✨Louis Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ 1 của Miến Điện

Louis Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ 1 của Miến Điện

Louis Francis Albert Victor Nicholas Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ nhất của Miến Điện (tên khai sinh là Hoàng tử Louis của Battenberg; 25 tháng 6 năm 1900 – 27 tháng 8 năm 1979), là một thành viên của hoàng gia Anh, sĩ quan Hải quân Hoàng gia và chính khách. Ông là chú ruột của Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch, Công tước xứ Edinburgh, phu quân của Nữ vương Elizabeth II. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, ông là Tư lệnh Đồng minh Tối cao, Bộ Tư lệnh Đông Nam Á. Ông là Phó vương cuối cùng của Ấn Độ thuộc Anh, và là Toàn quyền đầu tiên của Lãnh thổ tự trị Ấn Độ.

Ông sinh ra tại Windsor, Berkshire, thuộc Gia tộc Battenberg (trước đây là một nhánh của Vương tộc Hesse-Darmstadt, những người cai trị Đại công quốc Hesse ở Đức). Mountbatten theo học tại Đại học Hải quân Hoàng gia, Osborne, trước khi gia nhập Hải quân Hoàng gia năm 1916. Ông đã tham gia vào giai đoạn kết thúc của Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và sau chiến tranh một thời gian ngắn theo học tại Christ's College thuộc Đại học Cambridge. Trong suốt thời kỳ giữa các cuộc chiến, Mountbatten tiếp tục theo đuổi sự nghiệp hải quân, chuyên về thông tin liên lạc hải quân.

Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, Mountbatten chỉ huy tàu khu trục HMS Kelly (F01) và Đội tào khu trục số 5, ông đã trực tiếp chứng kiến những trận chiến ở Na Uy, Eo biển Anh và Địa Trung Hải. Tháng 8/1941, ông nhận quyền chỉ huy tàu sân bay HMS Illustrious (87). Ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu Tác chiến Liên hợp và là thành viên của Ủy ban Tham mưu trưởng vào đầu năm 1942, và tổ chức các cuộc đột kích vào St Nazaire Raid và Trận Dieppe. Vào tháng 8/1943, Mountbatten trở thành Tư lệnh Đồng minh Tối cao của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á và giám sát việc tái chiếm Miến Điện và Singapore từ tay Đế quốc Nhật Bản vào cuối năm 1945.

Vào tháng 3/1947, Mountbatten được bổ nhiệm làm Phó Vương của Ấn Độ và giám sát Phân vùng của Ấn Độ thuộc Anh để trao quyền tự trị cho Ấn Độ và Pakistan. Sau đó, ông giữ chức Toàn quyền đầu tiên của Lãnh thổ tự trị Ấn Độ cho đến tháng 6/1948. Năm 1952, Mountbatten được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh Hạm đội Địa Trung Hải của Anh và Tư lệnh Lực lượng Đồng minh NATO tại Địa Trung Hải. Từ năm 1955 đến năm 1959, ông là Đệ nhất Hải quân, một vị trí đã được cha ông, Louis xứ Battenberg, nắm giữ khoảng 40 năm trước đó. Sau đó, ông giữ chức Tham mưu trưởng Quốc phòng cho đến năm 1965, khiến ông trở thành người đứng đầu Lực lượng Vũ trang Anh trong thời gian lâu nhất, tính cho đến nay. Trong thời kỳ này Mountbatten cũng giữ chức Chủ tịch Ủy ban Quân sự NATO trong một năm.

Vào tháng 8/1979, Mountbatten bị ám sát bởi một quả bom được cài trên thuyền đánh cá của ông ở Mullaghmore, Hạt Sligo, Ai Len, bởi các thành viên của Quân đội Cộng hòa Ireland lâm thời. Ông được tổ chức tang lễ trọng thể tại Tu viện Westminster và được chôn cất tại Tu viện Romsey ở Hampshire.

Cuộc sống đầu đời

thumbnail|Victoria của Hessen và Rhein, Louis xứ Battenberg và bốn người con của họ là Alice, Louise, George và Louis vào năm 1902.

Hoàng tử Louis của Battenberg sinh ngày 25/06/1900 tại Nhà Frogmore ở Home Park, Windsor, Barkshire, Vương quốc Anh. Ông là con út và là con trai thứ 2 của Louis xứ Battenberg và vợ là Victoria của Hessen và Rhein. Ông bà ngoại của ông là Ludwig IV của Hessen và Rhein và Alice của Liên hiệp Anh - con gái của Victoria của Anh và Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Ông bà nội của ông là Hoàng tử Alexander của Hesse và Rhine và Julia, Công chúa của Battenberg. Cuộc hôn nhân của ông bà nội Louis không được môn đăng hộ đối, vì bà nội ông không thuộc dòng dõi hoàng tộc; điều này khiến cho ông và cha của mình chỉ được phong "Serene Highness", chứ không đủ điều kiện để được phong tước vị "Grand Ducal Highness". Anh chị em của ông bao gồm: Alice xứ Battenberg (sau trở thành vợ của Andreas của Hy Lạp và Đan Mạch và là mẹ của Philip, Vương tế Anh); Louise xứ Battenberg (sau trở thành Vương hậu Thuỵ Điển); Hoàng tử George của Battenberg (sau là George Mountbatten, Hầu tước thứ 2 xứ Milford Haven).

Biệt danh của Louis được gọi trong gia đình và bạn bè là "Dickie", lúc đầu bà cố của ông là Victoria của Anh đề xuất tên gọi là "Nicky", nhưng để tránh nhầm lẫn với nhiều biệt danh của Hoàng gia Nga (Nicky được dùng để chỉ Nikolai II của Nga), "Nicky" đã được đổi thành "Dickie".

Trong 10 năm đầu đời, Louis được giáo dục tại nhà; sau đó ông được gửi đến Trường Lockets Park ở Hertfordshire và tiếp tục đến Đại học Hải quân Hoàng gia, Osborne, vào tháng 5/1913. Em gái của mẹ ông là Alix của Hessen và Rhein (Hoàng hậu Nga Aleksandra Fyodorovna). Thời thơ ấu, ông có dịp đến thăm "Imperial Court of Russia" tại St. Petersburg và trở nên thân thiết với Hoàng gia Nga, điều này đã nuôi dưỡng tình cảm đặc biệt giữa ông với người chị họ Nữ Đại công tước Maria Nikolayevna, ông đã treo bức ảnh của 2 người ở bên giường ngủ suốt phần đời còn lại.

Từ năm 1914 đến năm 1918, Vương quốc Anh cùng các đồng minh của mình tham gia chiến tranh chống lại các cường quốc thuộc Liên minh Trung tâm, dẫn đầu bởi Đế quốc Đức. Để xoa dịu tình cảm dân tộc chủ nghĩa của người Anh, Vua George V đã ban hành một tuyên bố hoàng gia, quyết định đổi tên Hoàng tộc Saxe-Coburg và Gotha (nguồn gốc Đức) thành Hoàng tộc Windsor (đặt tên theo lâu đài Windsor). Những người thân gốc Đức của Hoàng gia Anh đã lần lượt làm theo chiếu chỉ của nhà vua, cha của Louis từ bỏ tước hiệu và tên họ gốc Đức của mình và lấy họ là Mountbatten. Cha của ông sau đó đã được trao cho tước vị: Hầu tước của Milford Haven.

Sự nghiệp

Sự nghiệp ban đầu

thumb|left|upright|Tranh vẽ bởi [[Philip de László, 1925]] Mountbatten được bổ nhiệm làm trung uý hải quân trên tàu tuần dương HMS Lion vào tháng 7 năm 1916 và tháng 8 năm 1916, được chuyển sang thiết giáp hạm HMS Queen Elizabeth trong giai đoạn kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông đã có chuyến thăm 10 ngày tới Mặt trận phía Tây, vào tháng 7 năm 1918.

Ông được bổ nhiệm làm sĩ quan điều hành (chỉ huy thứ hai) của tàu chiến nhỏ HMS P. 31 thuộc Lớp P sloop vào ngày 13 tháng 10 năm 1918, và được thăng cấp thiếu úy vào ngày 15 tháng 1 năm 1919. Mountbatten theo học tại Đại học Christ's College, Cambridge, trong hai kỳ, bắt đầu từ tháng 10 năm 1919, nơi ông nghiên cứu văn học Anh (bao gồm John Milton và Lord Byron) trong một chương trình được thiết kế để nâng cao trình độ học vấn của các sĩ quan cấp dưới đã bị hạn chế bởi chiến tranh. Ông đã được bầu một nhiệm kỳ vào Ủy ban Thường vụ của Hội Liên hiệp Cambridge và trong thời gian đó, ông bị cho là có thiện cảm với Đảng Lao động, lần đầu tiên nổi lên như một đảng tiềm năng có thể lập chính phủ.

Tháng 3/1920, Mountbatten đã tháp tùng Hoàng tử Edward, Thân vương xứ Wales trên tàu tuần dương HMS Renown trong chuyến công du đến Úc. HMS Renown quay trở lại Portsmouth vào ngày 11 tháng 10 năm 1920. Đầu năm 1921, các nhân viên Hải quân Hoàng gia được sử dụng cho các nhiệm vụ phòng thủ dân sự khi tình trạng bất ổn công nghiệp nghiêm trọng dường như sắp xảy ra. Mountbatten đã phải chỉ huy một trung đội ở miền Bắc nước Anh, nhiều người trong số họ chưa từng cầm súng trường nào trước đây. Edward và Mountbatten đã hình thành một tình bạn thân thiết trong chuyến đi này. Ông được phục vụ trên thiết giáp hạm HMS Revenge thuộc Hạm đội Địa Trung Hải vào tháng 1 năm 1923. Năm 1926, ông được phục vụ trên thiết giáp hạm HMS Centurion thuộc Hạm đội Dự bị (Vương quốc Anh) và trở thành Trợ lý Sĩ quan Tín hiệu và Không dây Hạm đội của Hạm đội Địa Trung Hải dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Sir Roger Keyes vào tháng 1 năm 1927. ông trở lại Trường Tín hiệu vào tháng 7 năm 1929 với tư cách là Giảng viên Không dây Cấp cao. được biên chế phục vụ trên thiết giáp hạm HMS Resolution.

Trong Bộ Hải quân, Mountbatten được gọi là "Bậc thầy của thảm họa" vì khả năng gây rối của mình.

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Phó vương cuối cùng của Ấn Độ

Sự nghiệp sau cùng ở Ấn Độ

Bị cáo buộc âm mưu chống lại Harold Wilson

Đời tư

Hôn nhân

Tình dục

Ron Perks, người lái xe của Mountbatten ở Malta vào năm 1948, nói rằng đã từng đưa Mountbatten đến thăm Red House, một nhà thổ dành cho người đồng tính cao cấp ở Rabat được các sĩ quan hải quân sử dụng. Andrew Lownie, một thành viên của Hiệp hội Lịch sử Hoàng gia, đã viết rằng Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI) đã lưu giữ các hồ sơ liên quan đến cáo buộc đồng tính luyến ái của Mountbatten. Lownie cũng đã phỏng vấn một số nam thanh niên tuyên bố có quan hệ tình cảm với Mountbatten. John Barratt, thư ký riêng và cá nhân của Mountbatten trong 20 năm, khẳng định rằng Mountbatten không phải là một người đồng tính luyến ái, và nếu ông ấy quả thật là người đồng tính thì không thể che đậy điều này trước công chúng.

Cáo buộc lạm dụng tình dục

Con gái là người thừa kế

Sở thích giải trí

Cố vấn cho Thân vương xứ Wales

Xuất hiện trên truyền hình

Qua đời

Bị ám sát

Tang lễ

Hậu quả

Di sản

Giải thưởng và Huy chương

Huy hiệu

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phó vương và Toàn quyền Ấn Độ** (Tiếng Anh: Viceroy and governor-general of India; 1773 - 1950, từ 1858 đến 1947 được gọi là Phó vương và Toàn quyền Ấn Độ) là đại diện của
**Louis Francis Albert Victor Nicholas Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ nhất của Miến Điện** (tên khai sinh là Hoàng tử Louis của Battenberg; 25 tháng 6 năm 1900 – 27 tháng 8 năm 1979), là
**Victoria của Hessen và Rhein,** sau là Victoria Mountbatten, Hầu tước phu nhân xứ Milford Haven (tên đầy đủ: **Victoria Alberta Elisabeth Mathilde Marie**; 5 tháng 4 năm 1863 – 24 tháng 9 năm 1950)
**Edward VIII của Anh** (Edward Albert Christian George Andrew Patrick David; 23 tháng 6 năm 1894 – 28 tháng 5 năm 1972) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**George Louis Victor Henry Serge Mountbatten, Hầu tước thứ 2 xứ Milford Haven** (, 6 tháng 11 năm 1892 – 8 tháng 4 năm 1938), tên khai sinh là **Thân vương tử George xứ Battenberg**,
**Louise Alexandra Marie Irene Mountbatten** (khai sinh **Louise xứ Battenberg**; 13 tháng 7, 1889 – 7 tháng 3, 1965) là Vương hậu Thụy Điển từ ngày 29 tháng 10 năm 1950 đến khi mất với
**Mặt trận Miến Điện 1944 - 1945** là các chiến dịch quân sự diễn ra tại Miến Điện trong Chiến tranh thế giới thứ hai từ tháng 11 năm 1944 đến tháng 8 năm 1945
**Vương tử Andrew, Công tước xứ York** (tên đầy đủ: Andrew Albert Christian Edward, sinh ngày 19 tháng 2 năm 1960), là người con thứ ba và cũng là con trai thứ hai của cố
**Beatrice của Liên hiệp Anh và Ireland,** hay **Beatrice của Liên hiệp Anh** (tiếng Anh: _Princess Beatrice of the United Kingdom_; tên đầy đủ: Beatrice Mary Victoria Feodore; 14 tháng 4 năm 1857 – 26
**Alice của Liên hiệp Anh và Ireland** (**Alice Maud Mary**; ngày 2 tháng 4 năm 1843 – ngày 14 tháng 12 năm 1878) là con gái của Victoria I của Liên hiệp Anh và Albrecht
**Margaret của Liên hiệp Anh** (Margaret Rose; 21 tháng 8 năm 1930 – 9 tháng 2 năm 2002) là con gái út của George VI của Liên hiệp Anh và Elizabeth Bowes-Lyon và là người
**William, Thân vương xứ Wales** (William Arthur Philip Louis; sinh vào ngày 21 tháng 6 năm 1982) là một thành viên của Vương thất Anh. William là trưởng nam của Charles III, Quốc vương của
**Elizabeth II của Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** (Elizabeth Alexandra Mary; 21 tháng 4 năm 1926 – 8 tháng 9 năm 2022) là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh, Bắc Ireland và
**Vương hậu Camilla** (tên khai sinh là **Camilla Rosemary Shand**, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1947) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và 14 vương quốc khác thuộc Khối Thịnh vượng
**Alice xứ Battenberg** (_Victoria Alice Elizabeth Julia Marie_; 25 tháng 2 năm 1885 - 5 tháng 12 năm 1969), được biết đến là mẹ của Vương tế Philip - chồng của Nữ vương Elizabeth II
**Tôn Lập Nhân** (phồn thể: 孫立人; giản thể: 孙立人; bính âm: Sūn Lìrén) (8 tháng 12 năm 1900 – 19 tháng 11 năm 1990) là một tướng lĩnh Trung Hoa Dân quốc, nổi tiếng trong
**Trận Crete** (; ) là một trận đánh diễn ra tại đảo Crete của Hy Lạp giữa quân đội Đức Quốc xã và quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bắt
**Phiên vương quốc** (Hán-Việt: 藩王國, tiếng Anh: Princely state), gọi tắt **phiên quốc**, hoặc **thổ bang**, là một quốc gia chư hầu nằm dưới quyền cai trị của các hoàng tộc bản địa Ấn Độ,
thumb|[[Carlo Ferdinando của Hai Sicilie|Carlo Ferdinando của Hai Siclie, Thân vương xứ Capua (trên cùng), cùng với người vợ quý tiện kết hôn của mình Anh-Ailen Penelope Smyth (trái), và con gái của họ, Vittoria
**Tu viện Westminster** (tiếng Anh: _Westminster Abbey_), có tên chính thức **Nhà thờ kinh sĩ đoàn Thánh Peter tại Westminster** (_Collegiate Church of St Peter at Westminster_), là một nhà thờ theo kiến trúc Gothic
**Ananda Mahidol** (20 tháng 9 năm 19259 tháng 6 năm 1946) là quân chủ thứ tám của Vương triều Chakri tại Thái Lan. Ông được Quốc hội công nhận là Quốc vương vào tháng 3
**Singapore dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản** là Singapore trong giao đoạn từ 1942–1945 (trong chiến tranh thế giới thứ hai), nơi người Nhật chiếm đóng Singapore. Sự chiếm đóng bắt đầu sau khi
**Chế độ quân chủ Vương quốc Liên hiệp**, thường được gọi chế độ **quân chủ Anh**, là chế độ quân chủ lập hiến của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Lãnh thổ
**Đế quốc Anh** () bao gồm các vùng tự trị, thuộc địa được bảo hộ, ủy thác và những lãnh thổ khác do Khối liên hiệp Anh và các quốc gia tiền thân của nó
Lịch sử thành văn của Singapore có niên đại từ thế kỷ thứ ba. Sau đó, tầm quan trọng của Singapore tăng lên trong thế kỷ 14 dưới quyền cai trị của hoàng tử Srivijaya