✨Quân đội Phổ

Quân đội Phổ

Quân đội Hoàng gia Phổ () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong công cuộc đưa Nhà nước Phổ-Brandenburg vươn lên làm một liệt cường của châu Âu. Trong những năm tháng hào hùng của lực lượng Quân đội Phổ, người ta phải gọi Nhà nước Phổ là "một đội quân có quốc gia". Nhờ sự gầy dựng của Vương triều Hohenzollern tài ba, Quân đội Phổ hùng mạnh đưa đất nước trỗi dậy cường thịnh đến mức đi vào huyền thoại. Tổng quan, những năm tháng huy hoàng nhất của Quân đội Phổ là 1675, 1757 và 1813, với những thắng lợi vang dội của họ trước các cường địch.

Lực lượng Quân đội Phổ có nguồn gốc từ những đội quân đánh thuê của xứ Brandenburg trong cuộc Chiến tranh Ba mươi năm. Tuyển hầu tước Vĩ đại Friedrich Wilhelm I đã đưa những đội quân này trở thành một lực lượng Quân đội thường trực hữu dụng, đánh tan tác quân tinh nhuệ Thụy Điển trong trận đánh vang dội tại Fehrbellin vào năm 1675. Sau đó, ông còn tiêu diệt quân Thụy Điển trong "Cuộc đưa xe trượt tuyết vĩ đại" vào năm 1678. để giúp cho các Quân vương kế tục có thể dễ dàng đánh tan nát lân bang. Là vị Quốc vương đam mê văn hóa quân sự, để thành công công cuộc này, ông sai sứ giả đi khắp Âu châu đã thu nạp tân binh về cho lực lượng Quân đội Phổ. Có lần ông còn chỉ huy Liên quân chống Thụy Điển và đánh thắng Đế quốc này trong cuộc Đại chiến Bắc Âu. Tiếp bước tiên liệt, ông buộc tầng lớp quý tộc Junker phải thần phục và gia nhập quân ngũ.

Lực lượng Quân đội Phổ thường vận quân phục màu xanh dương. Dưới triều đại Quốc vương Friedrich II (tức Friedrich Đại Đế), ông tiếp tục gia tăng quân số, nâng cao thanh thế của Vương quốc Phổ và dẫn dắt Quân đội Phổ có tinh thần kỷ cương mà giành chiến thắng trong những cuộc Chiến tranh Silesia (1740 - 1763) vào thế kỷ thứ XVIII. Thời đó, dù là một quốc gia bị cô lập và ít mang tính "Đức" hơn các nước khác của người tộc Đức, Vương quốc Phổ trở nên vô cùng quan trọng vì có vua Friedrich II Đại Đế là người chiến binh xuất sắc nhất của châu Âu thời đó, cùng những tên tuổi sáng chói như Trung tướng Hans Joachim von Zieten và một vị Tướng Kỵ Binh có lẽ còn giỏi hơn nữa là Friedrich Wilhelm von Seydlitz. Không những thế, lực lượng Quân đội thiện chiến Phổ khi ấy trở thành hình mẫu cho các nước châu Âu về một đội quân hoàn hảo. Sự huy hoàng của Phổ gắn liền với những chiến thắng oanh liệt, huyền thoại của Quốc vương Friedrich II Đại Đế trong các trận đánh lớn tại Hohenfriedberg (1745), Roßbach, Leuthen (1757) và Zorndorf (1758) trước các cường địch như Áo, Pháp, Nga. Trong đội quân hùng hậu, dũng mãnh của ông, lực lượng Bộ binh một thời bất khả chiến bại, lực lượng Kỵ binh trở nên siêu việt và các lực lượng nhẹ gây cho quân địch khiếp sợ.

Sau khi nhà vua Friedrich II Đại Đế qua đời, cuộc chinh phạt Hà Lan vào năm 1787 đã đem lại cho vị thống soái của Quân đội Phổ là Karl Wilhelm Ferdinand, Quận công xứ Brunswick-Wolfenbüttel tiếng tăm lẫy lừng. Nhưng, trong những năm tháng đầu của các cuộc chiến tranh của Napoléon, Quân đội Phổ bị lỗi thời, và nước Phổ bị Đế chế thứ nhất Pháp đánh bại trong cuộc chiến tranh của Liên minh thứ tư. Tuy nhiên, trong những chiến công hiển hách của Quân đội Phổ trong giai đoạn này có cuộc đấu tranh anh dũng tại Kolberg (1807), giữ vững thành phố này khỏi tay quân Pháp xâm lược. Thế rồi, dưới sự dẫn dắt của quan Thượng thư Bộ Chiến tranh Gerhard von Scharnhorst, các nhà cải cách Phổ (trong đó có những tên tuổi lẫy lừng như Gebhard Leberecht von Blücher, Carl von Clausewitz hay August Neidhardt von Gneisenau) tiến hành hiện đại hóa Quân đội Phổ - một trong những đội quân đánh thắng được nhà độc tài Napoléon Bonaparte trong cuộc chiến tranh của Liên minh thứ sáu và Liên minh thứ bảy. Quân đội Phổ thể hiện mình là những chiến binh quả cảm nhất trong liên quân chống Pháp, và đóng vai trò không thể thiếu được với những chiến thắng quyết định trước Napoléon trong các trận đánh vang danh tại Leipzig (1813) và Waterloo (1815) - đại công của Bá tước Gebhard Leberecht von Blücher. Với chiến thắng huy hoàng của mình, nước Phổ lại một lần nữa trở nên uy dũng. Tuy nhiên, một số cải cách đã bị những kẻ thủ cựu - vốn cũng được hưởng lợi từ đại thắng của công cuộc kháng chiến vệ quốc - xóa bỏ, và sau này Quân đội Phổ trở thành một lực lượng bảo vệ của Chính phủ Phổ bảo thủ. Dù sao thì lực lượng Quân đội Phổ trong cuộc kháng chiến chống Napoléon đã mở đường cho sự thiết lập Bộ Tổng tham mưu Đức - một cỗ máy quân sự chuyên nghiệp nhất trên thế giới.

Vào thế kỷ XIX, lực lượng Quân đội Phổ được xây dựng vững mạnh, trước tình cảnh Áo - Phổ tranh hùng ở Đức. Các binh sĩ Phổ thiện chiến giành toàn thắng trong các cuộc chiến tranh chống Đan Mạch, Áo và Chiến tranh Pháp-Phổ, nhờ đó nước Phổ thống nhất các quốc gia ở Đức và thiết lập Đế chế Đức vào năm 1871. Trong những tên tuổi lớn vào thời kỳ này có Thống chế kiệt xuất Helmuth Karl Bernhard von Moltke và Alfred von Schlieffen, và chiến thắng của Quân đội Phổ trong ba cuộc chiến tranh ngắn ngủi này đã mang lại cho nước Phổ địa vị bá quyền ở Trung Âu, xua tan tành ảnh hưởng của người Áo và tiêu diệt được cái Đế chế thứ hai của người Pháp. Các chiến binh tinh nhuệ Phổ từng vây hãm được cả sào huyệt Paris của địch thù. Quân đội Phổ trở thành một lực lượng nòng cốt trong Quân đội Đế chế Đức - đội quân đã kế tiếp truyền thống hào hùng chống trả các cường địch thời Friedrich II Đại Đế trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và dù cuộc chiến kết thúc với chiến bại của nước Đức, nhưng có lúc họ đã đẩy liên quân hùng hậu Entente vào thế tuyệt vọng. Họ bị thay thế bằng lực lượng Quân đội Liên bang (Reichswehr) sau khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Tướng Hans von Seeckt là một viên Sĩ quan hiển hách trong những trang sử vàng son của nước Phổ xưa, lên nắm quyền chỉ huy Quân đội Liên bang và góp phần cho việc hồi phục sức mạnh quân sự, đưa nước Đức trở thành liệt cường quân sự hàng đầu thế giới thời đó.

Thời Tuyển hầu tước Friedrich Wilhelm Vĩ đại và vua Friedrich I

Sáng lập Quân đội

Sự trỗi dậy của Quốc gia [[Phổ-Brandenburg, 1600-1795]]

Quân đội Phổ phát sinh ra từ những lực lượng vũ trang thống nhất dưới triều Tuyển hầu tước Friedrich Wilhelm I của xứ Brandenburg (1640–1688). Lãnh địa Phổ-Brandenburg, dưới triều nhà Hohenzollern, thường sử dụng những đội quân đánh thuê Landsknecht trong cuộc Chiến tranh Ba mươi năm - cuộc chiến đã tàn phá xứ Brandenburg. Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh và quân Thụy Điển giao chiến ở gần xứ Brandenburg, và thường tùy tiện chiếm đóng lãnh địa này, do chính sách ngoại giao sai lầm nghiêm trọng của tiên chúa Georg Wilhelm và sự yếu kém của nền quân sự Brandenburg. Ngân sách lãnh địa bị kiệt quệ, vào năm 1640 cả thế giới chẳng mấy ai biết đến xứ Phổ bé nhỏ. Không nơi đâu cuộc chiến tranh diễn ra ác liệt bằng xứ Brandenburg. Trong suốt cuộc đời của mình, Tuyển hầu tước dốc sức đưa lãnh địa nhà trở thành một liệt cường quân sự. Đó là lực lượng Quân đội thường trực đầu tiên trong lịch sử nước Phổ - Brandenburg. Chúa Friedrich Wilhelm I cũng liên minh với Pháp - kẻ thù truyền kiếp của Nhà Habsburg của Áo và tiến hành nhận viện trợ của Pháp. Ông tiến hành cải cách dựa theo những cải cách của Hầu tước Louvois (François-Michel le Tellier), quan Thượng thư Bộ Chiến tranh của vua Pháp Loui XIV khi đó. Nhờ sự phát triển của Quân đội Phổ, Tuyển hầu tước Friedrich Wilhelm I đã chiếm được nhiều vùng đất theo Hòa ước Westfalen vào năm 1648, dù xứ Brandenburg không giành được nhiều thắng lợi trong suốt ba mươi năm chiến tranh. Tuy nhiên, với một lãnh địa đã bị quân Thụy Điển và quân Áo tàn phá trong cuộc đại chiến, xứ Brandenburg vẫn còn gặp hiểm nguy. Đất đai thì khô cằn, và nhân dân phải đối đầu với nguy cơ bị quân Thụy Điển, quân Pháp, quân Đan Mạch, quân Nga, quân Ba Lan và quân Tartar xâm lược. Tuyển hầu tước được quyền tự do áp đặt thuế má, và thế là ông cứ việc ban hành chính sách mà khỏi cần phải hỏi ý ai - điều này khiến cho vị vua - chiến binh Friedrich II Đại Đế sau này sẽ đạt lợi thế trước kình địch của ông là Nữ hoàng Áo Maria Theresia - người phải lệ thuộc vào tầng lớp quý tộc Áo khi đó. Tuyển hầu tước còn cho phát triển hệ thống Trường Thiếu Sinh Quân phục vụ tầng lớp quý tộc; dù tầng lớp thượng lưu phản đối ý tưởng này trong một thời gian ngắn, việc đưa quý tộc vào các quân đoàn sẽ giúp họ liên minh với nền quân chủ Hohenzollern trong một thời gian. Các Thống chế của Phổ-Brandenburg bao gồm Derfflinger, Johann Georg II, Spaen và Sparr. Tuy Defflinger có mối quan hệ sóng gió với vị Tuyển hầu tước vĩ đại, nhất là khi ông nói: "không ai có thể vượt mặt Hạ thần", ông vẫn sẵn sàng lập chiến công cho Friedrich Wilhelm I. Song, thậm chí có lần ông còn giải ngũ khi Triều đình phong Vương công xứ Anhalt-Dessau (Johann Georg II) làm Tổng tư lệnh của đạo quân Phổ tại sông Rhine, nhưng khi tình hình không thuận lợi thì Defflinger được Friedrich Wilhelm I triệu ra thay. Vốn theo truyền thống, các đạo quân của Tuyển hầu tước được tổ chức thành những lực lượng của các tỉnh tách rời trong lãnh địa. Vào năm 1655, nhà chúa xuống lệnh cho Thống chế Sparr chỉ huy những đội quân tách rời này. Không những thế, Tuyển hầu tước còn giao cho Tướng coi Quân nhu là Platen việc quản lý quân nhu, góp phần gia tăng sự thống nhất cho lực lượng Quân đội của lãnh địa. Nhờ đó, uy quyền của các viên Đại tá đánh thuê vốn đã nắm quá nhiều uy quyền trong cuộc Chiến tranh Ba Mươi năm bị giảm sút. Đồng thời, Triều đình cũng vời đội dân quân vùng Đông Phổ về triều mà phò chúa, giúp nước. Lực lượng Quân đội Brandenburg nhanh chóng gia tăng, với 8 nghìn quân sĩ vào ngày tháng 9 năm 1655, sau đó lên đến 22 nghìn binh lính vào tháng 6 năm 1656 và 27 nghìn binh sĩ khi Hiệp định Oliva được ký kết vào năm 1660. Và, những năm tháng đó được nhà sử học Curt Jany coi là lúc lực lượng Quân đội thường trực Brandenburg thực sự được sáng lập.

Những cuộc chinh chiến của Tuyển hầu tước Vĩ đại và Friedrich I

nhỏ|phải|Các chiến binh Brandenburg trong Trung đoàn Bộ Binh của [[Leopold I, Vương công của Anhalt-Dessau, bởi Richard Knötel.]]

Vào tháng 6 năm 1656, Tuyển hầu tước liên minh với vua Thụy Điển là Karl X. Lực lượng Quân đội Phổ-Brandenburg tồn tại được trong cuộc thử lửa lần thứ nhất của họ nhờ chiến thắng trong trận đánh lớn tại Warsaw, trong cuộc Chiến tranh Bắc Âu. Liên quân Phổ - Thụy Điển giáp chiến với quân Ba Lan trong suốt ba ngày, và những đội Kỵ binh hùng hậu của liên quân đã đại phá tan nát được địch quân. Trong cuộc đại chiến này, Tuyển hầu tước đã thể hiện được ông là một vị thống soái khá tài tình, dũng cảm, năng nổ và không sợ mọi hiểm nguy. Người ta phải ấn tượng trước tinh thần kỷ luật tốt của các chiến binh Brandenburg, cũng như do họ đối xử tốt với dân chúng Ba Lan, khác với thái độ ngược đãi của Quân đội Thụy Điển. Chiến thắng của vua Karl X đã khiến cho Hà Lan, Nga và cả Đế quốc La Mã Thần thánh lo sợ nên họ đã hỗ trợ cho Ba Lan. Không những thế, người Ba Lan và người Tartar bắt đầu lăm le tấn công tuyến quân nhu của người Thụy Điển và người Brandenburg. Trước tình hình người Thụy Điển bị lâm vào tình thế cô lập, người Brandenburg đã có thể bước vào vòng đàm phán, buộc họ phải công nhận quyền thống trị xứ Phổ của ông. Sau thành công này, ông nhận thấy tình hình Thụy Điển trở nên nguy kịch do người Đan Mạch nhảy vào tham chiến. Thế rồi, ông lập tức mở cuộc đàm phán với người Ba Lan. Nhờ vào thắng lợi của Quân đội Nhà Hohenzollern, Friedrich Wilhelm I nhận được quyền Bá chủ Công quốc Phổ vào năm Hiệp định Wehlau (1657), theo đó Phổ-Brandenburg liên minh với chính Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva và Đế quốc La Mã Thần thánh. Trong các năm 1658 - 1659, quân Brandenburg dũng mãnh liên tiếp chiến thắng như chẻ tre, quân Thụy Điển phải tháo chạy.. Sau chiến thắng, Tuyển hầu tước Friedrich Wilhelm I có lệnh cho giảm quân số, nhưng không có gì khó khăn với người Brandenburg một khi quân số ít đi: kể từ thời ông, các triều vua chúa Brandenburg không bao giờ phải gầy dựng Quân đội tinh nhuệ trong khi Nhà nước đang trong cơn nguy kịch nữa. Từ năm 1660 cho đến năm 1672, Tuyển hầu tước có khoảng từ 7 nghìn đến 12 nghìn binh sĩ dưới ngọn cờ của ông.

Tuyến quân Thụy Điển đã bị hủy diệt tại Rathenow, tạo điều kiện cho Tuyển hầu tước Friedrich Wilhelm I đánh trận vang danh nhất trong tất cả những cuộc chiến tranh của ông - đó là trận Fehrbellin ở gần kinh đô Berlin. Để nối lại liên kết với nơi phòng thủ của mình, Trung đoàn Thụy Điển tại thành phố Brandenburg đã rút sâu vào làng mạc, dự định hành binh về phía Tây Bắc để gia nhập với quân chính quy tại Havelberg. Tuy nhiên, quân xâm lược đã sai lầm: những trận mưa tuôn mưa xối Xuân - Thu làm các đầm lầy trở thành con suối chảy như điên. Quân Thụy Điển đành phải lui binh về thị trấn nhỏ bé Fehrbellin trên sông Rhine. Trong trận đánh ở đây, tuy Quân đội Brandenburg có quân số nhỏ hơn, nhưng họ đã chiến đấu dũng mãnh, và nhờ có đòn tấn công đẹp mắt của quân Kỵ binh Brandenburg, vị Tuyển hầu tướcông đã đại phá tan tác quân tinh nhuệ Thụy Điển đông đảo hơn. Trận đánh chỉ kéo dài trong 2 tiếng đồng hồ thì người Phổ đã đại thắng. Bãi chiến trường Fehrbellin trở nên thiêng liêng.

trái|[[Trận Fehrbellin - chiến thắng vang dội đầu tiên của Quân đội Phổ (1675).]]

Tuy chiến thắng ban đầu tại Warszawa thật là quan trọng nhưng thắng lợi vang dội tại Fehrbellin xem chừng còn nổi tiếng hơn cả trận thắng này. Dù đã cao niên, Thống chế Derfflinger đã lập nên công lớn trong trận thắng vang dội này, và ông trở thành vị đại kiệt tướng đầu tiên trong lịch sử Phổ. Dưới sự chỉ huy của viên chỉ huy Long Kỵ binh táo tợn này, ba quân hành binh nhanh nhạy. Từ tháng 7 cho tới tháng 12 năm 1677, quân Brandenburg bắn phá Stettin và vây hãm thành trì này cả trên đất liền lẫn biển cả. Quân đội Brandenburg hứng chịu tổn thất nặng nề, tuy nhiên họ đã đưa thành phố này đến cảnh khốn cùng, bị tan hoang với những đám cháy do hỏa pháo Brandenburg gây ra. Đội quân đồn trú Thụy Điển bị suy kiệt.

Vào năm ấy, ông lại quyết định mở chiến dịch chinh phạt đảo Rügen, hòn đảo yểm trợ cho hòn đảo lớn và pháo đài trên biển Stralsund. Quân Thụy Điển kháng cự quyết liệt, nhưng rồi quân Brandenburg đã chiếm đoạt được Rügen vào tháng 9 năm 1678, tạo điều kiện cho họ tiếp tục đánh Stralsund. Những người lính Bộ Binh Phổ trên xe trượt tuyết đã cắt hết tất cả các đường dễ rút của quân Thụy Điển, làm cho kẻ thù lâm vào thảm họa. Nhà sử học người Scotland Thomas Carlyle phải so sánh của lui quân vào Mùa Đông của đám bại binh Thụy Điển với cuộc rút lui khỏi thành phố Moskva của Napoléon và đám tàn quân của ông ta. Chiến dịch này có tầm ảnh hưởng rất to lớn đến các chiến dịch của Phổ - Đức về sau. Trong cả thay 16 nghìn tàn quân Thụy Điển, chỉ có 3 nghìn người có thể về được đến trường thành Riga. Quân Brandenburg chiến thắng vẻ vang rất nhanh chóng, đóng góp to lớn cho truyền thống Chiến tranh Cơ động ("Bewegungskrieg") trứ danh của nền quân sự Phổ - Đức.

Sinh thời, ông có nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiến hành một cuộc chiến tranh nhanh gọn, điều này có ảnh hưởng lớn lao đến các thế hệ Tư lệnh Phổ - Đức đời sau, điển hình như Friedrich II Đại Đế và Moltke. Tuy nhiên, do các lân bang thiên về chống lại ông, Friedrich Wilhelm I lập lại hòa bình bằng việc ký kết Hòa ước St. Germain với Thụy Điển theo đó ông trả lại tỉnh Pomerania cho họ, song ông thống nhất được thêm lãnh địa của mình. Sau này vua Friedrich II Đại Đế rất ngưỡng mộ vị Tuyển hầu tước Vĩ đại, vì vị tổ dũng mãnh này là người mở ra những năm tháng vàng son cho lịch sử Phổ. Ông gầy dựng lực lượng Quân đội Nhà Hohenzollern nhiều nhất là 7 nghìn binh lính trong thời bình và khoảng 15 nghìn - 3 vạn chiến binh trong thời chiến chinh. Chiến thắng của Quân đội Nhà Hohenzollern trước quân Ba Lan và quân Thụy Điển đã mang lại vinh quang cho lãnh địa Phổ-Brandenburg, và cũng giúp cho vị Tuyển hầu tước Vĩ đại áp đặt các chính sách của chế độ quân chủ chuyên chế vào các điền trang và thị trấn. Trong lúc này, họ có đến 3 vạn binh sĩ tinh nhuệ, bao gồm 36 Tiểu đoàn Bộ binh, 32 Sư đoàn Thiết Kỵ binh và 8 Sư đoàn Long Kỵ binh, dù lãnh địa khi ấy chỉ có một triệu rưỡi dân. Xứ Phổ vươn lên thành một trong những liệt cường quân sự hùng mạnh nhất của Bắc Âu. Con của Tuyển hầu tước Vĩ đại là Friedrich III (1688–1713) lên nối ngôi báu. Thấy thực lực của lãnh địa ngày càng lớn mạnh, và giữa lúc một cuộc đại chiến chống Pháp lại sắp nổ ra, Với ông, những binh sĩ tinh nhuệ này không những giúp ông bảo vệ Vương quốc non trẻ, mà còn Ngôi báu và Vương triều của mình. Đời Friedrich I, nước Phổ hãy còn nhỏ bé nhưng là liệt cường quân sự Kháng Cách hùng mạnh nhất trong Đế quốc La Mã Thần thánh dân tộc Đức. Ông cũng tham chiến ở Cassano (1705), vào năm 1709, ông đưa Hoàng thái tử Friedrich Wilhelm ra chiến trường Malplaquet. Chính danh tướng Eugène cũng thừa nhận rằng để ông có thể nghiền nát địch tại Blenheim, những chiến binh Phổ là không thể thiếu được. Chiến thắng tại Malplaquet làm ảnh hưởng lớn đến tâm tư của vị Thái tử 21 tuổi: liên quân Anh - Áo - Phổ thắng trận nhưng cả phải hứng chịu tổn thất kinh khủng (Pháp cũng tương tự), và đây là trong những trận đánh ác liệt nhất trong chính sử châu Âu.

Nhìn chung, quân lực Phổ không ngừng phát triển dưới thời Friedrich I.

Thời vua Friedrich Wilhelm I

phải|Vị vua - chiến binh [[Friedrich Wilhelm I của Phổ|Friedrich Wilhelm I, qua nét vẽ của Antoine Pesne]]

Vau Friedrich I được kế tục bởi người con trai của ông, vị vua - chiến binh Friedrich Wilhelm I (1713–1740). Vị tân Quốc vương - vốn từng tham chiến tại Malplaquet như đã nêu trên Khi mới lên ngôi vua, ông liền bán hết các thứ trang sức xa hoa của cung đình, Quốc vương Friedrich Wilhelm I thường mặc chiến bào xanh dương trông thật giản dị của ông trong cung đình, và từ đây, mọi quan viên Triều đình Phổ, và cả các vị vua kế tục ông nữa, đều ăn mặc như vậy. Truyền thống này được ông vua - chiến binh này khởi xướng vào năm 1725 và trở nên gắn bó với nền quân sự Phổ. Khác với phần lớn các Triều đình khác của người tộc Đức, vua quan Phổ để tóc thắt bím chứ không phải là bộ tóc giả dài che cả gáy. Nhà vua phán:

Nhà vua cũng cho rằng quân lực của nước Phổ cần phải hùng hậu hơn các lân bang, do đó ông quyết tâm quân sự hóa xã hội đất nước. Vả lại, một lực lượng Quân đội thường trực có tinh thần kỷ cương cao độ sẽ giữ vững chiếc Vương miện của ông hơn là đời sống xa hoa của bậc đế vương trong Hoàng cung. Kinh thành Berlin không còn là Athena của Đức nữa, mà là Sparta trên đất Đức. Ngoài những chiến binh tinh nhuệ, ông còn yêu thích có những bộ quân phục lẫn những khẩu súng của ba quân. Từ khi còn chỉ huy Trung đoàn Thái tử (Konprinz) trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, Friedrich Wilhelm I đã tiến hành những đổi mới về quân sự. Ông có tài chỉ huy Trung đoàn và là một vị vua - chiến binh, đích thân thống lĩnh ba quân, khác với vua Pháp Louis XIV chỉ tối ngày sai các Thống chế của ông ta vào sinh ra tử ngoài trận mạc. Hoàng thái tử Friedrich ra đời vào năm 1712 (ít lâu trước khi nhà vua lên nối ngôi) và ông luôn có hoài bão nuôi dạy con mình trở thành một vị Quân vương đam mê binh cách, phát huy truyền thống quân sự hào hùng của đất nước. Ông rất kiên trì và quyết tâm trong việc huấn luyện ba quân, và nhờ đó các chiến binh của ông được thao luyện tốt.

Lá thư trên đã chứng tỏ rằng đôi khi các bậc đế vương Âu châu phải hoảng sợ trước cảnh các thuộc hạ của Quân vương nước Phổ lùng khắp cả châu lục những nam thanh niên khổng lồ nhất. Những binh đoàn Phổ bấy giờ là tinh nhuệ nhất trên toàn cõi Âu châu, không ai sánh bằng. Những Trung đoàn hùng mạnh tại các Hoàng cung Versailles (Pháp) và St. James (Anh Quốc) hãy còn kém xa Phổ về chất lượng. Nhưng trong khi Friedrich Wilhelm I đã để lại cho Friedrich II Đại Đế một gia tài đồ sộ như vậy mà hưởng thụ, ông không hề táo bạo xua quân tung hoành ngang dọc để mang lại vẻ vang cho đất nước - điều mà con ông đã hoàn thành vang dội. Trong di sản của nhà vua Friedrich Wilhelm I có lực lượng Bộ Binh hùng hậu là nòng cốt của lực lượng Quân đội Phổ.: với 31 Trung đoàn, với quân số tiêu chuẩn thời chiến là 17 nghìn binh sĩ được chia làm 2 Tiểu đoàn.

Thời vua Friedrich II Đại Đế

Những cuộc chiến tranh Silesia

trái|Quân đội Phổ xung phong trong trận đại chiến tại [[Trận Leuthen|Leuthen, 1757, qua nét vẽ của Carl Röchling. Chiến thắng vẻ vang này, cùng đại thắng trong trận Roßbach trước đó đưa nước Phổ trở nên vang danh trên khắp thế giới. Vị vua - chiến binh Friedrich II Đại Đế lập tức giải toán lực lượng "Những người khổng lồ thành Potsdam" hoành tráng, và thành lập bảy Trung đoàn mới với 1 vạn quân tinh nhuệ, dùng chi phí cho lực lượng "Những người khổng lộ thành Potsdam" trước đây để trả lương cho họ. Vị tân Quốc vương cũng thêm 16 Tiểu đoàn, 5 Sư đoàn Khinh Kỵ binh và một Sư đoàn Ngự Lâm quân. Ông cũng phong các em mình là Thái đệ August Wilhelm, Hoàng tử Friedrich Heinrich Ludwig và Hoàng tử August Ferdinand làm tướng soái trong Quân đội Phổ. Thời đó, các Trung đoàn Phổ là những cỗ máy chiến tranh của Bộ Chỉ huy. Có lần, khi nhà vua làm lễ duyệt binh cùng Vương công Leopold I, ông hỏi Leopold I rằng cái gì làm cho vị lão thần ấn tượng nhất? Leopold I đáp: "Muôn tâu Đức Thánh Thượng! Còn gì hơn sự uy dũng của ba quân của Người, cùng với sự bài bản và tuyệt hảo của những cuộc hành binh của họ?... Nhưng, thưa Quốc Vương kính yêu, điều lão đây thán phục nhất là chúng ta có thể đứng tuyệt đối an toàn tại đây, nhìn trước 6 vạn đại binh - họ đều là kẻ thù của chúng ta, và không ai trong số đó có vũ trang tốt và hùng mạnh hơn chúng ta, và rồi họ đều phải kiêng dè trước uy thế của chúng ta, trong khi chúng ta không gì lại nể sợ họ. Quả là hiệu lực kỳ diệu của nề nếp, lòng trung thành và sự giám sát chặt chẽ".

Trong năm trị vì đầu của mình ông đã phát động chiến tranh. Nếu chiếm được tỉnh Silesia thì Vương quốc Phổ sẽ có nhiều thuận lợi do đó nhà vua có khát khao chinh phạt tỉnh này. Thế là, dù ban đầu quan Thượng thư Bộ Ngoại giao Podewils khuyên Đức Vua không nên làm vậy, ông xuống lệnh cho Podewils chuẩn bị cho ba quân, vì ông cho rằng, một khi các chiến binh tinh nhuệ được chuẩn bị tốt, "chúng ta sẽ có lợi thế ưu việt hơn hẳn các liệt cường khác trong một sự biến bất ngờ như thế này" Dù rằng vị Quân vương trẻ tuổi phải rút khỏi trận tiền, đội quân Phổ dũng mãnh do Thống chế Schwerin chỉ huy đã đánh bại quân Áo trong trận đánh tại Mollwitz vào năm 1741. Schwerin - vị dũng tướng thắng trận này - được mệnh danh là "một trong những vị tướng lĩnh vĩ đại nhất thời đại". Cả thế gian phải thán phục đoàn quân chiến thắng và quân Áo đã phải khiếp sợ trước hỏa lực của Phổ. Vài ngày sau chiến thắng đầu tiên này, nhà vua Friedrich II Đại Đế sáng tác bản "Quân hành ca Mollwitz" (Mollwitzer Marsch). Tuy quân Phổ thắng trận nhưng lực lượng Kỵ binh của Tướng Schulenburg chiến đấu không được tốt, và bản thân Schulenburg cũng hy sinh ngoài xa trường. Sau lần này, đội Thiết Kỵ binh, vốn phải chiến đấu trên lưng những con ngựa nặng, phải dùng những con chiến mã linh động hơn và nhẹ nhàng hơn. Sau chiến thắng, Quân đội Phổ vây hãm pháo đài Brieg và quân trấn thủ ở đây nhanh chóng đầu hàng. Nhà vua gia tăng kỷ luật toàn quân, và cũng mở mang cho các đội Khinh Kỵ binh và Long Kỵ binh của Trung tướng Zieten - người đã đập tan tác quân Kỵ binh Áo trong trận đánh ở Rochschloss vào ngày 17 tháng 5 năm 1741. Cuối năm ấy, quân Phổ tiến công thành Neisse và hạ được pháo đài này, trong khi một đạo quân Phổ tiến đánh miền Hạ Silesia. Nhờ có những cải cách của nhà vua, quân Phổ thắng trận tại Chotusitz (1742). Quân Áo phải rút lui, viên Sĩ quan Tham mưu Trưởng là Carl C. von Schmettau khuyên nhà vua truy kích quân địch nhưng ông trả lời: "Khanh nói khá đúng, nhưng Quả Nhân không muốn đánh bại giặc một cách quá tồi tệ". Cả hai bên đều tổn thất lớn, quân Phổ nhờ kỷ cương và dũng khí đã chiến thắng và bắt được nhiều tù binh Áo; và Nữ hoàng Maria Theresia phải nhượng tỉnh Silesia cho nhà vua Friedrich II Đại Đế với Hòa ước Breslau.

phải|[[Trận Mollwitz - chiến thắng đầu tiên của Quân đội Phổ thời vua Friedrich II Đại Đế.]]

Vào tháng 9 năm 1743, giữa lúc nước Phổ thái bình, Quốc vương cho ba quân tiến hành cuộc diễn tập Mùa Thu (Herbstübung) đầu tiên, trong đó các đạo quân Phổ được trình diễn đội hình và chiến thuật mới của họ; từ đó Quân đội Phổ thường diễn tập hàng năm vào Mùa Thu. Nhưng vào năm 1744, trước tình cảnh quân Áo đã đánh bại được các kẻ thù của mình, vị vua - chiến binh - triết gia Friedrich II Đại Đế cảm thấy nước Phổ bị đe dọa nên ngưng diễn tập mà nhảy vào chiến tranh lần thứ hai. Quân Áo vượt sông Rhine và gây hiểm họa đến đồng minh của Phổ là Pháp, nhưng quân Phổ đánh xứ Bohemia làm cho quân Áo phải rút về. Sau một cuộc vây hãm ngắn, quân đội của Friedrich II Đại Đế chiếm lĩnh được thành Praha. Tuy nhiên, ông không thể củng cố đại thắng của ông. Cứ điểm của quân ông gần Beneschau không đủ để tấn công quân địch, trong khi đó các đội Khinh binh Áo từ vùng Balkan thường hay hủy hoại đường tiếp tế của quân Phổ, khiến cho ông phải rút quân về. Nhưng sang năm 1745, khi liên quân Áo - Sachsen tấn công Silesia, khoảng 5 vạn quân tinh nhuệ do nhà vua Friedrich II Đại Đế thân chinh thống lĩnh đại phá tan tác liên quân Áo - Sachsen trong trận đánh ở Hohenfriedberg (1745). Đây được xem là một chiến thắng vĩ đại nhất của ông. Đại thắng vang dội, kinh điển này góp phần rất quan trọng đến sự phát triển của nền quân sự Phổ - Đức, là một trong những chiến công làm nên lực lượng Quân đội Phổ. Trong trận đại chiến này, quân Kỵ binh Phổ chiến đấu xuất sắc hỗ trợ cho lực lượng Bộ Binh Quân Bộ binh Sachsen cũng bị diệt sạch. Họ tuân theo huấn lệnh Quân vương rằng chỉ chiến đấu mãnh liệt cho tới cùng thay vì cứ lo bắt tù binh. Chính nhà vua trong trận đánh này cũng vững tay chèo hơn trước, và từ đây danh tiếng quân sự của ông trở nên lẫy lừng trên toàn châu Âu. Đồng thời, vị tướng Khinh Kỵ Binh là Hans Joachim Ziethen cũng đóng góp to lớn cho đại thắng của Quân đội Phổ, tiêu diệt quân cánh trái Áo.

Việc đưa lực lượng Kỵ binh Phổ trở thành một đội quân hùng hậu có lẽ là sáng tạo lớn nhất của nhà vua Friedrich II Đại Đế đối với lực lượng Quân đội Phổ. Tương truyền, Quốc vương sáng tác bản "Quân hành ca Hohenfriedberg" (Hohenfriedberger Marsch) sau ngày đại thắng và tặng bản nhạc này cho lực lượng Long Kỵ binh Bayreuth. Do chiến đấu uy dũng trong trận đại chiến Hohenfriedberg nên một cận tướng của Quốc vương là Hans Karl von Winterfeldt được thăng quan. Ông là vị dũng tướng sáng suốt và tài ba. Thái đệ August Wilhelm đã chiến đấu dũng mãnh của ba quân trong trận thắng này. Không những thế, em ruột của August Wilhelm là Hoàng tử Friedrich Heinrich Ludwig cũng thể hiện tài nghệ quân sự thao lược trong hai trận đánh huy hoàng tại Chotusitz và Hohenfriedberg: tuy mới 19 tuổi nhưng ông đã đề xướng như chiến thuật phòng thủ tốt cho ba quân. Ông trở thành một trong những người chiến binh kiệt xuất nhất của thời đại. Sau đó, nhà vua Friedrich II Đại Đế bị quân địch vây đánh trong trận đánh khốc liệt tại Soor, nhưng các chiến binh Phổ dũng mãnh đã đập tan tác quân Áo, đem lại một chiến thắng oanh liệt khác cho Quân vương và cũng giúp cho ông giữ được mạng sống của mình. Lần ấy, nhà vua có cho chú chó yêu mến của ông là Biche sát cánh cùng ba quân, nó bị bại binh Áo cướp lấy nhưng rồi bọn họ phải trao trả nó cho ông. Thái đệ August Wilhelm lại thể hiện tài năng chiến đấu trong trận đánh này. Quân Phổ bắt sống được đến 5 nghìn tù binh, và chiến thắng lẫy lừng này cũng không khó giành được lắm, quân Áo bỏ chạy về Bohemia. Lúc ấy đã là Mùa Đông, Vương công Leopold I xứ Anhalt-Dessau thấy liên quân Áo - Sachsen đóng cứ vững chắc và có quân số áp đảo, nhưng Quốc vương khuyến khích ông đánh trận.

trái|nhỏ|Huy chương [[Pour le Mérite, được vua Friedrich Đại Đế lập nên vào năm 1740.]]

Sau chiến thắng, nhà vua dốc sức xây dựng nền kinh tế, mở rộng lực lượng Kỵ binh, gầy dựng Quân đội Phổ bao gồm 143 nghìn quân tinh nhuệ và liên minh với Anh Quốc. Ông cũng với những cựu binh của cuộc nổi dậy Jacobite (Anh) là Bá tước George Keith và em là James Francis Edward Keith về triều làm quan tướng. Vào năm 1748, ông cho các em là August Wilhelm và Friedrich Heinrich Ludwig tổ chức duyệt binh. Còn Maria Theresia thiết lập liên minh với Nữ hoàng Elizaveta Petrovna và vua Pháp là Louis XV để chống lại Phổ. Do lo sợ kẻ thù sẽ xâm lược Vương quốc Phổ dù thế quân Sachsen đào ngũ không lâu sau đó. Khi đó, Thống chế August Wilhelm, Quận công xứ Brunswick-Bevern cũng kéo quân từ Zittau đến đập tan nát 28 nghìn quân Áo ở phía Bắc Reichenberg tại Nesse vào ngày 18 tháng 4 năm 1757, đưa tình hình trở nên có lợi cho toàn quân Phổ. Lực lượng Khinh Kỵ binh Phổ do Trung tướng Zieten thống lĩnh đã đóng góp không nhỏ cho trận đánh khốc liệt này, khi họ xung phong lên đánh giữa lúc ba quân lâm nguy và diệt được Kỵ binh Áo. Sau đó các chiến binh của nhà vua phong tỏa thành Praha, nhưng đại bại tại Kolín nên vua phải rút quân khỏi xứ Bohemia. Tức giận, ông triệu tập tướng sĩ để tấn công quân Áo, và chỉ từ bỏ khi viên cận thần bên cạnh hỏi rằng Đức Kim Thượng có định vác súng xung phong lên đánh đám địch hùng hậu kia không? Cuộc tấn công vang dội của Seydlitz là một trong những điểm sáng duy nhất của Quân đội Phổ trong trận đánh Kolín. Không những thế, Hoàng thái đệ August Wilhelm lại bị quân Áo chặn đường rút, đẩy Phổ vào tình cảnh khốn khó. Quốc vương giận dữ, bèn tống cổ August Wilhelm ra khỏi Quân đội Phổ, làm vị Thái đệ xấu số tuyệt vọng và mất năm 1758. Trong lúc đó, quân Nga tinh nhuệ xâm lược vùng Đông Phổ, và suýt nữa thì thua đạo quân Phổ của Thống chế Hans von Lehwadt trong trận Gross-Jägersdorf, nhiều binh sĩ Phổ hy sinh giữa trận tiền. Sau trận đánh tàn khốc này, quân Nga phải lui binh do chịu tổn thất quá ư là nặng nề, không thể đánh nữa, do đó mối họa Nga qua đi. Vào ngày 23 tháng 9 năm 1757, tin mừng này đến tai nhà vua, rằng quân Nga đã rút về phía Đông - thành quả của cuộc chiến đấu của người Phổ., danh tướng Winterfeldt trận vong khi giáp chiến với quân Áo tại Moys. Đồng thời, quân Thụy Điển xâm lược vùng Pomerania.]] trái|Vua Friedrich Đại Đế đánh thắng quân Nga trong trận đại chiến tại Zorndorf (1758). Trung tướng Seydlitz đã góp công lớn cho chiến thắng của Đức Vua. Trong khi đó, sau khi đã dẹp được quân Nga, Lehwaldt đúng như điều nhà vua mong ước đã kéo quân về Stralsund để đánh đuổi quân Thụy Điển Giữa chiến trường tại [[Trận Roßbach|Roßbach, chỉ trong vòng bốn tiếng đồng hồ nhà vua và Hoàng tử Friedrich Heinrich Ludwig đại phá tan tác liên quân Áo - Pháp đông gấp hai lần Quân đội Phổ, trong khi quân địch bị tổn thất hết sức lớn lao thì số thương binh, liệt sĩ Phổ là vô cùng ít ỏi. Lực lượng Kỵ binh hùng hậu Phổ của Trung tướng Seydlitz đã quyết định cho đại thắng này, và tiếng kèn trompet của Quân đội Phổ vang lên sau khi địch quân đại bại. Trước sức chiến đấu mãnh liệt của các chiến binh Phổ, quân Pháp và Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh đều tan rã vào tháo chạy cả. Do năm xưa quân Pháp ác ôn xâm phạm và ngược đãi nhân dân Đức, hay tin cái đám quân Pháp kia đại bại tơi bời, toàn dân Đức chứ không riêng gì nhân dân Phổ đều mừng vui. Đại thắng huy hoàng tại Roßbach của Quân đội Phổ là vô cùng quan trọng, cuộc hành binh của họ đến đây được coi là khuôn vàng thước ngọc, hoàn toàn hạ gục Pháp và được coi là một Agincourt của dân tộc Đức quang vinh.

Chiến công hiển hách của Friedrich II Đại Đế cũng giúp cho nền văn chương Đức nở rộ, làm cho Đế quốc La Mã Thần thánh tàn lụi. Đại thắng vẻ vang này thể hiện sự vận dụng sâu sắc hiểu biết về địa hình của nhà vua, sức mạnh siêu việt của Kỵ Binh và Pháo Binh Phổ, cùng với sự quyết đoán của giới lãnh đạo quân sự Phổ. Đại thắng tại Leuthen được xem là chiến thắng vĩ đại nhất trong giai đoạn lịch sử đó, thậm chí là trong cả thế kỷ XVIII, và chỉ một ngày khải hoàn tại Leuthen cũng đủ đưa tên tuổi của Nhà vua Friedrich II Đại Đế lên hàng đại danh tướng thế giới. Thủ phủ Breslau cũng trở lại với các chiến binh Phổ tinh nhuệ, pháo đài Liegnitz cũng nhanh chóng rơi vào tay người Phổ tỉnh Silesia hoàn toàn được giải phóng và chiến thắng đã được hoàn toàn, và giờ đây, với đại bại te tua tại Roßbach, đám tàn quân Pháp kia không thể nào dám đụng độ với đội quân chính quy Phổ do nhà vua Friedrich II Đại Đế thân chinh thống lĩnh nữa. Những chiến công trên đền cho thấy lòng dũng cảm đáng phục và kỷ cương son sắt của ba quân, đánh bại mọi đệ nhất liệt cường châu Âu. phải kéo các chiến binh dũng mãnh về phương Bắc trong một cuộc hành binh hiển hách "của loài mãnh sư", bảo vệ được đại quân hùng hậu và làm quân Áo cảm thấy họ gần như vừa đạt được một thắng lợi tiêu cực. Thế rồi, do quân Nga lại xâm lược Phổ - Brandenburg, nhà vua và các chiến binh phải vượt sông Oder vào ngày 21 tháng 8 năm 1758, buộc quân Nga phải bỏ chạy khỏi thành Küstrin. Sau đó, quân Phổ giáp chiến ác liệt với quân Nga trong cuộc đại chiến ở Zorndorf. Trong lúc nguy cấp, nhà vua lệnh cho Seydlitz huy động quân Kỵ binh xông lên cứu vãn ba quân; cuối cùng nhà vua và toàn quân đã giành chiến thắng quyết định trước đại quân Nga trong trận đánh đẫm máu này, buộc người Nga phải lui binh. Nhờ đó, nhà vua Friedrich II Đại Đế đã ngăn chặn được việc liên quân Áo - Nga họp binh. Sau đó, nhà vua kéo đại binh về xứ Sachsen, bị quân Áo phục kích và đánh tan nát trong trận đánh lớn tại Hochkirch. Nhiều chiến tướng kiệt xuất của Phổ đều hy sinh anh dũng, trong đó vị chiến tướng đầu tiên là James F. E. Keith - người đã bị thương hai lần khi anh dũng chiến đấu bảo vệ làng Hochkirch. Trong đợt tiến công trước khi trận vong, ông triệu một viên Sĩ quan đến bảo: "Tâu với Đức Vua rằng Ta sẽ chiến đấu đến người cuối cùng và mở đường cho ba quân hội ngộ!..." Ông thể hiện bản lĩnh anh hùng, qua việc lui quân an toàn trước mặt kẻ thù. Toàn quân và cả quân thù đều phải ngưỡng mộ ông như là một vị Tư lệnh chiến thuật tài ba, làm chủ được cả bản thân lẫn tình hình. Sau thất bại, ông nhanh chóng hồi phục và đẩy lui quân Áo, giải phóng Silesia và Sachsen. Đồng thời, các quan tướng Phổ đã đánh tan tác các đợt tấn công của quân Nga và quân Thụy Điển tại tỉnh Pomerania. Trong năm ấy, Thiếu tướng Heinrich August de la Motte Fouqué - một trung thần được nhà vua hết sức tín nhiệm - cố thủ kiên cố thị trấn Landeshut, ngăn ngừa được sự tấn công của người Áo. Năm sau (1759), quân dân Phổ vẫn chiến đấu mãnh liệt giữ vững đất nước, khi đó theo sứ thần Anh Quốc là Andrew Mitchell: "Đức Kim Thượng nước Phổ luôn hết sức cẩn trọng; Ngài thăm dò các đồn giặc hàng ngày, có khi Ngài đi cùng một nhóm Kỵ Binh và Bộ Binh, nhưng có khi là một nhóm Khinh Kỵ Binh rất ít ỏi... truy tìm những tên địch dễ bị các lực lượng nhẹ hạ gục". Nhà vua cũng thân chinh điều binh đánh dẹp, ban đầu quân của ông đánh thắng quân Nga nhưng rồi bị đại bại bi đát trước liên quân Nga - Áo trong trận đánh khốc liệt ở Kunersdorf. Vào ngày 13 tháng 9 năm 1759, Finck và Wunsch đánh đuổi quân Áo ra khỏi Wittenberg, Torgau và Leipzig. Một binh đoàn nhỏ bé của vị Thiếu tá Khinh Kỵ Binh táo bạo là Friedrich Wilhelm von Kleist tấn công phía Bắc xứ Bohemia, đập tan tành các kho đạn dược của người Áo, gây hủy hoại nghiêm trọng. Với chiến công hiển hách của Finck đánh bại quân Áo trong trận đánh gần Meissen thì Quân vương ban Huy chương Đại Bàng Đen cho ông. Mặc dù vậy, tại Sachsen, do không tuân theo quân lệnh của Quốc vương, binh đoàn của Finck bị đại bại ở Maxen, và bản thân ông phải đầu hàng quân Áo. Sau đó, quân Áo tiến công tại Meissen, buộc Tướng Diericke cùng 1500 binh sĩ phải ra hàng bên sông Elbe. Mùa Đông năm ấy, tình hình ba quân hoàn toàn không ổn định. Nhà vua tới lúc này vẫn còn quyết tâm bảo vệ quân đội bằng tài nghệ và lòng dũng mãnh phi thường của ông. người Áo tiến công Landeshut. Thiếu tướng Heinrich August de la Motte Fouqué bị địch bắt, nhưng nhà vua được an ủi với lòng quả cảm xuất sắc của ông, do đó nhà vua khen ông chẳng khác gì những chiến binh La Mã cổ đại. Quân Áo cũng vây hãm thủ phủ Breslau nhưng đạo quân Phổ do Hoàng tử Friedrich Heinrich Ludwig chỉ huy đánh lùi địch. Quân Phổ cũng có những đợt giằng co ác liệt với địch. Đây là một thắng lợi phòng thủ của nhà vua và ba quân. song liên quân Nga - Áo tiến chiếm kinh đô Berlin, nhưng với tư cách là một bậc Thánh quân, Friedrich II Đại Đế vẫn tiếp tục chiến đấu, và một cuộc hành binh của ông làm địch quân phải rút khỏi kinh thành. Vào ngày 3 tháng 11 năm 1760, trong cuộc đại chiến ác liệt với đại quân Áo ở Torgau, vua Friedrich II Đại Đế cùng 5 vạn quân sĩ Đầu năm 1761, khi dại quân Phổ đánh phá Sachsen, nhà vua truyền lệnh cho ba quân cướp bóc dã man ngôi nhà Brühl tại Leipzig và dinh Hubertusburg của Tuyển hầu tước Sachsen, khiến cho quân Phổ trở nên khét tiếng man rợ, tàn nhẫn. Trong năm, một đạo quân Phổ do vị Đại tướng xuất chúng Zieten chỉ huy đánh tan nát các quân đoàn Cossack Nga. Đạo quân của Hoàng tử Heinrich nhận được quân lệnh trấn giữ xứ Sachsen, và chặn đứng được Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh.

phải|Vua Friedrich II Đại Đế sau cuộc đại thắng tại Torgau. Để lập nên chiến thắng này, ông phải chịu tổn thất nhiều binh sĩ nhưng đồng thời viên Tổng tư lệnh quân Áo bị trọng thương. Cần phải nhớ rằng, trong suốt thời gian qua, tuy ông chủ trương tấn công nhưng cũng đồng thời đánh lừa địch, và dĩ nhiên, với tài năng mưu lược của mình, nhà vua đã câu giờ được quân thù để rồi "Phép lạ" đến với ông: đầu năm [[1762, tân Hoàng đế Nga là Pyotr III ký kết Hòa ước với vua Phổ, trả lại mọi đất đai cho ông, tiếp theo đó người Thụy Điển cũng cầu hòa và lui binh, nhưng tình hình lực lượng Quân đội Phổ hãy còn tệ đi rất nhiều. Song, tại Sachsen, Hoàng tử Friedrich Heinrich Ludwig tiếp tục chiến tranh, ông giành thế thượng phong đẩy lui được quân Áo. Heinrich là người chủ trương đánh lừa quân thù thay vì tiến công, và ông được vua anh Friedrich II Đại Đế khen là "vị tướng không bao giờ mắc sai lầm". Pyotr III - một người vô cùng đam mê Quân đội Phổ và thích mang Huy chương Phổ - nhanh chóng bị Hoàng hậu Ekaterina soán ngôi, nhưng tân Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế không tái chiến do Nga đã mỏi mệt. Trong khi đó, vua Friedrich II Đại Đế trở lại doanh trại Bunzelwitz để tiếp tục cuộc chiến đấu chống đội quân Áo hùng mạnh đóng ở Burkersdorf. Ông xoay chuyển tình thế, xua quân đánh tan tác quân Áo trong trận đánh tại đây, nhờ có các Sĩ quan như Wied và Wichard Joachim Heinrich von Möllendorf phò tá đúng theo kế hoạch của ông. Cũng như trận thắng tại Freiberg sau này, các đội hình phân tán của Phổ đã mang lại vinh quang thắng lợi. Tuy quân Ottoman đã không nhảy vào cuộc chiến như nhà vua mong muốn, lợi thế trong chiến tranh đã hoàn toàn nghiêng về những chiến binh Phổ. Và, sau trận thắng này, vua Friedrich II Đại Đế hỏi một thương binh rằng anh đã thấy trận đánh diễn ra như thế nào, anh liền tâu:

phải|Những người lính trong Trung đoàn Khinh Kỵ binh Zieten ([[1774).]] Nói đoạn nhà vua lấy một chiếc khăn mùi xoa ra ban cho người thương binh. Theo huấn dụ của Đức Vua, các đạo quân Phổ dồn dập tấn công các Vương hầu thù địch trong Đế quốc La Mã Thần thánh, làm họ phải thương thuyết, hoặc cống nạp cho quân Khinh Kỵ binh Phổ để cầu hòa. quân Phổ lui binh khỏi xứ Sachsen và gìn giữ được toàn vẹn non sông với Hiệp định Hubertusburg vào ngày 15 tháng 2 năm 1763, củng cố được vai trò liệt cường của đất nước Phổ anh dũng. Ngày khải hoàn, đoàn quân chiến thắng của ông trở về kinh thành Berlin, nhưng vua Friedrich II Đại Đế lại đi đường vòng về đất kinh kỳ, nán lại một chúc tại bãi chiến trường Kunersdorf năm xưa. Vị vua chiến thắng và cận thần của ông đều tỏ ra ảm đạm trước thương vong của nước Phổ trong chiến tranh. Nhiều Hoàng thân quốc thích của vua đã hy sinh, cùng với không ít tướng giỏi.

Trong hai cuộc binh lửa Silesia đầu tiên, cứ sau mỗi trận thắng nhà vua lại chỉ ra những lỗi sai của bản thân và ba quân, để cùng nhau sửa sai. Cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763) đã xác nhận vai trò của nhà vua Friedrich II Đại Đế là một đại danh tướng kiệt xuất. Nhờ sự sáng suốt của ông cùng với khoản viện trợ của người Anh, người Phổ thắng trận chẳng phải nợ nần gì, khác với nước Pháp láng giềng. Trong chiến tranh, Quân đội Phổ ban đầu áp dụng "Chiến tranh chớp nhoáng" (Blitzkrieg) vào năm 1757 qua việc tấn công thành Praha để đẩy Áo ra khỏi vòng chiến, nhưng thất bại. Những chiến thắng hào hùng của nhà vua tại Roßbach và Leuthen cho thấy một hình thức mới của "Chiến tranh chớp nhoáng". Chiến thuật này đã được quân ông áp dụng trong hai trận thắng lớn tại Hohenfriedberg và Soor hồi năm 1745. Quân đội Phổ bấy giờ phải dưới quyền vị vua nổi tiếng là "kẻ ghét người", nhưng tuy ông liên tục phê bình các Trung đoàn Phổ sai trái, ông sẽ sớm sủng ái họ trở lại: tỷ như sau cuộc đại thắng ở Liegnitz (1760), Quốc vương trao gươm báu cho một Trung đoàn vừa bị thất sủng trong khoảng thời gian trước đó. Vị Trung đoàn trưởng của họ đáp lễ: "Hạ thần xin đa tạ Thánh Thượng dưới danh nghĩa của các tướng sĩ cấp dưới của Hạ thần, vì đã phục hồi địa vị cũ của chúng thần. Người vẫn là Đức Vua hiền minh của chúng thần." Ngoài ra, việc ông liên tục thân chinh ra trận đã lan truyền vào trái tim của ba quân tư tưởng họ là những chiến binh bất khả chiến bại - đây là một sức mạnh góp phần không nhỏ cho chiến thắng.

Một "đội quân có quốc gia"

nhỏ|trái|[[Khinh Kỵ binh Đầu lâu, in bởi Richard Knötel.]]

Ngay từ buổi đầu trị nước, nhà vua Friedrich II Đại Đế đã nhận thấy rằng đất nước và nhân dân đều phải phụ thuộc vào lực lượng Quân đội tinh nhuệ. Và nếu không có những chiến binh dũng mãnh thì hẳn là ông không thể lập công trạng gì cho Tổ quốc. Ông có hai Huy chương "chính thức" để tặng cho những võ tướng dũng mãnh của ông: Huy chương Hắc Đại Bàng, và Huy chương Pour le Mérite được chính ông sáng lập vào tháng 6 năm 1740. Một ví dụ là vị kiệt tướng Seydlitz: nhà vua ban cho ông Huy chương Pour le Mérite vì ông đã chiến đấu anh dũng trong trận Kolín, ít lâu sau vì chiến công hiển hách tại Roßbach ông lại được phong Huy chương Pour le Mérite, dù rằng Seydlitz là một vị Trung tướng thật mới mẻ của Quân đội Phổ. Từ năm 1756 cho đến năm 1759, có đến 33 tướng tá Phổ bị hy sinh. Do tổn thất quá nặng nề trong suốt cuộc binh lửa, nhà vua phải huấn lệnh cho tuyển mộ Sĩ quan thuộc tầng lớp trung lưu, nhưng sang thời bình ông không dùng đến chính sách này nữa. Sau khi chiến thắng, nhà vua trở về kinh đô Berlin vào tháng 3 năm 1763 và tiến hành ban thưởng cho các công thần, đồng thời xuống lệnh cho lực lượng dân quân diễn tập. Chiến thắng cuộc Chiến tranh Bảy Năm rồi thì người Phổ giữ nước bằng việc tránh khỏi chiến tranh và nhờ có sức mạnh quân sự: có lẽ nhà vua chậm hiểu nhưng ông đã hiểu rõ rằng việc lực lượng Quân đội Phổ - với tư cách là một đội quân phòng ngự chiến lược - thiện chiến sẵn sàng chống lại một đội quân xâm lược nào đó thì cần thiết cho nền an ninh quốc gia hơn hẳn gây chiến lung tung. Ông khuếch trương mở rộng các huyền thoại về những chiến thắng và cả chiến bại của Quân đội Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm. Mọi sự đề cao sức mạnh quân sự Phổ, cả những trận đánh như Leuthen lẫn Kunersdorf, đều khiến cho các nước láng giềng không ngu gì mà gây gổ với "Ông già Fritz" và lực lượng Bộ Binh ném lựu đạn trung dũng của ông. Quân đội Phổ cũng được đề cập đến trong tác phẩm "Candide" của nhà hiền triết Pháp Voltaire. Nhà vua Tây Ban Nha là Carlos III học tập theo những chiến thuật của cả quân Bộ binh lẫn Kỵ binh Phổ. Những cựu chiến binh của nhà vua Friedrich II Đại Đế đều được đón nhận ở các nơi khác. Người Anh cũng dịch những huấn lệnh cho quân Bộ binh Phổ vào năm 1754, và những húân lệnh cho quân Kỵ binh Phổ vào năm 1757. Vào năm 1777, vị tướng hàng đầu của cuộc Cách mạng Mỹ là Nathanae Greene, khi khuyên George Washington không nên công thành Philadelphia, đã gọi nhà vua Friedrich II Đại Đế là "vị Tướng kiệt xuất nhất của thời đại". Các sách dạy quân sự của Anh Quốc vào năm 1786 cũng dựa theo viên Tướng Thanh tra của Phổ. Vào năm 1782, con thứ của nhà vua George III là Frederick, Quận công xứ York đến xem Quân đội Phổ diễn tập tại xứ Westfalen. Năm sau (1783), Louis-Alexandre Berthier - sau là Tổng tham mưu trưởng của độc tài Napoléon - đã tham quan và vô cùng bái phục những chiến binh Phổ tinh nhuệ.

phải|Quân Pháo binh Phổ ([[1750).]] Trong những năm chinh chiến 1759 - 1760, Nhà vua ban Sắc chỉ thiết lập lực lượng "Khinh Pháo binh", còn gọi là Kỵ Pháo binh - một đội quân có thể xung phong chiến đấu chỉ trong vòng 1 phút. Cuối đời ông, ông thành lập vài Lữ đoàn Kỵ Pháo binh - gồm những khẩu đại pháo nặng 6 pao được những con chiến mã thiện nghệ nhất kéo đi, nhằm hỗ trợ cho quân Kỵ Binh và giúp cho Kỵ Binh trở nên linh động hơn. Đối với những đội Pháo Binh mạnh hơn của ông, ông có nhiều quân Kỵ Pháo Binh nhờ thu thập ngựa ở các nông trang trong suốt cuộc Đại chiến Bảy Năm. Đối với lực lượng Pháo Binh của mình, ông đề cao tốc độ của họ trong việc tiếp chiến và thu quân, cũng như việc tập dợt Pháo Binh cùng với các binh chủng khác. Nhà vua cho thiết lập lực lượng đồn trú đầu tiên trên đất kinh đô Berlin vào năm 1764. Trước kia tiên vương Friedrich Wilhelm II muốn gầy dựng một đội quân chủ yếu là các binh sĩ bản địa, nhưng nay Friedrich II Đại Đế muốn tuyển mộ chủ yếu là các binh sĩ người ngoại lai vào Quân đội Phổ, ông cho rằng nên để những người Phổ bản địa gánh vác công việc đóng thuế và sản xuất. Vào năm 1740, nhà vua Friedrich II Đại Đế thiết lập lực lượng Cấm Vệ quân (Garde du Corps) làm Vệ binh Hoàng gia cho ông. Trong các cuộc chiến, nhà vua luôn biết kiềm chế tham vọng của mình, chỉ đấu tranh vì sự sống còn và phồn vinh của đất nước, khác với vua Alexandros Đại Đế xứ Macedonia và vua Pháp Louis XIV khi xưa. Các binh tướng Phổ cũng vậy, họ đã rút ra bài học từ sự tử trận của các ông vua - chiến binh Thụy Điển Gustav II Adolf và Karl XII năm xưa. Vào năm 1768, ông gầy dựng được Quân đội bao gồm 161 nghìn binh sĩ. Bốn năm sau (1772), nhờ có ngoại giao tài tình, ông lấy được nhiều đất đai của Ba Lan và tuyển mộ thêm được nhiều binh lính, đưa Quân đội Phổ trở thành lực lượng Quân đội lớn thứ ba trên toàn cõi Âu châu, sau Áo (297 nghìn quân) và Nga (224 nghìn quân), dù Phổ có dân số lớn thứ 13 và lãnh thổ rộng thứ 10 trên khắp Âu châu. Cứ trong 29 người dân Phổ thì lại có một người lính. Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, phần lớn các Binh đoàn tinh nhuệ của Quân đội hoàn toàn gồm thâu những chiến binh Phổ bản xứ. Có những trường hợp làm trái lệnh Quốc vương như viên Đại úy Friedrich August von der Marwitz không chịu tấn công một thành trì vào năm 1760, hay Tướng F. C. von Saldern không chịu phá thành Hubertusburg của Tuyển hầu tước xứ Sachsen vào năm 1761. Trong khi Marwitz rời khỏi đội quân của vị vua anh dũng Friedrich II Đại Đế, Saldern nói: "Nếu Đức Kim thượng hạ lệnh cho Thần tấn công mấy Sư đoàn địch, Hạ thần tuân chỉ ngay. Nhưng một việc trái với niềm danh dự, trung thành và trách nhiệm có thể là điều ngược lại với ý chí và lương tâm không cho phép Hạ thần làm vậy". Nhưng về sau Saldern thắng giặc do đó được nhà vua sủng ái. Nhưng không phải về vấn đề nào Quân đội Phổ cũng khắt khe. Trong suốt cuộc Đại chiến Baỷ Năm, vị vua đại tài Friedrich II Đại Đế luôn đàm luận vui vẻ với binh lính trên đường hành quân, bằng khẩu ngữ Hạ Đức của họ. Trong cuộc Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh tại Bắc Mỹ, khi một người lính của đạo quân đánh thuê Hanau bị chất vấn do nhìn chằm chằm vào mặt viên Sĩ quan Quân đội Anh, ông này đáp rằng "ông ấy được phò tá Đức Kim thượng, Đức Vua nước Phổ trong suốt 8 năm, và được phép nhìn mặt Ngài bất cứ khi nào yết kiến Ngài, và hơn nữa, ông ấy không bị phán trách vì chuyện này" (dẫn theo Pausch, 1886, 112). Lực lượng Quân đội Phổ gồm thâu 187 nghìn binh sĩ vào năm 1776, trong số họ có 9 vạn chiến binh là người Phổ ở miền Trung và Đông Bộ đất nước. Phần còn lại là quân tình nguyện hoặc người đủ tuổi đi lính nước ngoài (kể cả là người Đức lẫn không phải là người Đức). Trong năm ấy, Quân đội Phổ được vị vua hùng tài đại lược khuếch trương xây dựng, trong khi Vương hậu Pháp Maria Antonia của Áo còn ăn chơi xa xỉ, Nữ Đại vương công Áo Maria Theresia còn mua sắm trang sức và Nữ hoàng Nga Ekaterina II Đại Đế thì tình tứ lăng nhăng. Vào năm 1778, âm mưu xâm lược xứ Bayern của Hoàng đế La Mã Thần thánh là Joseph II đã khiến Nhà vua Friedrich II Đại Đế phải lo sợ, ông bèn thân chinh kéo binh mã tiến đánh xứ Bohemia trong cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern. Quân Áo phòng thủ thật kiên cố mà không đánh một trận nào, làm cho các chiến binh Phổ không thể mở trận đánh. Sự cẩn trọng như vậy chứng tỏ nhà vua đã ít liều lĩnh hao binh tổn tướng hơn kể từ sau những năm tháng chiến tranh trước kia, và đây sẽ là cuộc chiến chinh cuối cùng của ông. Vào Mùa Đông, quân đội hai bên tranh giành khoai tây với nhau mà chẳng hề chạm trán nhau. Trước tình hình đó, mẹ của Joseph II là Maria Theresia phải ký kết Hiệp định Teschen (1779), theo đó bà ta bỏ hết mọi tham vọng của người Áo ở xứ Bayern. Điều này đủ thấy Quân đội Phổ được kinh sợ như thế nào. Danh tiếng của vua Friedrich II Đại Đế ngày càng vang xa, nước Phổ coi như đã thắng trận.

trái|Quân Long Kỵ binh Phổ (1745). Để dựng xây Quân đội, ông cũng viết nhiều tác phẩm lý luận quân sự sấu sắc để giáo huấn ba quân, bằng kiến thức quân sự hết mực chuyên sâu của ông, ảnh hướng tới đời sau. Ông không ngừng tiến hành những cuộc tập dợt ba quân. Sách "Những lời dạy của Friedrich II Đại Đế dành cho quan tướng của mình" (1747 được xem là một tác phẩm tuyệt vời, là một cuốn sách kinh điển và rất bổ ích đối với việc răn dạy ba quân trong lịch sử quân sự. Vua viết bằng tiếng Pháp (Les Principes Généraux de la Guerre appliqués à la Tactique et à la Discipline des Troupes Prussienes), và đầu tiên ông trao nó cho Hoàng đệ August Wilhelm. Vào năm 1753, vua dịch sách sang tiếng Đức (Die General-Principa vom Kriege) và truyền cho các vị tướng soái của mình. Trong cuốn sách này, việc giữ vững quân đội có kỷ luật là vấn đề đầu tiên mà vua phân tích. Ông nhấn mạnh sự độc đáo đến phi thường của Quân đội Phổ - không những là lực lượng quân sự duy nhất có tinh thần kỷ cương sánh ngang với các binh đoàn Lê dương La Mã cổ xưa, nhưng cũng khó thể vững tồn vì có nhiều binh sĩ người ngoại quốc. Do đó, ông viết: "Hiện trạng của quân lực của chúng ta cho thấy rằng ai chỉ huy nó thì cần phải theo dõi không ngưng nghỉ". Ông được đặt tên là Quintus Icilius sau một lần bàn luận của Quốc vương về trận Pharsalus trứ danh thời nội chiến La Mã. Thời bấy giờ, danh thơm của Quân đội Phổ và vị Tổng tư lệnh uy dũng của họ trở nên vang lừng. Sau cuộc Chiến tranh Bảy Năm, du khách nước ngoài đổ xô đến kinh kỳ Berlin để chứng kiến những Trung đoàn vận quân phục xanh dũng mãnh, và nếu thật may mắn, yết kiến Nhà vua Friedrich II Đại Đế - một kỳ nhân của thời đại. Ông cũng khuyên khích các chuyên gia quân sự nước ngoài và thần dân hiếu kỳ lên kinh để coi ba quân rầm rộ diễu binh. Bấy giờ, các danh tướng của ông phần lớn đã mất hoặc về hưu, tỷ như Seydlitz qua đời vào năm 1773 ít lâu sa

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
**Sĩ quan** Quân đội nhân dân Việt Nam là cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực quân sự,
**Quân khu 9** (trước đây là Chiến khu 9) thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu hiện nay của Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ quản lý,
**Quân khu 3** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy
**Quân khu 7** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và
Các quân khu hiện tại của Việt Nam **Quân khu 1** là đơn vị quân sự cấp quân khu, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý
**Quân chủng Phòng không – Không quân** là một trong ba quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, Quân chủng có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ không
**Sư đoàn 308** hay **Đại đoàn Quân Tiên phong** trực thuộc Quân đoàn 12 là Sư đoàn bộ binh chủ lực được thành lập đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thành lập
**Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam** là một chức vụ cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đứng thứ hai trong Bộ Tổng tham mưu sau Tổng tham
**Bộ Chỉ huy Quân sự cấp tỉnh, thành phố (Bộ CHQS)** trước kia còn được gọi tắt là **Tỉnh Đội** là một tổ chức thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam tương đương cấp Sư
**Nguyễn Hữu Hùng** (26 tháng 7 năm 1970 - 13 tháng 10 năm 2020) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thiếu tướng. Tại thời điểm gặp nạn, ông giữ
**Quân đoàn 3**, còn gọi là **Binh đoàn Tây Nguyên** là một trong các quân đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 26 tháng 3 năm
**Quân khu 2 **trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong bảy quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy
**Quân khu 4** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong bảy quân khu hiện nay của Quân đội nhân dân Việt Nam. Địa bàn Quân khu 4 có vị trí hết sức
**Quân khu 5 **trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và
**Quân đoàn 4**, còn gọi là **Binh đoàn Cửu Long**, là một trong bốn quân đoàn cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam trước đây. Quân đoàn thành lập tháng 7 năm 1974
**Binh chủng Đặc công** là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý
**Sư đoàn 324**, phiên hiệu **Sư đoàn Ngự Bình** là một trong những Sư đoàn của Quân khu 4, Quân đội nhân dân Việt Nam. ## Lịch sử Các đơn vị tiền thân của Sư
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Cục Quân huấn - Nhà trường** trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam là cơ quan đầu ngành tham mưu giúp Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu
**Sư đoàn 5** là đơn vị chủ lực của quân khu 7, Quân đội nhân dân Việt Nam, một phiên bản phía tây của sư đoàn 9 Quân đội nhân dân Việt Nam. ## Quá
**Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam** là quân hàm sĩ quan cao cấp dưới cấp tướng lĩnh và là cấp bậc sĩ quan cấp tá cao nhất trong Quân đội nhân dân Việt
**Bệnh viện Trung ương Quân đội 108** , trước đây có tên gọi là **Viện Quân y 108**, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, bệnh viện đa khoa, chiến lược tuyến cuối của Bộ
**Trung tướng** **Quân đội nhân dân Việt Nam** là một tướng lĩnh cấp cao, có bậc quân hàm cao thứ ba trong hệ thống quân hàm Quân đội nhân dân Việt Nam với cấp hiệu
**Sư đoàn 316**, còn gọi là **Sư đoàn Bông Lau**, là sư đoàn chủ lực của Quân khu 2, Quân đội nhân dân Việt Nam. Sư đoàn được thành lập ngày 1 tháng 5 năm
**Quân đoàn 2**, còn gọi là **"Binh đoàn Hương Giang"**, là một quân đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam, tồn tại từ tháng 5 năm 1974 đến tháng 12 năm 2023. Quân đoàn
**Sư đoàn 341** là một sư đoàn bộ binh của Quân đội nhân dân Việt Nam, còn có tên gọi **Sư đoàn Sông Lam**. Sư đoàn này đã tham gia Chiến tranh Việt Nam, và
**Sư đoàn bộ binh 330** là một sư đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc biên chế của Quân khu 9. Sư đoàn được thành lập ngày 21 tháng 9 năm
**Cục Chính trị** là cơ quan đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Cục Chính trị là cơ quan được biên chế, tổ chức thuộc các
**Cục Tác chiến** trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam là cơ quan đầu ngành tham mưu giúp Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân
**Sư đoàn 2 Quảng - Đà**, còn gọi là "**Sư đoàn 2 Thép**" thời chiến tranh Việt Nam là sư đoàn bộ binh cơ động nổi tiếng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Được
phải|nhỏ|489x489px|Các quân khu hiện tại của Việt Nam **Quân khu** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một đơn vị có quy mô lớn trong Quân đội nhân dân Việt Nam trên cấp Sư
**Nguyễn Đức Dũng** (sinh ngày 04 tháng 8 năm 1967) là Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 3. ##
Bảo tàng quân đoàn 1 [[thành phố Tam Điệp, Ninh Bình]] **Quân đoàn 1**, còn có tên hiệu là **Binh đoàn Quyết thắng**, từng là một quân đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam
Các chuyên gia quân sự Liên Xô huấn luyện tên lửa và các học viên Việt Nam tại một căn cứ ở miền Bắc Việt Nam. Tháng 5 năm 1965. **Binh chủng Tên lửa phòng
**Sư đoàn 304**, mật danh là **Đoàn Vinh Quang**, Sư đoàn 304 là 1 trong 6 đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc biên chế của Quân khu
**Viện Y học cổ truyền Quân đội** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là đơn vị đầu ngành về y học cổ truyền (YHCT) trong toàn quân và là một trong năm cơ sở
**Sư đoàn 1** là một sư đoàn bộ binh thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam. Sư đoàn 1 tồn tại trong thời gian 9 năm từ 1965 đến
**Cục Nhà trường** trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam là cơ quan đầu ngành tham mưu giúp Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu về công tác
**Cục Quân lực **trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 08 tháng 9 năm 1945 là cơ quan đầu ngành quản lý và bảo đảm quân số cấp
**Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội** là đơn vị trực thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, công bố thành lập và ra mắt ngày 19 tháng 5
**Trường Đại học Văn hoá - Nghệ thuật Quân đội (ZNH)** trực thuộc Tổng cục Chính trị - Quân đội Nhân dân Việt Nam của Bộ Quốc phòng là trường đại học chuyên đào tạo
**Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội**, thường dược biết đến dưới tên giao dịch **Viettel** hay **Tập đoàn Viettel**, là một tập đoàn viễn thông và công nghệ Việt Nam được thành
**Sư đoàn 3** (hay **Sư đoàn Bộ binh 3**, **Sư đoàn Sao Vàng**) là một sư đoàn bộ binh chính quy của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước đó, đây cũng là sư đoàn
Bản đồ thể hiện sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trên thế giới, năm 2007. Màu càng đậm nghĩa là ảnh hưởng quân sự càng nhiều, màu càng nhạt thì sự ảnh hưởng
**Sư đoàn 320**, còn gọi là **Sư đoàn Đồng Bằng**, là một sư đoàn chủ lực thuộc Quân đoàn 34, Quân đội nhân dân Việt Nam. Ban đầu có tên Đại đoàn, thành lập từ






**Sư đoàn 312**, còn gọi là **Sư đoàn Chiến Thắng**, trực thuộc Quân đoàn 12 Quân đội nhân dân Việt Nam, gồm các trung đoàn 141, 165, 209, 68. Là một trong những sư
Chiến sĩ thuộc Binh chủng hóa học, QĐNDVN tham gia tập luyện, năm 2015 **Binh chủng Hóa học** là một binh chủng chuyên môn kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức
**Quân đội Seleukos **là quân đội của vương quốc Seleukos, một trong rất nhiều quốc gia Hy Lạp, nổi lên sau cái chết của Alexandros Đại đế. Giống như chính các quân đội Hy Lạp
**Sư đoàn 10 bộ binh** là một sư đoàn bộ binh thuộc Quân đoàn 34, Quân đội nhân dân Việt Nam. Hầu hết tân binh hàng năm của sư đoàn là cư dân của 2