✨HMS New Zealand (1911)

HMS New Zealand (1911)

HMS _New Zealand_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp Indefatigable được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được hạ thủy năm 1911, việc chế tạo con tàu được sự đài thọ về tài chính của chính phủ New Zealand như một món quà, và được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia vào năm 1912. Được dự định để phục vụ tại Trạm Trung Quốc, con tàu lại được chính phủ New Zealand nhượng lại theo yêu cầu của Bộ Hải quân Anh để phục vụ tại vùng biển Anh Quốc.

Trong năm 1913, New Zealand được gửi đi trong một hành trình kéo dài mười tháng qua các thuộc địa Anh, nhấn mạnh ở chuyến viếng thăm lãnh thổ mà nó được đặt tên. Nó quay trở lại vùng biển Anh Quốc vào lúc bắt đầu Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã hoạt động trong thành phần Hạm đội Grand của Hải quân Hoàng gia đối đầu với Hạm đội Biển khơi Đức. Trong chiến tranh, chiếc tàu chiến-tuần dương đã hoạt động trong cả ba trận hải chiến chủ yếu tại Bắc Hải trong Thế Chiến I: Heligoland Bight, Dogger Bank, và Jutland; cũng như đã xuất quân để đối phó với cuộc Bắn phá Scarborough bất phân thắng bại và Trận Heligoland Bight thứ hai. Mặc dù đã góp phần vào việc phá hủy hai tàu tuần dương; New Zealand chỉ bị hỏa lực đối phương bắn trúng một lần duy nhất trong suốt quãng đời hoạt động và không bị tổn thất thương vong nào; một con tàu may mắn được thủy thủ đoàn quy cho một bộ trang phục chiến binh của người Māori, bao gồm váy "piupiu" và vòng cổ "tiki", được hạm trưởng mặc trong lúc tác chiến.

Sau chiến tranh, New Zealand được gửi đi một chuyến vòng quanh thế giới khác, lần này là để đưa Đô đốc John Jellicoe thị sát công việc phòng thủ hải quân tại các thuộc địa. Đến năm 1920, chiếc tàu chiến-tuần dương được đưa về lực lượng dự bị. Quá trình giải trừ quân bị do Hiệp ước Hải quân Washington đã buộc phải loại bỏ New Zealand khỏi thành phần hải quân để đạt được giới hạn về tải trọng tàu chiến đặt ra đối với Anh Quốc, và con tàu bị bán để tháo dỡ vào năm 1920.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Lớp tàu chiến-tuần dương Indefatigable không phải là một sự cải tiến đáng kể so với lớp Invincible dẫn trước; khác biệt chủ yếu là thiết kế được mở rộng cho phép các tháp pháo bên mạn có được góc bắn rộng hơn. Các con tàu này nhỏ hơn và không được bảo vệ tốt như chiếc tàu chiến-tuần dương Đức đương thời Von der Tann và các thiết kế Đức tiếp theo. Trong khi đặc tính của Von der Tann đã không được biết đến khi chiếc dẫn đầu của lớp Indefatigable được đặt lườn vào tháng 2 năm 1909, Hải quân Hoàng gia đã có được thông tin chính xác về con tàu Đức khi công việc chế tạo New Zealand và con tàu chị em Australia được bắt đầu. Sơ đồ mạn phải và sàn tàu của lớp tàu chiến-tuần dương Indefatigable như được mô tả trong Niên giám Hải quân Brassey 1923. New Zealand có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là khi chất đầy tải. Nó có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn là , và lên đến khi chất đầy tải. Các turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp của chiếc tàu chiến-tuần dương được thiết kế để sản sinh công suất , giúp con tàu đạt đến vận tốc . Tuy nhiên, khi tiến hành chạy thử máy vào năm 1912, các turbine đã đạt đến công suất , cho phép New Zealand di chuyển với vận tốc . Con tàu mang theo khoảng than và thêm dầu đốt, vốn được phun vào than để gia tăng tốc độ đốt. Điều này đã giúp nó có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường . Nó cũng được trang bị hai ống phóng ngư lôi ngầm hai bên mạn, phía sau tháp pháo 'X', và mang theo 12 quả ngư lôi.

Tháp pháo 'A' của New Zealand được trang bị một máy đo tầm xa phía sau nóc tháp pháo, và nó cũng được trang bị để kiểm soát toàn bộ dàn pháo chính dự phòng trường hợp các vị trí kiểm soát hỏa lực thông thường bị hư hại hay sự liên lạc bị gián đoạn.

Các cải biến trong thời chiến

Vào tháng 3 năm 1915, một khẩu QF 3 inch 20 cwt phòng không trên bệ góc cao được trang bị. Nó có khả năng hạ đến 10° và nâng tối đa lên đến 90°. Nó bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn và tốc độ 12–14 viên mỗi phút. Trần bắn hiệu quả của kiểu pháo này là ; nó được cung cấp 500 quả đạn. Nó có khả năng hạ đến 8° và nâng tối đa lên đến 60°. Nó bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn và tốc độ bắn 20 viên mỗi phút. Trần bắn tối đa là , nhưng tầm bắn hiệu quả chỉ đạt .

New Zealand được nâng cấp một bộ kiểm soát hỏa lực trong giai đoạn từ giữa năm 1915 đến tháng 5 năm 1916; tập trung việc điều khiển dàn pháo chính vào tay sĩ quan chỉ huy hỏa lực, giờ đây sẽ khai hỏa các khẩu pháo. Các pháo thủ tại tháp pháo chỉ cần làm theo các chỉ dẫn về góc nâng và góc xoay bằng con trỏ để hướng khẩu pháo đến mục tiêu. Điều này giúp cải thiện đáng kể độ chính xác nhờ hạn chế ảnh hưởng của sự chòng chành con tàu trên sự phân tán của đạn pháo bắn rời rạc; ngoài ra sĩ quan chỉ huy cũng dễ dàng trinh sát điểm rơi của đạn pháo. Một lớp giáp dày 1 inch được bổ sung cho mép hầm đạn và nóc tháp pháo sau Trận Jutland.

Đến năm 1918, New Zealand mang theo hai thủy phi cơ trên các bệ phóng đặt trên nóc các tháp pháo ‘P’ và ‘Q’. Mỗi bệ phóng được trang bị kho chứa bằng vải bạt để bảo vệ máy bay khi thời tiết xấu.

Sở hữu và chế tạo

Vào đầu thế kỷ 20, Bộ Hải quân Anh vẫn duy trì một khả năng phòng thủ hải quân khắp Đế chế Anh, bao gồm cả các thuộc địa, vốn được thống nhất bên trong Hải quân Hoàng gia. Quan điểm tập quyền trong vấn đề này trở nên mềm dẻo hơn trong thập niên đầu tiên, và vào Hội nghị Đế chế 1909, Bộ Hải quân đề nghị thành lập các Đơn vị Hạm đội Bản xứ: lực lượng bao gồm một tàu chiến-tuần dương, ba tàu tuần dương hạng nhẹ, sáu tàu khu trục và ba tàu ngầm. Trong khi Australia và Canada được thuyết phục để sở hữu một đơn vị hạm đội nhằm phục vụ như là hạt nhân của một hải quân quốc gia mới, các đơn vị hạm đội khác sẽ được Hải quân Hoàng gia sử dụng tại các căn cứ cách xa chính quốc, đặc biệt là tại Viễn Đông. New Zealand được kêu gọi để đóng góp một phần một đơn vị hạm đội dành cho Trạm Trung Quốc.

Nhằm mục đích này, Thủ tướng New Zealand, Sir Joseph Ward, công bố vào ngày 22 tháng 3 năm 1909 là nước ông sẽ đài thọ việc chế tạo một thiết giáp hạm để làm gương cho các nước khác, mặc dù sau này được đổi thành một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Indefatigable. Vẫn không rõ là tại sao thiết kế này lại được chọn khi người ta đã biết là nó yếu kém hơn so với những tàu chiến-tuần dương đang được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Đế quốc Đức. Có ý kiến cho rằng yêu cầu này là do thực hành của Hải quân Hoàng gia sử dụng các thiết giáp hạm nhỏ và tàu tuần dương lớn làm soái hạm cho các trạm ở cách xa Anh Quốc, hoặc ảnh hưởng bởi sự ưa chuộng tàu chiến-tuần dương của Thứ trưởng Hải quân, Thủy sư Đô đốc John Fisher, một quan điểm ít được người khác tán đồng.

New Zealand được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Fairfield Shipbuilding and Engineering ở Clyde vào ngày 20 tháng 6 năm 1910. Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 7 năm 1911 vả được đưa ra hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia bốn ngày trước khi nó hoàn tất, vào ngày 23 tháng 11 năm 1912.

Lịch sử hoạt động

Trước chiến tranh

New Zealand được gửi đi trong một chuyến biểu dương lực lượng đến New zealand ngang qua Nam Phi vào năm 1913. đã viếng thăm con tàu, và vị thuyền trưởng của nó đã được trao tặng một bộ trang phục chiến binh của người Māori bản địa, bao gồm váy "piupiu" làm từ sợi lanh cuộn và vòng cổ "tiki" bằng đá xanh để xua đuổi tai họa.

Khi chuyến đi kết thúc, New Zealand thoạt tiên được dự định giữ lại khu vực Thái Bình Dương, nhưng Bộ Hải quân Anh đã yêu cầu điều nó quay trở về Anh Quốc. Chính phủ New Zealand đã chấp nhận yêu cầu này, và khi về đến nơi vào ngày 8 tháng 12 năm 1913, New Zealand gia nhập Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 thuộc Hạm đội Grand. Hải đội đã viếng thăm Brest, Pháp vào tháng 2 năm 1914, sau đó là Riga, Reval và Kronstadt tại Đế quốc Nga vào tháng 6. Ngày 19 tháng 8 năm 1914, không lâu sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, New Zealand được chuyển sang Hải đội Tàu chiến-tuần dương 2. khi các tàu hạng nhẹ Anh không tách ra kịp thời theo kế hoạch, và triều cường đang dâng cao khiến các tàu chiến chủ lực Đức có thể vượt qua các bãi tại cửa sông Jade Estuary.

Chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ mới nguyên Arethusa đã bị đánh hỏng trước đó trong trận chiến do hỏa lực từ các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức StrassburgKöln, khi các tàu chiến-tuần dương của Beatty hiện ra từ làn sương mù lúc 12 giờ 37 phút. Strassburg lẫn vào trong làn sương mù và né tránh được hỏa lực pháo, nhưng Köln vẫn bị trông thấy và nhanh chóng bị đánh hỏng bởi đạn pháo của hải đội. Tuy nhiên, Beatty bị thu hút khỏi hoạt động kết liễu nó do sự xuất hiện bất ngờ của chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ cũ Ariadne ngay trước mũi. Ông quay mũi đuổi theo, biến nó thành một xác tàu cháy bùng chỉ với ba loạt đạn pháo ở khoảng cách chưa đầy . Đến 13 giờ 10 phút, Beatty quay mũi về phía Bắc và ra mệnh lệnh chung để rút lui. Thành phần chủ lực của Beatty bắt gặp Köln đã bị đánh hỏng không lâu sau khi đổi hướng lên phía Bắc, và nó bị đánh chìm bởi hai loạt đạn pháo từ chiếc Lion. Trong quá trình trận chiến, Thuyền trưởng của New Zealand, Đại tá Hải quân Lionel Halsey, đã khoác trang phục piupiu của người Māori bên ngoài đồng phục hải quân của ông, bắt đầu một truyền thống được tiếp nối trong suốt chiến tranh.

Đô đốc Hipper khởi hành vào ngày 15 tháng 12 năm 1914 cho một đợt bắn phá khác và đã nả pháo thành công vào nhiều thị trấn Anh, nhưng các tàu khu trục Anh hộ tống cho Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 đã đụng độ với các tàu khu trục Đức hộ tống cho Hạm đội Biển khơi lúc 05 giờ 15 phút, trong một trận chiến bất phân thắng bại. Phó Đô đốc Sir George Warrender, Tư lệnh Hải đội Chiến trận 2, nhận được tín hiệu lúc 05 giờ 40 phút rằng tàu khu trục Lynx đã đối đầu với tàu khu trục đối phương, mặc dù Đô đốc Beaty đã không biết. Tàu khu trục Shark đã nhìn thấy tàu tuần dương bọc thép Đức Roon cùng các tàu hộ tống lúc khoảng 07 giờ 00, nhưng đã không thể truyền tín hiệu cho đến 07 giờ 25 phút. Cùng với New Zealand, Warrender nhận được tin tức này, nhưng Beatty cũng không biết, mặc dù trong thực tế New Zealand được giao nhiệm vụ chuyển tiếp các thông điệp giữa các tàu khu trục và Beatty trên chiếc Lion. Warrender tìm cách chuyển đi tin tức của Shark cho Beatty lúc 07 giờ 36 phút, nhưng đã không liên lạc được cho đến 07 giờ 55 phút. Beatty cho chuyển hướng ngay khi nhận được thông tin, và cho tách New Zealand ra để truy tìm Roon. Nó bị New Zealand đuổi kịp đúng vào lúc Beatty nhận được tin tức Scarborough đang bị bắn phá lúc 09 giờ 00. Beatty ra lệnh cho New Zealand gia nhập trở lại hải đội và quay về phía Tây hướng đến Scarborough. nhỏ|trái|Vị trí tương quan giữa các lực lượng Anh và Đức lúc khoảng 12 giờ 00 Lực lượng Anh được tách ra làm đôi để đi vòng qua khu vực nước nông Southwest Patch thuộc Dogger Bank; các con tàu của Beatty vòng lên phía Bắc, trong khi Warrender băng qua phía Nam khi chúng hướng về phía Tây ngăn chặn con đường chính ngang qua các bãi thủy lôi phòng thủ bờ biển Anh Quốc. Việc này đã để lại một khoảng trống mà lực lượng hạng nhẹ Đức bắt đầu di chuyển. Đến 12 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Lực lượng Tuần tiễu 2 bắt đầu vượt qua lực lượng Anh để truy tìm Hipper. Tàu tuần dương hạng nhẹ Southampton trông thấy tàu tuần dương hạng nhẹ Đức Stralsund và báo cáo lên Beatty. Đến 12 giờ 30 phút Beatty quay mũi các tàu chiến-tuần dương của mình hướng về các con tàu Đức. Ông đoán rằng các tàu tuần dương Đức là lực lượng đi tiên phong cho các con tàu của Hipper, tuy nhiên chúng đang tụt lại phía sau khoảng . Hải đội Tuần dương nhẹ 2, vốn là lực lượng hộ tống cho các con tàu của Beatty, được cho tách ra để săn đuổi các tàu tuần dương Đức, nhưng một tín hiệu bị hiểu sai được truyền đạt từ các tàu chiến-tuần dương Anh đã điều chúng quay trở lại vị trí hộ tống. Sự lẫn lộn này cho phép các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức thoát được, và báo động cho Hipper vị trí của các tàu chiến-tuần dương Anh. Các tàu chiến-tuần dương Đức lượn về phía Đông Bắc lực lượng Anh và thoát đi an toàn.

New Zealand trở thành soái hạm của Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 thuộc Hạm đội Grand vào ngày 15 tháng 1 năm 1915, và đã tham gia tác chiến trong tuần lễ tiếp theo trong Trận Dogger Bank.

Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương của mình mở hết tốc độ có thể để bắt kịp các tàu chiến Đức trước khi chúng chạy thoát. New ZealandIndomitable là những chiếc chậm nhất trong số các con tàu của Beatty, dần dần bị tụt lại phía sau các tàu chiến-tuần dương mới hơn và nhanh hơn; tuy nhiên New Zealand vẫn có thể khai hỏa nhắm vào Blücher lúc 09 giờ 35 phút. Nó tiếp tục đối đầu với chiếc tàu tuần dương bọc thép Đức trong khi các chiếc nhanh hơn chuyển mục tiêu sang các tàu chiến-tuần dương Đức. Sau khoảng một giờ, New Zealand đã đánh hỏng tháp pháo phía trước của Blücher, và Indomitable cũng bắt đầu nổ súng vào đối phương lúc 10 giờ 31 phút. Hai quả đạn pháo 12 inch đã xuyên thủng sàn tàu bọc thép kích nổ một phòng tiếp đạn lúc 10 giờ 35 phút, làm bùng phát một đám cháy ở giữa tàu, phá hủy hai tháp pháo bên mạn trái. Những hư hỏng động cơ do chấn động đã khiến tốc độ của nó giảm còn , và bánh lái bị kẹt. Lúc 10 giờ 48 phút, Beatty ra lệnh cho Indomitable tấn công Blücher; nhưng do một sai lầm của viên trung úy cờ hiệu của Beatty, kết hợp với sự hư hỏng nặng soái hạm Lion làm hỏng thiết bị vô tuyến, cũng như khói lửa che khuất cột cờ tín hiệu, khiến cho Beatty không thể truyền đạt mệnh lệnh đến các tàu dưới quyền. Điều này đã khiến các tàu chiến-tuần dương còn lại, tạm thời dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Sir Gordon Moore trên chiếc New Zealand, tin rằng mệnh lệnh này là dành cho họ, nên đã tách khỏi việc truy đuổi thành phần chủ lực của Hipper để tấn công Blücher. New Zealand đã bắn 147 quả đạn pháo nhắm vào Blücher trước khi nó lật úp và chìm lúc 12 giờ 07 phút sau khi trúng ngư lôi. Một lần nữa Đại tá Halsey đã mặc bộ piupiu bên ngoài quân phục của mình; việc chiếc New Zealand tránh không bị hư hại lại được quy cho khả năng giữ gìn của nó.

Sáng ngày 21 tháng 4 năm 1916, Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 lại lên đường hướng đến Skagerrak, lần này là để hỗ trợ cho một nỗ lực ngăn chặn việc vận chuyển quặng từ Thụy Điển về Đức. Kế hoạch càn quét Kattegat bị hủy bỏ khi tin tức cho biết Hạm đội Biển khơi được huy động cho một chiến dịch của riêng họ (sau này được biết là trùng hợp về thời gian với cuộc Nổi dậy Phục sinh tại Ireland), và các con tàu Anh được lệnh đi đến một điểm gặp gỡ giữa Bắc Hải, trong khi phần còn lại của Hạm đội Grand hướng về phía Đông Nam của Long Forties. Trưa ngày 22 tháng 4, lực lượng tàu chiến-tuần dương di chuyển tuần tra về phía Tây Bắc Horn Reefs khi sương mù trở nên dày đặc. Các con tàu chạy zig-zag để tránh sự tấn công bằng tàu ngầm đối phương, và phối hợp với hoàn cảnh thời tiết, đã khiến Australia va chạm với tàu chị em New Zealand hai lần trong vòng ba phút. Australia bị hư hại đáng kể đến mức nó phải ngừng hoạt động trong nhiều tháng, nhưng New Zealand quay trở lại hạm đội vào ngày 30 tháng 5, một ngày trước khi trận Jutland bắt đầu, thay phiên cho chiếc Indefatigable trong vai trò soái hạm.

nhỏ|phải|Sĩ quan trên chiếc HMS New Zealand đang tập trung cùng với [[Winston Churchill và Vua George V]]

Trận Jutland

Ngày 31 tháng 5 năm 1916, Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc William Christopher Pakenham, và bao gồm New Zealand (soái hạm) và Indefatigable; Australia vẫn còn đang được sửa chữa sau vụ va chạm với New Zealand vào ngày 22 tháng 4. Chúng được phân về Hạm đội Tàu chiến-Tuần dương dưới quyền Đô đốc Beatty để đánh chặn một cuộc tiến quân của Hạm đội Biển khơi Đức vào Bắc Hải. Người Anh đã có thể giải mã các thông điệp vô tuyến của Đức, và đã rời căn cứ trước khi Hạm đội Đức ra khơi. Các tàu chiến-tuần dương của Hipper đã nhìn thấy Hải đội Tàu chiến-Tuần dương Anh về phía Tây lúc 15 giờ 20 phút, nhưng các con tàu của Beaty đã không nhìn thấy đối thủ ở phía Đông cho đến 15 giờ 30 phút. Hai phút sau, Beaty ra lệnh đổi hướng về phía Đông Đông Nam chắn ngang đường rút lui của Hạm đội Đức và truyền lệnh sẵn sàng tác chiến. Ông cũng ra lệnh cho Hải đội 2, vốn đang ở vị trí dẫn đầu, lui xuống phía sau Hải đội 1. Hipper ra lệnh cho các con tàu dưới quyền bẻ lái sang mạn phải, tách xa lực lượng Anh, hầu như 180°, theo hướng Đông Nam, và giảm tốc độ xuống còn , cho phép ba tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Đội tuần tiễu 2 có thể bắt kịp. Với cú đổi hướng này, Hipper quay trở lại thành phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi, lúc đó còn cách về phía sau. Vào khoảng thời gian này, Beatty đổi hướng về phía Đông, vì rõ ràng là ông ở quá xa về phía Bắc để có thể cắt ngang hướng đi của Hipper.

Đến đây bắt đầu một quá trình được gọi là đợt "Chạy về phía Nam" khi Beatty đổi hướng sang Đông Đông Nam lúc 15 giờ 45 phút, song song với hướng đi của Hipper, giờ đây ở khoảng cách dưới . Phía Đức khai hỏa trước tiên lúc 15 giờ 48 phút, và được phía Anh đáp trả. Các con tàu Anh vẫn đang còn trong quá trình đổi hướng, chỉ có hai chiếc dẫn đầu đội hình là LionPrincess Royal ổn định được hướng đi khi các tàu Đức nổ súng. Đội hình phía Anh được sắp theo hình thang lệch sang phải với Indefatigable ở phía cuối và xa nhất về phía Tây, trong khi New Zealand dẫn trước nó và hơi lệch về phía Đông. Hỏa lực của phía Đức khá chính xác ngay từ đầu, còn phía Anh đã ước lượng quá xa khoảng cách khi các con tàu Đức lẫn khuất trong làn sương mù. Indefatigable nhắm vào Von der Tann còn New Zealand nhắm vào Moltke trong khi bản thân nó không bị đối địch. Đến 15 giờ 54 phút, khoảng cách giữa hai bên được rút ngắn xuống còn , và Beatty ra lệnh bẻ lái 2 point (22,5°) sang mạn phải để gia tăng khoảng cách giữa hai bên lúc 15 giờ 57 phút. Indefatigable bị phá hủy lúc khoảng 16 giờ 03 phút khi hầm đạn phát nổ.

Sau khi Indefatigable bị mất, New Zealand chuyển hỏa lực của nó sang nhắm vào Von der Tann theo chỉ thị của Beatty. Khoảng cách giữa hai bên đã trở nên quá xa để có thể bắn chính xác, nên Beatty đổi hướng 4 point (45°) sang mạn trái để rút ngắn khoảng cách từ 16 giờ 12 phút đến 16 giờ 15 phút. Vào lúc này Hải đội Chiến trận 5 với bốn thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth tiến đến gần và đối đầu với Von der TannMoltke. Lúc 16 giờ 23 phút, một quả đạn pháo từ chiếc Tiger bắn trúng gần tháp pháo phía sau của Von der Tann gây một đám cháy trên các mục tiêu thực hành được chứa tại đây; khói lửa bao trùm con tàu khiến New Zealand phải chuyển hỏa lực sang chiếc Moltke. Lúc 16 giờ 26 phút, New Zealand trúng phải một phát đạn pháo bắn từ Von der Tann, trúng vào tháp pháo ‘X’ vốn đã kích nổ khi tiếp xúc, làm bung một tấm vỏ giáp và tạm thời gây kẹt tháp pháo ‘X’ cũng như thủng một lỗ trên sàn tàu trên.

Bốn phút sau, tàu tuần dương hạng nhẹ Southampton, đi trinh sát phía trước các tàu chiến của Beatty, nhìn thấy các đơn vị của Hạm đội Biển khơi hướng lên phía Bắc với tốc độ tối đa. Ba phút sau, nó trông thấy cột ăn-ten của các thiết giáp hạm dưới quyền Phó Đô đốc Reinhard Scheer, nhưng đã chần chừ không báo cáo cho đến năm phút sau. Beatty tiếp tục tiến về phía Nam thêm hai phút nữa để xác định báo cáo về đối phương trước khi ra lệnh cho lực lượng dưới quyền nối tiếp nhau bẻ lái 16 point sang mạn phải quay lên phía Bắc. Tuy nhiên, New Zealand, chiếc cuối cùng của hạm đội, buộc phải bẻ lái sớm để giữ bên ngoài tầm hỏa lực của các thiết giáp hạm đối phương đang tiến đến.

New Zealand bị thiết giáp hạm Prinzregent Luitpold đối đầu bắt đầu từ 17 giờ 08 phút, trong quá trình được gọi là đợt "Chạy về phía Bắc", nhưng đã không bị bắn trúng phát nào cho dù nhiều lần bị vây bọc đạn pháo chung quanh. Các tàu chiến của Beatty duy trì tốc độ tối đa, cố tạo ra khoảng cách giữa chúng và Hạm đội Biển khơi, và dần dần vượt ra khỏi tầm bắn. Chúng hướng lên phía Bắc, rồi Đông Bắc, tìm cách gặp gỡ thành phần chủ lực của Hạm đội Grand, và đến 17 giờ 40 phút lại nổ súng vào đối thủ Đức. Ánh sáng ngược khi mặt trời lặn đã che mắt các pháo thủ Đức nên họ không thể xác định các con tàu Anh, và đổi sang hướng Đông Bắc lúc 17 giờ 47 phút. Beatty dần dần chuyển về hướng Đông để các con tàu của ông có thể bảo vệ quá trình bố trí của Hạm đội Grand thành đội hình chiến trận; nhưng ông đã tính toán sai thời gian việc cơ động của mình, buộc các đơn vị Anh dẫn đầu cơ động về hướng Đông tách xa khỏi lực lượng Đức. Lúc 18 giờ 35 phút, Beatty đi theo sau IndomitableInflexible thuộc Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 3 khi chúng dẫn đầu Hạm đội Grand về hướng Đông Đông Nam, và tiếp tục đối đầu với các tàu chiến-tuần dương của Hipper về phía Tây Nam. Vài phút trước đó, Scheer đã ra lệnh một cú đổi hướng đồng loạt 180° sang mạn phải, và Beatty mất dấu đối phương trong làn sương mù. Hai mươi phút sau, Scheer ra lệnh một cú đổi hướng 180° khác, đưa các con tàu Đức vào một hướng đi hội tụ để đối đầu với Hạm đội Grand, vốn đã đổi hướng về phía Nam. Điều này cho phép Hạm đội Grand cắt ngang chữ T lực lượng của Scheer và gây hư hại đáng kể cho các chiếc dẫn đầu. Scheer ra lệnh một cú đổi hướng 180° nữa lúc 19 giờ 13 phút trong một nỗ lực nhằm giải thoát Hạm đội Biển khơi khỏi cái bẫy mà sự cơ động của ông đã tạo ra.

Cú cơ động này đã thành công và phía Anh mất dấu các con tàu Đức cho đến 20 giờ 05 phút, khi Castor phát hiện khói ở hướng Tây Tây Bắc; mười phút sau nó tiếp cận, phát hiện nhiều tàu phóng lôi Đức và giao chiến cùng với chúng. Nghe thấy tiếng súng, Beatty ra lệnh cho các tàu dưới quyền quay mũi sang hướng Tây, và phát hiện các tàu chiến-tuần dương Đức chỉ cách có . Inflexible nổ súng lúc 20 giờ 20 phút, được nối tiếp hầu như ngay lập tức bởi các tàu chiến-tuần dương còn lại. New ZealandIndomitable tập trung hỏa lực của chúng vào chiếc Seydlitz, bắn trúng nó năm lần trước khi mục tiêu đổi hướng về phía Tây tách ra khỏi trận chiến. Không lâu sau 20 giờ 30 phút, các thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc Hải đội Chiến trận 2 dưới quyền Chuẩn Đô đốc Mauve bị phát hiện, và hỏa lực chuyển sang nhắm vào mục tiêu mới. Các tàu Đức chỉ nổ súng vài loạt đạn do tầm nhìn kém rồi quay mũi về phía Tây; các tàu chiến-tuần dương Anh bắn trúng đối thủ nhiều phát trước khi chúng biến mất vào làn sương mù lúc khoảng 20 giờ 40 phút. Sau đó Beatty chuyển hướng sang Nam Đông Nam và duy trì hướng đi này, dẫn trước cả Hạm đội Grand lẫn Hạm đội Biển khơi, cho đến 02 giờ 55 phút rạng sáng ngày 1 tháng 6 vào lúc có mệnh lệnh đổi hướng quay về nhà.

New Zealand đã bắn tổng cộng 420 quả đạn pháo 12 inch trong suốt trận chiến; nhiều hơn bất kỳ tàu chiến nào khác thuộc cả hai phía. Dù vậy, chiếc tàu chiến-tuần dương chỉ bắn trúng đích bốn phát: ba phát vào Seydlitz và một phát vào chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought Schleswig-Holstein. Nó chỉ bị bắn trúng một lần trong trận chiến, khẳng định niềm tin của thủy thủ đoàn vào giá trị may mắn mà bộ piupiu và tiki được mặc bởi Thuyền trưởng của nó, Đại tá Hải quân J.F.E. (Jimmy) Green.

Các hoạt động tiếp theo

Ngày 9 tháng 6, Australia ra khỏi ụ tàu và thay phiên cho New Zealand trong vai trò soái hạm. Nó được tạm thời điều sang Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 cho đến tháng 9, khi nó được chiếc Renown thay phiên. Chiều tối ngày 18 tháng 8, Hạm đội Grand ra khơi do một thông điệp được Phòng 40 giải mã cho biết Hạm đội Biển khơi Đức, thiếu mất Hải đội 2, sẽ rời cảng trong đêm đó. Mục tiêu của Đức là bắn phá Sunderland vào ngày 19 tháng 8, được trinh sát rộng rãi bởi khí cầu và tàu ngầm. Hạm đội Grand lên đường với 29 thiết giáp hạm dreadnought và sáu tàu chiến-tuần dương.

Trong suốt ngày hôm sau, Jellicoe và Scheer nhận được những tin tức tình báo mâu thuẫn với nhau, vốn đưa đến hậu quả là trên đường đi đến điểm gặp gỡ tại Bắc Hải, Hạm đội Grand chuyển hướng lên phía Bắc do tin tưởng sai lầm là đang tiến vào một bãi mìn trước khi quay lại hướng Nam. Riêng Scheer lại bẻ lái về hướng Đông Nam để săn đuổi cái mà ông tin là một hải đội chiến trận Anh đơn độc được một khí cầu Đức phát hiện, nhưng thực ra chỉ là Lực lượng Harwich gồm các tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền Thiếu tướng Hải quân Reginald Tyrwhitt. Nhận ra sai lầm, phía Đức đổi hướng quay trở về cảng nhà. Tiếp xúc duy nhất giữa hai phía là vào lúc chiều tối khi Tyrwhitt nhìn thấy Hạm đội Biển khơi, nhưng không thể đi đến một vị thế tấn công thuận tiện trước khi trời tối, nên đã tách ra khỏi trận chiến. Cả hạm đội Anh lẫn hạm đội Đức đều quay trở về cảng nhà; phía Anh mất hai tàu tuần dương do các cuộc tấn công bằng tàu ngầm, còn phía Đức có một thiết giáp hạm dreadnought bị trúng ngư lôi. New Zealand trải qua một đợt tái trang bị tại Rosyth vào tháng 11 năm 1916. Nó tạm thời thay phiên cho Australia trong vai trò soái hạm của hải đội từ ngày 29 tháng 11 năm 1916 đến ngày 7 tháng 1 năm 1917. Giống như trong các cuộc đụng độ trước đó, Đại tá Green mặc piupiu và tiki cho may mắn.

Trong năm 1918, New Zealand cùng các tàu chiến chủ lực còn lại của Hạm đội Grand thỉnh thoảng được sử dụng để hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Anh Quốc và Na Uy. Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 trải qua giai đoạn từ ngày 8 đến ngày 21 tháng 2 phối hợp với các thiết giáp hạm và tàu tuần dương hộ tống một đoàn tàu vận tải như thế, rồi lại ra khơi vào ngày 6 tháng 3 cùng với Hải đội 1 hỗ trợ các tàu quét mìn. Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 lại bảo vệ cho các tàu quét mìn tại Bắc Hải trong các đợt từ 25– 26 tháng 6 và 29–30 tháng 7. Trong tháng 9 và tháng 10 New Zealand cùng Hải đội 2 giám sát và bảo vệ các hoạt động rải mìn về phía Bắc Orkney. Chiếc tàu chiến-tuần dương trong thành phần Hải đội 2 đã có mặt vào lúc Hạm đội Biển khơi Đức đầu hàng.

Chuyến đi đến các thuộc địa

Sau khi chiến tranh kết thúc, Đô đốc John Jellicoe được giao nhiệm vụ lập kế hoạch và phối hợp các chính sách về hải quân và phòng thủ của các lãnh thổ thuộc Đế chế Anh. New Zealand được đưa ra để phục vụ cho chuyến đi của ông, được tái trang bị từ tháng 12 năm 1918 đến tháng 2 năm 1919 nhằm chuẩn bị cho chuyến đi; thay đổi chính bao gồm việc tháo dỡ các bệ phóng thủy phi cơ và các khẩu pháo 4 inch thấp phía trước. Chặng dừng đầu tiên là Ấn Độ, khi New Zealand đến Bombay vào ngày 14 tháng 3 năm 1919 và khởi hành sáu tuần sau đó. Chiếc tàu chiến-tuần dương hướng đến Australia, đi đến Albany, Western Australia vào ngày 15 tháng 5, nơi Jellicoe và bộ tham mưu của ông rời tàu thực hiện chuyến đi băng ngang lục địa này bằng đường bộ. New Zealand tiếp nối theo sau, ghé qua Melbourne, Hobart và Sydney trước khi khởi hành đi New Zealand vào ngày 16 tháng 8. nhỏ|phải|Một trong những khẩu pháo 4 inch của New Zealand đặt bên ngoài Bảo tàng Tưởng niệm Chiến tranh Auckland Nó được đặc biệt ưa chuộng tại New Zealand, nơi đám đông tụ tập để viếng thăm nó giống như họ từng làm vào năm 1913. Jellicoe cũng được mến chuộng, và ông đã quay lại New Zealand sau này để phục vụ như là Toàn quyền từ năm 1920 đến năm 1924. Nước cuối cùng mà Jellicoe ghé thăm là Canada, khi New Zealand đến nơi vào ngày 8 tháng 11, sau khi ghé qua Fiji và Hawaii trên đường đi. Sau khi quay về Anh Quốc, chiếc tàu chiến-tuần dương được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 15 tháng 3 năm 1920. New Zealand bị Hải quân Hoàng gia xem là đã lạc hậu do những khẩu pháo 12 inch của nó yếu kém so với những khẩu được bố trí trên những thế hệ tàu chiến-tuần dương mới nhất. Nó bị bán để tháo dỡ vào ngày 19 tháng 12 năm 1922 để đáp ứng những hạn ngạch về tải trọng tàu chiến dành cho Đế quốc Anh được Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**HMS _New Zealand**_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp _Indefatigable_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được hạ
Hai tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được mang cái tên **HMS _New Zealand**_, vốn được đặt theo đất nước New Zealand, một nước tự trị trong khối Đế chế Anh, cùng
**Lịch sử New Zealand** truy nguyên từ ít nhất 700 năm trước khi người Polynesia khám phá và định cư tại đây, họ phát triển một văn hóa Maori đặc trưng. Nhà thám hiểm người
**HMS _Princess Royal**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Là chiếc thứ hai trong lớp _Lion_ bao gồm hai chiếc, nó được
**HMAS _Australia**_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp _Indefatigable_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được chính phủ
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**HMS _Indefatigable**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp _Indefatigable_, một phiên bản mở rộng so với lớp _Invincible_ dẫn trước, được cải thiện
**HMS _Queen Mary**_ là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Thiết kế của
**HMS _Renown**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Repulse_. Nó đã phục vụ trong cả cuộc
**HMS _Invincible**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó bao gồm ba chiếc, và là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu
**HMS _Tiger_ (1913)** là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Được chế
**Edward VIII của Anh** (Edward Albert Christian George Andrew Patrick David; 23 tháng 6 năm 1894 – 28 tháng 5 năm 1972) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của
Tám tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Defender**_: * là một tàu brig 12 khẩu pháo lớp _Courser_ hạ thủy năm 1797 và phục vụ đến năm
**HMS _Indomitable**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Invincible_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã hoạt động tích cực trong cuộc
**Lục địa Nam Cực** hay **châu Nam Cực** (, phát âm hay ; còn được gọi là **Nam Cực**) là lục địa nằm xa về phía nam và tây nhất trên Trái Đất, chứa Cực
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
thế=Head and shoulders photograph of Konon Molody wearing a jacket and tie|nhỏ| [[Konon Molody với tên vỏ bọc Gordon Lonsdale, năm 1961]] **Mạng lưới điệp báo Portland** () là nhóm gián điệp Liên Xô hoạt
**SMS _Kaiserin**_ (_Nữ hoàng_) là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiserin_ được đặt lườn vào ngày
thumb|right|Nam Đại Dương theo mô tả trong dự thảo ấn bản thứ tư tài liệu _Giới hạn của biển và đại dương_ của [[Tổ chức Thủy văn Quốc tế (2002)]] thumb|right|[[Đới hội tụ Nam Cực
**Darwin** (phát âm tiếng Anh: ) là thủ phủ của Lãnh thổ Bắc Úc, tọa lạc bên cạnh biển Timor, Darwin là thành phố lớn nhất tại Lãnh thổ Bắc Úc, với dân số khoảng
**Máy bay ném/thả ngư lôi** là một máy bay quân sự được thiết kế chủ yếu để tấn công tàu thuyền bằng ngư lôi trên không. Máy bay ném ngư lôi đã tồn tại ngay
**SMS _Von der Tann**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo, cũng là chiếc tàu chiến chủ lực đầu tiên của Đức vận hành bằng turbine hơi
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**Trận Sidi Barrani** (10 - 11 tháng 12 năm 1940) là trận đánh mở đầu cho chiến dịch Compass, cuộc tiến công lớn đầu tiên của Anh trong Chiến dịch Sa mạc Tây trong Thế
**Gilbert và Sullivan** (, viết tắt **G&S** trong ngữ cảnh) là bộ đôi sân khấu thời đại Victoria gồm nhà viết kịch W. S. Gilbert (1836–1911) và nhà soạn nhạc Arthur Sullivan (1842–1900). Trong giai
**Scotland** (phát âm tiếng Anh: , ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, chiếm một phần ba diện tích phía bắc của đảo Anh, giáp với Anh
**Thống đốc và Đồng sự của Ngân hàng Anh** (Governor and Company of Bank of England) là tên gọi đầy đủ của **Ngân hàng Anh** – ngân hàng trung ương của Vương quốc Liên hiệp
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**Mercury** là một vị thần chính trong tôn giáo và thần thoại La Mã. **Mercury** cũng có thể là: * Thủy ngân (tên tiếng Anh: **Mercury**) là nguyên tố hóa học có ký hiệu **Hg**