ Anh. Trọng lượng tăng thêm được bù trừ bằng cách giảm số khẩu pháo từ 10 xuống còn 8, nên việc gia tăng cỡ nòng dàn pháo chính chỉ làm trọng lượng choán nước của con tàu tăng thêm . Tuy nhiên Đô đốc Tirpitz lại phản đối việc gia tăng cỡ nòng dàn pháo chính khi ông cho rằng pháo đã đủ mạnh.

Một phương thức chế tạo mới được áp dụng nhằm tiết kiệm trọng lượng. Các tàu chiến-tuần dương trước đây có cấu trúc kết hợp các khung thép ngang và dọc; những chiếc thuộc lớp Derfflinger loại bỏ các khung ngang, chỉ sử dụng các khung dọc; nó cho phép con tàu duy trì được sức mạnh cấu trúc mà lại nhẹ hơn. Giống như những tàu chiến chủ lực trước đó, khoảng trống giữa vách lườn và vách ngăn chống ngư lôi được dùng để chứa than.

Vào ngày 1 tháng 9 năm 1910, ủy ban thiết kế chọn kiểu pháo 30,5 cm bố trí trên bốn tháp pháo nòng đôi đặt trên trục dọc của con tàu. Sơ đồ vỏ giáp được giữ lại như trên chiếc Seydlitz. Cũng trong thời gian đó, áp lực từ phía công luận và báo chí Anh đã thúc đẩy Quốc hội Anh tăng cường việc đóng tàu chiến. Kaiser Wilhelm II yêu cầu thời gian đóng các tàu chiến-tuần dương mới phải được rút ngắn xuống hai năm thay vì ba năm. Việc này được xem là không khả thi, vì các nhà thầu vỏ giáp và vũ khí không thể cung cấp vật liệu kịp thời theo tiến độ.

Các con tàu được Hải quân Đức đánh giá như những tàu đi biển xuất sắc. Những chiếc trong lớp Derfflinger được mô tả có chuyển động nhẹ nhàng, cho dù chúng bị ướt ở sàn bố trí tháp pháo ụ. Các con tàu bị mất cho đến 65% tốc độ khi cặp bánh lái được bẻ gắt, và nghiêng cho đến 11°. Điều này lớn hơn so với mọi thiết kế tàu chiến-tuần dương trước đó, và kết quả là các thùng chống lật được trang bị cho Derfflinger. Cả ba chiếc trong lớp đều có chiều cao khuynh tâm là . Thủy thủ đoàn tiêu chuẩn của mỗi con tàu gồm 44 sĩ quan và 1.068 thủy thủ; và khi phục vụ như là soái hạm của Đội tuần tiễu 1, các con tàu còn nhận thêm 14 sĩ quan và 62 thủy thủ. Những chiếc trong lớp Derfflinger mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm bao gồm một xuồng gác, ba xuồng chỉ huy, hai xuồng đổ bộ, hai xuồng yawl và hai xuồng nhỏ. Hơi nước được cung cấp đến các turbine từ 14 nồi hơi kép đốt than kiểu thủy quân và 8 nồi hơi đốt dầu hai đầu kiểu thủy quân. Mỗi con tàu còn được trang bị một cặp máy phát turbine và một cặp máy phát diesel, cung cấp tổng cộng 1.660 kw ở điện áp 220 V.. Mỗi con tàu có hai bánh lái. bố trí trên bốn tháp pháo nòng đôi, gồm một cặp bắn thượng tầng phía trước cấu trúc thượng tầng và một cặp tương tự phía đuôi. Trên hai chiếc đầu, các khẩu pháo được đặt trên bệ kiểu Drh.L C/1912, và nâng cấp lên bệ kiểu Drh.L C/1913 trên chiếc Hindenburg; các tháp pháo được xoay bằng động cơ điện nhưng bản thân khẩu pháo được nâng bằng thủy lực cho đến góc 13°5. Các khẩu pháo bắn ra đạn pháo xuyên thép nặng ở lưu tốc đầu đạn . Ở góc nâng 13°5, đạn pháo có thể bắn trúng mục tiêu ở khoảng cách . Các tháp pháo được cải tiến vào năm 1916 để tăng góc nâng tối đa lên 16°, giúp gia tăng tầm bắn tối đa lên . Các con tàu mang theo tổng cộng 720 quả đạn pháo, tức 90 quả đạn cho mỗi khẩu, bao gồm 65 quả đạn pháo xuyên thép (AP) và 35 quả đạn pháo bán xuyên thép (semi-AP) dành cho các mục tiêu bọc giáp kém hơn. Kiểu pháo 30,5 cm có tốc độ bắn từ 2 đến 3 phát mỗi phút, và được hy vọng sẽ bắn được 200 phát trước khi cần phải thay nòng. Chúng còn có khả năng bắn loại đạn nổ nặng . Đạn pháo được nạp hai liều thuốc phóng RPC/12: liều chính chứa trong vỏ đồng nặng và liều mồi chứa trong bao lụa nặng . Hầm chứa thuốc phóng được bố trí bên dưới phòng đạn pháo cho hai tháp pháo phía trước cũng như tháp pháo bắn thượng tầng phía sau, nhưng đảo ngược lại đối với tháp pháo tận cùng phía đuôi.

Số lượng pháo SK L/45 mà mỗi con tàu mang theo thay đổi theo những cấu hình khác nhau. Ban đầu chúng được thiết kế để mang tám khẩu pháo như vậy, tất cả đều được đặt trên các bệ nòng đơn gồm bốn ở cấu trúc thượng tầng phía trước và bốn ở cấu trúc thượng tầng phía sau. Các con tàu cũng mang bốn khẩu 8,8 cm Flak L/45 phòng không đặt chung quanh ống khói trước ngoại trừ Lützow bố trí chúng chung quanh ống khói sau. Sau năm 1916, bốn khẩu ở cấu trúc thượng tầng phía trước được tháo dỡ.

Các con tàu còn được trang bị ống phóng ngư lôi ngầm dọc theo lườn tàu, gồm một ống trước mũi, một phía đuôi và một ống mỗi bên mạn tàu.

Vỏ giáp

Những chiếc trong lớp Derfflinger được bảo vệ bằng thép giáp Krupp như là tiêu chuẩn cho mọi tàu chiến chủ lực của Đức vào thời đó. Chúng có đai giáp chính dày ở phần giữa thành trì của con tàu, nơi được bố trí hầu hết các thành phần trọng yếu bao gồm hầm đạn và các khoang động cơ. Đai giáp được làm mỏng hơn ở các khu vực ít quan trọng, dày cho đến ra phía trước và ra phía sau. Đai giáp được vuốt mỏng còn ở mũi tàu, nhưng phía đuôi hoàn toàn không được bọc giáp. Một vách ngăn chống ngư lôi dày chạy suốt chiều dài con tàu cách vài mét phía sau đai giáp. Lớp bọc giáp cho sàn tàu chính có độ dày từ ở những nơi ít quan trọng cho đến ở những vùng trọng yếu của con tàu.

Lịch sử hoạt động

SMS Derfflinger

Được đặt tên theo Georg von Derfflinger, một Thống chế Đức từng tham gia cuộc Chiến tranh ba mươi năm, Derfflinger được đưa ra hoạt động vào ngày 1 tháng 9 năm 1914. Một thủy thủ đoàn là công nhân xưởng tàu đã lái nó từ Hamburg đến Kiel ngang qua Skagen. Con tàu được phân về Đội Tuần tiễu 1 vào cuối tháng 10; tuy nhiên, turbine bị hư hại trong khi đang chạy thử máy đã ngăn trở nó hoạt động thường trực cho đến ngày 16 tháng 11. Vào ngày 15 tháng 12 năm 1914, Derfflinger tham gia cuộc bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby. Nó cũng hiện diện trong trận Dogger Bank vào ngày 24 tháng 1 năm 1915, nơi nó bị bắn trúng một quả đạn pháo từ một trong các tàu chiến-tuần dương Anh. Đáp trả lại, nó cũng gây hư hại nặng cho chiếc tàu chiến-tuần dương Lion. Công việc sửa chữa Derfflinger hoàn tất vào ngày 16 tháng 2, nhưng turbine bên mạn phải của nó lại bị hư hại vào ngày 28 tháng 6, và con tàu lại phải trở vào ụ tàu cho đến tháng 8. Vào ngày 24 tháng 4 năm 1916 Derfflinger tham gia cuộc bắn phá Yarmouth. nhỏ|phải|Hầm đạn của Queen Mary đang nổ tung|alt=A large warship is almost completely obscured by a huge column of smoke. Vào ngày 31 tháng 5, Derfflinger tham gia Trận Jutland và là chiếc thứ hai trong hàng tàu chiến-tuần dương Đức. Nó chịu đựng 21 phát đạn pháo hạng nặng bắn trúng trong suốt trận chiến, nhưng cũng gây thiệt hại đáng kể cho lực lượng tàu chiến-tuần dương Anh Quốc. Lúc 16 giờ 26 phút, Queen Mary chìm sau một vụ nổ hầm đạn làm vỡ đôi con tàu; nó đã phải chịu đựng một cơn mưa đạn pháo hạng nặng của DerfflingerSeydlitz. Hai giờ sau, lúc 18 giờ 30 phút, Invincible chịu đựng một số phận tương tự, cho dù Derfflinger được sự trợ giúp từ con tàu chị em Lützow. Trong quá trình trận chiến, cả hai tháp pháo phía đuôi của Derfflinger đều bị bắn hỏng bởi hỏa lực pháo phía Anh; thủy thủ đoàn của nó chịu đựng tổn thất gồm 157 người thiệt mạng và 26 người bị thương, cao nhất trong số những con tàu không bị chìm. Sự chịu đựng ngoan cường khiến cho nó được đặt biệt danh "Iron Dog" từ các đối thủ Anh.

Sau khi có thỏa thuận đình chiến vào tháng 11 năm 1918, Derfflinger cùng đa số lực lượng của Hạm đội Biển khơi Đức bị lưu giữ tại Scapa Flow. Sáng ngày 21 tháng 6 năm 1919, trong khi Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành thực tập huấn luyện, Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter, quyền chỉ huy hạm đội Đức bị lưu giữ, truyền mệnh lệnh đánh đắm hạm đội. Kết quả là khoảng 66 con tàu thuộc nhiều loại khác nhau đã bị đánh chìm, trong số đó có Derfflinger, vốn chìm lúc 14 giờ 45 phút. Con tàu được cho nổi trở lại vào năm 1939 để tháo dỡ, nhưng việc Chiến tranh Thế giới thứ hai đã làm trì hoãn việc này. Vẫn trong tình trạng bị lật úp, con tàu được neo ngoài khơi đảo Risa cho đến năm 1946, khi nó được kéo về cảng Faslane nơi nó được tháo dỡ. Chiếc chuông của nó được trao trả cho Hải quân Liên bang Đức vào ngày 30 tháng 8 năm 1965. nhỏ|trái|Invincible bị nổ tung|alt=A ball of flame engulfs a large gray warship. Several smaller ships are in the distance. Trong trận Jutland, Lützow là chiếc dẫn đầu trong hàng tàu chiến-tuần dương và là soái hạm của Hipper; nó thu hút hỏa lực từ các tàu chiến-tuần dương Anh kể cả những phát bắn trúng bên dưới mực nước. Không lâu sau khi hai lực lượng đối địch nhau, Lützow bắn trúng đối thủ Lion nhiều phát; một phát đã trúng tháp pháo "Q" của Lion, và vụ nổ hầm đạn diễn ra tiếp theo đã suýt phá hủy chiếc tàu chiến Anh. Không lâu sau 19 giờ 00, các tàu tuần dương bọc thép Anh DefenceWarrior vô tình chạm trán với hàng chiến trận Đức; Lützow lập tức nổ súng, rồi được tiếp nối bởi các tàu chiến Đức khác. Kết quả là hầm đạn của Defence nổ tung và nó bị chìm. Cũng trong khoảng thời gian đó, các tàu chiến-tuần dương mới nguyên thuộc Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 3 Anh Quốc bắt đầu đụng độ các đối thủ Đức. Từ 19 giờ 26 phút đến 19 giờ 34 phút, Lützow trúng bốn phát đạn pháo 12 inch từ các tàu chiến-tuần dương Anh vào phần mũi tàu, sau này trở thành những vết tử thương của nó. Dù vậy, lúc 19 giờ 30 phút, hỏa lực phối hợp của LützowDerfflinger đã phá hủy tàu chiến-tuần dương Anh Invincible. Đến 20 giờ 15 phút, Lützow trúng thêm năm phát nữa, bao gồm những phát trúng vào hai tháp pháo phía trước.

Cho đến 22 giờ 15 phút, Lützow đã bị ngập khoảng nước, và con tàu ngập sâu phía mũi một cách nguy hiểm. Sau nữa đêm, các nỗ lực tìm cách lái lui con tàu được tiến hành, nhưng mọi thứ đã không thành công vì phần mũi ngập sâu đã nâng phần đuôi tàu lên cao; và đến 02 giờ 20 phút ngày 1 tháng 6, chân vịt và cả hai bánh lái đều nhô cao khỏi mặt nước khiến nó hoàn toàn không thể điều khiển được nữa. Lệnh bỏ tàu được đưa ra, và đến 02 giờ 47 phút, Lützow bị tàu phóng lôi G38 đánh chìm. Con tàu bị mất do không thể kiểm soát được sự ngập nước phía mũi; hệ thống bơm phía trước bị hỏng và hệ thống trung tâm không đối phó được việc nước dâng cao.

SMS Hindenburg

nhỏ|phải|Các tàu chiến-tuần dương Đức trên đường đi đến [[Scapa Flow để bị lưu giữ sau khi đình chiến; DerfflingerHindenburg là những chiếc thứ ba và thứ tư trong hàng|alt=A line of large warships. Thick black smoke pours from their funnels as they steam through choppy seas.]] Hindenburg là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng được hoàn tất cho Hải quân Đế quốc Đức, và vì vậy chỉ có một lịch sử hoạt động ngắn ngũi. Nó được đưa ra hoạt động vào ngày 10 tháng 5 năm 1917 và hoàn toàn sẵn sàng tác chiến vào ngày 20 tháng 10 năm 1917, quá trễ để có thể tham gia hoạt động đáng kể nào trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Vào ngày 17 tháng 11, cùng với các tàu tuần dương hạng nhẹ của Đội Tuần tiễu 2, HindenburgMoltke đã hoạt động như lực lượng hỗ trợ xa cho các tàu quét mìn Đức ngoài khơi bờ biển Đức khi chúng bị các tàu chiến-tuần dương Anh tấn công. Tuy nhiên, cuộc bắn này khá ngắn ngũi; vào lúc HindenburgMoltke đi đến nơi, các con tàu Anh đã tách ra khỏi trận chiến và rút lui. Sáu ngày sau, Hindenburg thay phiên cho Seydlitz trong vai trò soái hạm của Đội Tuần tiễu 1. Ngày 23 tháng 4 năm 1918, con tàu tham gia một cuộc xuất quân vào Bắc Hải với ý định đánh chặn một đoàn tàu vận tải Đồng Minh. Moltke gặp phải trục trặc kỹ thuật trên đường đi, và kết quả là Phó đô đốc Hipper quyết định hủy bỏ chiến dịch. Vào ngày 11 tháng 8, Hipper được thăng lên Đô đốc và được giao quyền chỉ huy toàn bộ Hạm đội Biển khơi. Chuẩn đô đốc Ludwig von Reuter thay thế cho Hipper là tư lệnh Đội Tuần tiễu 1; ông đặt cờ hiệu của mình trên chiếc Hindenburg vào ngày hôm sau.

Hindenburg bị lưu giữ tại Scapa Flow cùng với con tàu chị em Derfflinger và các tàu chiến-tuần dương Đức còn lại. Nó bị đánh đắm vào ngày 21 tháng 6 năm 1919 và chìm lúc 17 giờ 00. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm trục vớt nó đã không thành công; cuối cùng vào ngày 23 tháng 7 năm 1930 con tàu cuối cùng cũng được cho nổi lên. Nó được tháo dỡ tại Rosyth từ năm 1930 đến năm 1932. Chiếc chuông của nó được trao trả cho Hải quân Liên bang Đức vào ngày 28 tháng 5 năm 1959.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**HMS _Princess Royal**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Là chiếc thứ hai trong lớp _Lion_ bao gồm hai chiếc, nó được
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**HMS _Lion**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, vốn được đặt tên lóng là những "Con mèo Tráng lệ" (Splendid Cats).
**HMS _Queen Mary**_ là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Thiết kế của
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**SMS _Hindenburg**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức và là chiếc thứ ba thuộc lớp _Derfflinger_. Tên của nó được đặt nhằm vinh danh Thống chế Paul von Hindenburg, người
**SMS _Von der Tann**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo, cũng là chiếc tàu chiến chủ lực đầu tiên của Đức vận hành bằng turbine hơi
**HMS _Indomitable**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Invincible_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã hoạt động tích cực trong cuộc
**HMS _Inflexible**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Invincible_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã hoạt động tích cực trong cuộc
**HMS _Invincible**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó bao gồm ba chiếc, và là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu
**SMS _Lützow**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ hai thuộc lớp _Derfflinger_ của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Được đặt hàng
**SMS _Blücher**_ là chiếc tàu tuần dương bọc thép cuối cùng được Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) chế tạo. Được thiết kế để bắt kịp với những gì mà tình báo Đức tin
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**SMS _Markgraf**_ là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Markgraf_ được đặt lườn vào tháng 11 năm
**SMS _Prinzregent Luitpold**_, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính Luitpold của Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong
**SMS _Schlesien**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903
**HMS _Royal Oak_ (08)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được hạ thủy vào năm 1914 và hoàn tất vào năm 1916, _Royal Oak_ tham gia
**SMS _König Albert**_, tên đặt theo Vua Albert của Saxony, là chiếc thứ tư trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
**SMS _Schleswig-Holstein**_ là một thiết giáp hạm của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
**SMS _Baden**_ là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được hạ thủy vào tháng 10 năm 1915 và hoàn
**HMS _Benbow**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; là chiếc thứ ba thuộc lớp thiết giáp hạm _Iron Duke_, tên của nó được đặt nhằm tôn vinh Đô
**Carl Friedrich Heinrich Reinhard Scheer** (30 tháng 9 năm 1863 – 26 tháng 11 năm 1928) là một Đô đốc của Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_). Scheer gia nhập hải quân vào năm
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong