✨Dreadnought

Dreadnought

thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng

Dreadnought (tiếng Anh có khi còn được viết là dreadnaught) là kiểu thiết giáp hạm thống trị trong thế kỷ 20. Chiếc đầu tiên của loại này, thiết giáp hạm HMS Dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, đã có một tầm ảnh hưởng lớn đến mức khi được hạ thủy vào năm 1906, mọi thiết giáp hạm được chế tạo sau nó được gọi là những "dreadnought", còn những chiếc trước đó được đặt tên lại là những thiết giáp hạm tiền-dreadnought. Thiết kế của nó mang hai đặc tính rất cách mạng: sơ đồ vũ khí trang bị 'toàn súng lớn', và vận hành bằng hệ thống động lực turbine hơi nước. Sự ra đời của những dreadnought làm sống lại cuộc chạy đua vũ trang hải quân, chủ yếu là giữa Anh Quốc và Đức nhưng cũng ảnh hưởng trên khắp thế giới, khi lớp tàu chiến mới là một biểu trưng chủ yếu của sức mạnh quốc gia.

Khái niệm về một tàu chiến toàn súng lớn đã được phát triển nhiều năm trước khi chế tạo chiếc Dreadnought. Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã bắt đầu dự án chế tạo một thiết giáp hạm toàn súng lớn vào năm 1904, nhưng hoàn tất nó như một chiếc tiền-dreadnought; Hải quân Hoa Kỳ cũng đã chế tạo những chiến hạm toàn súng lớn. Kỹ thuật tiến triển nhanh chóng trong suốt thời đại dreadnought; các thiết kế tiếp theo gia tăng nhanh chóng về kích cỡ cũng như áp dụng các cải tiến về vũ khí, vỏ giáp và động lực. Trong vòng mười năm, những chiếc thiết giáp hạm mới đã vượt trội hơn bản thân Dreadnought; những tàu chiến mạnh hơn hẳn này được gọi là những siêu dreadnought. Đa số dreadnought bị tháo dỡ sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington, nhưng nhiều chiếc siêu-dreadnought mới hơn đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Dù việc chế tạo dreadnought tiêu tốn rất nhiều tài nguyên vào đầu thế kỷ 20, song chỉ có một trận đánh lớn thực sự diễn ra giữa các hạm đội dreadnought. Trong trận Jutland, hải quân Anh và Đức đã đối đầu với nhau mà không mang lại kết quả quyết định. Thuật ngữ 'dreadnought' dần dần ít được sử dụng sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đặc biệt là sau Hiệp ước Hải quân Washington, vì hầu như mọi thiết giáp hạm còn lại đều có chung những đặc tính với dreadnought; chúng còn được dùng để mô tả những chiếc tàu chiến-tuần dương, một kiểu tàu chiến khác cùng phát sinh từ cuộc cách mạng dreadnought.

Nguồn gốc

Cách sắp xếp vũ khi toàn súng lớn đặc trưng cho dreadnought được phát triển vào những năm đầu của thế kỷ 20 khi hải quân các nước cố tìm cách gia tăng hỏa lực và tầm xa của các thiết giáp hạm của họ. Đa số thiết giáp hạm tiền-dreadnought có dàn pháo chính gồm bốn pháo hạng nặng với cỡ nòng 305 mm (12 inch), dàn pháo hạng hai từ sáu đến mười tám pháo bắn nhanh với cỡ nòng từ 119 mm (4,7 inch) đến 190,5 mm (7,5 inch) và các vũ khí cỡ nhỏ khác. Một số thiết kế còn có một dàn pháo trung gian 203 mm (8 inch). Đến năm 1903, những đề nghị nghiêm túc về một giàn hỏa lực toàn pháo lớn được truyền bá tại nhiều nước.

Thiết kế toàn súng lớn được tiến hành hầu như đồng thời tại hải quân của ba nước. Năm 1904, Hải quân Đế quốc Nhật Bản chấp thuận việc chế tạo Satsuma mang mười hai khẩu pháo 305 mm (12 inch); đến tháng 5 năm 1905 thì Satsuma được đặt lườn. Hải quân Hoàng gia bắt đầu thiết kế HMS Dreadnought vào tháng 1 năm 1905; và nó được đặt lườn vào tháng 10. Hải quân Hoa Kỳ được chấp thuận cho chế tạo USS Michigan, mang tám pháo 12-inch vào tháng 3;

Sở dĩ có sự thay đổi sang thiết kế tàu chiến toàn súng lớn là vì một dàn pháo cỡ lớn sẽ cung cấp ưu thế trong cả sức mạnh lẫn việc kiểm soát hỏa lực. Kiểu pháo mới nhất 305 mm (12 inch) có sức mạnh ở tầm xa hơn pháo có cỡ nòng 254 mm (10 inch) hoặc 234 mm (9,2 inch). Đa số các sử gia còn dẫn chứng những ưu thế về kiểm soát hỏa lực; ở tầm xa, pháo được ngắm bằng cách quan sát ánh chớp gây ra bởi các quả đạn pháo bắn theo loạt, và thật khó để biện luận phân biệt những ánh chớp khác nhau từ các cỡ nòng pháo khác nhau. Hiện vẫn còn đang tranh luận về tầm quan trọng của điều này.

Pháo tầm xa

Trong các trận hải chiến vào những năm 1890, vũ khí quyết định là pháo cỡ nòng trung bình, tiêu biểu là pháo 152 mm (6 inch) bắn nhanh, được bắn ở tầm tương đối ngắn. Hải pháo thời đó cũng không chính xác khi bắn mục tiêu ở tầm xa hơn. Ở các khoảng cách như vậy, súng nhỏ có độ chính xác tốt, và tốc độ bắn nhanh của chúng tung ra một khối lượng hỏa lực lớn vào mục tiêu. Trong Trận sông Áp Lục năm 1894, hải quân Nhật đã không nổ súng cho đến khi khoảng cách giữa hai bên chỉ còn 3.900 m, nhưng trận đánh đã diễn ra hầu như ở cự ly khoảng 2.000 m.

Vào đầu những năm 1900 các đô đốc Anh và Mỹ dự đoán rằng các thiết giáp hạm trong tương lai sẽ đối đầu ở khoảng cách xa hơn, khi tầm bắn của ngư lôi gia tăng. Năm 1903, Hải quân Mỹ đặt hàng thiết kế ngư lôi có tầm hiệu quả lên đến 3.660 m (4.000 yard). Họ đều đưa đến kết luận cần giao chiến với đối phương ở khoảng cách xa hơn. Đến năm 1904, Học viện Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ cân nhắc hiệu quả chiến thuật của ngư lôi đối với thiết giáp hạm ở trong khoảng 6.400 m (7.000 yard) đến 7.300 m (8.000 yard). Ở các tầm bắn xa, ưu thế của tốc độ bắn nhanh cũng giảm; việc bắn chính xác phụ thuộc vào việc trinh sát ánh chớp đạn nổ của loạt đạn pháo trước đó, cũng làm giới hạn tốc độ bắn tối ưu.

Tàu toàn súng lớn với cỡ pháo hỗn hợp

nhỏ|Thiết giáp hạm [[HMS Agamemnon (1906)|HMS Agamemnon, một tàu toàn súng lớn với cỡ pháo hỗn hợp thuộc lớp Lord Nelson. Nó mang bốn pháo 305 mm (12 inch) và mười pháo 234 mm (9,2 inch)]] Một cách tạo ra những thiết giáp hạm mạnh mẽ hơn là loại bỏ dàn pháo hạng hai, thay thế chúng bằng các khẩu pháo hạng nặng bổ sung, tiêu biểu thường là cỡ nòng 234 mm (9,2 inch) hoặc 254 mm (10 inch). Những thiết giáp hạm này, thường được mô tả như là những "tàu toàn súng lớn với cỡ pháo hỗn hợp" hay sau này gọi là "bán-dreadnought", bao gồm các lớp King Edward VIILord Nelson của Anh Quốc, Danton của Pháp và chiếc Satsuma của Nhật Bản. Quá trình thiết kế những con tàu này thường bao gồm những thảo luận cho khả năng "toàn súng lớn một cỡ pháo đồng nhất".

Trên tạp chí Proceedings of the US Naval Institute số tháng 6 năm 1902, chuyên gia hàng đầu về tác xạ pháo của Hải quân Mỹ là Giáo sư P. R. Alger đã đề nghị một dàn pháo chính gồm tám khẩu 305 mm (12 inch) trên những tháp pháo đôi. Vào tháng 5 năm 1902, Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa Hải quân Mỹ giới thiệu một thiết kế thiết giáp hạm với mười hai khẩu 253 mm (10 inch) cũng trên những tháp pháo đôi, hai khẩu ở mỗi hai đầu và bốn khẩu mỗi bên mạn tàu.

Một xu hướng tương tự cũng diễn ra trong Hải quân Hoàng gia Anh. Một thiết kế được lưu hành trong những năm 1902–1903 với "một giàn hỏa lực toàn súng lớn mạnh mẽ với hai cỡ nòng pháo, tức là bốn khẩu 305 mm (12 inch) và mười hai khẩu 234 mm (9,2 inch)". Tuy nhiên, Bộ Hải quân lại quyết định chế tạo thêm ba chiếc thuộc lớp King Edward VII với cỡ pháo hỗn hợp 305 mm (12 inch), 234 mm (9,2 inch) và 152 mm (6 inch) trong chương trình chế tạo hải quân 1903–1904. Quan niệm này sống lại trong chương trình 1904–1905, lớp Lord Nelson. Những giới hạn về chiều dài và mạn thuyền khiến các tháp pháo 234 mm (9,2 inch) giữa tàu chỉ là nòng đơn thay vì nòng đôi, nên có giàn hỏa lực gồm bốn khẩu 305 mm (12 inch), mười khẩu 234 mm (9,2 inch) và không có pháo 152 mm (6 inch). Người vẽ kiểu ra thiết kế này, J. H. Narbeth, đề xuất một bản vẽ thay thế trình bày một giàn hỏa lực mười hai khẩu 305 mm (12 inch), nhưng Bộ Hải quân đã không chấp nhận điều này. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến quyết định giữ lại cỡ pháo hỗn hợp là do nhu cầu nhanh chóng chế tạo những chiếc thiết giáp hạm trước tình hình căng thẳng mà chiến tranh Nga–Nhật tạo ra.

Chuyển sang thiết kế toàn súng lớn

Việc thay thế cỡ pháo 152 mm (6 inch) hay 203 mm (8 inch) bằng vũ khí 234 mm (9,2 inch) hay 253 mm (10 inch) đã cải thiện sức mạnh tấn công của một thiết giáp hạm, đặc biệt là ở tầm xa. Tuy nhiên, cỡ pháo hạng nặng đồng nhất còn có nhiều ưu điểm nữa. Một ưu thế rõ ràng dễ nhận ra là trong khía cạnh tiếp liệu. Ví dụ như khi Hải quân Mỹ cân nhắc việc có nên trang bị cỡ pháo hạng nặng hỗn hợp cho lớp thiết giáp hạm South Carolina hay không, William Sims và Homer Poundstone đã nhấn mạnh đến những ưu điểm của tính đồng nhất trong khía cạnh cung cấp đạn dược cũng như khả năng điều động pháo thủ từ những khẩu pháo không hoạt động đến thay thế cho những người bị thương tại những khẩu pháo khác.

Một cỡ pháo đồng nhất cũng giúp thông suốt việc kiểm soát hỏa lực. Những nhà thiết kế Dreadnought đã ưa chuộng một cấu hình toàn súng lớn vì chúng chỉ yêu cầu một bộ công thức tính toán để hiệu chỉnh tầm bắn cho mọi khẩu pháo. Một số sử gia ngày nay có quan niệm rằng một cỡ pháo đồng nhất có vai trò đặc biệt quan trọng, do nguy cơ nhầm lẫn các ánh lửa đạn pháo của cỡ nòng 305 mm (12 inch) và các cỡ nhỏ hơn gây khó khăn trong việc định tầm bắn chính xác. Tuy nhiên quan điểm này tự thân nó mâu thuẫn; việc kiểm soát hỏa lực vào năm 1905 chưa tiến bộ đến mức áp dụng kỹ thuật bắn hàng loạt, nơi mà sự nhầm lẫn này có thể gây ảnh hưởng quan trọng, và sự nhầm lẫn ánh lửa đạn pháo này dường như không phải là mối bận tâm của những người thiết kế toàn pháo lớn. Dù sao, nhiều khả năng là nguy cơ phải đối đầu ở khoảng cách xa hơn có tầm quan trọng đưa đến quyết định phải trang bị cỡ pháo lớn nhất có thể như là tiêu chuẩn, tức là 305 mm (12 inch) thay vì 253 mm (10 inch).

Hơn nữa, thiết kế mới hơn của loại pháo 305 mm (12 inch) đem lại tốc độ bắn cao hơn đáng kể, loại bỏ ưu thế thường có trước đây của các cỡ nòng pháo nhỏ hơn. Nếu như vào năm 1895, phải mất đến bốn phút để một khẩu pháo 305 mm (12 inch) có thể bắn một quả đạn, thì đến năm 1902, thường chỉ mất nửa phút. Ý tưởng của Cuniberti, vốn từng được ông đề nghị cho chính Hải quân Ý, áp dụng tốc độ bắn cao của kiểu pháo mới 305 mm (12 inch), tạo ra một đòn hỏa lực bắn nhanh mang tính hủy diệt thay thế cho kiểu "pháo chào" của những vũ khí nhẹ hơn. Việc gia tăng tốc độ bắn đặt những nền tảng cho các tiến bộ sau này về kiểm soát hỏa lực. Những áp lực tài chính của cuộc chiến tranh Nga–Nhật và việc thiếu hụt cung cấp các khẩu pháo 305 mm (12 inch) vốn phải được nhập khẩu từ Anh Quốc khiến cho những chiếc này lại được hoàn tất với dàn pháo chính có cỡ nòng hỗn hợp 305 mm (12 inch) và 253 mm (10 inch). Thiết kế 1903–1904 cũng giữ lại kiểu động cơ hơi nước ba buồng bành trướng truyền thống, khác với Dreadnought.

Cú đột phá về dreadnought diễn ra tại Anh Quốc vào tháng 10 năm 1905. Vị Thứ trưởng Thứ nhất Hải quân mới được bổ nhiệm, Đô đốc "Jackie" Fisher, từ lâu đã là người chủ trương áp dụng kỹ thuật mới trong Hải quân Hoàng gia, và gần đây đã bị thuyết phục bởi ý tưởng thiết giáp hạm toàn súng lớn. Fisher thường được công nhận là người sáng tạo dreadnought, và là cha đẻ của hạm đội thiết giáp hạm dreadnought hùng hậu của Anh Quốc, một dấu ấn mà ông đã có nhiều nỗ lực để củng cố. Tuy nhiên, phải nói một cách công bằng rằng mối quan tâm chính của Fisher là phát triển tàu chiến-tuần dương chứ không phải là thiết giáp hạm.

Không lâu sau khi nhậm chức, Fisher thành lập Ủy ban về Thiết kế để nghiên cứu về thiết giáp hạm và tàu tuần dương bọc thép trong tương lai, Các thiết kế ban đầu dự định mười hai khẩu 305 mm (12 inch), cho dù những khó khăn trong việc bố trí chúng khiến cho nhà thiết kế chính vào một lúc nào đó đã đề nghị quay lại cấu hình bốn pháo 305 mm (12 inch) và mười sáu hoặc mười tám pháo 234 mm (9,2 inch). Sau một đánh giá đầy đủ các báo cáo về những hoạt động trong trận Tsushima được biên soạn bởi một sĩ quan phái viên, Đại tá William Christopher Pakenham, Ủy ban xác định rõ ràng về dàn pháo chính gồm mười khẩu 305 mm (12 inch), cùng với 22 khẩu QF 12 pounder như là dàn pháo hạng hai. Việc chế tạo được tiến hành với một tốc độ nhanh đáng kể; Dreadnought được đặt lườn vào ngày 2 tháng 10 năm 1905, hạ thủy vào ngày 10 tháng 2 năm 1906, và nó được hoàn tất vào ngày 3 tháng 10 năm 1906, đúng một năm sau đó; một điều rất ấn tượng minh họa khả năng của nền công nghiệp Anh Quốc vào thời đó. Tuy nhiên, việc chế tạo chúng được tiến hành chậm; những chi tiết cho các nhà thầu được công bố ngày 21 tháng 11 năm 1906, hợp đồng chế tạo được trao vào ngày 21 tháng 7 năm 1906, và hai chiếc thiết giáp hạm được đặt lườn vào tháng 12 năm 1906, sau khi Dreadnought đã hoàn tất.

Thiết kế

Những nhà thiết kế cho dreadnought đã cố tìm cách thiết kế sao cho nó được bảo vệ, có tốc độ và hỏa lực càng nhiều càng tốt với kích cỡ và chi phí mang tính thực tế. Dấu hiệu xác nhận của một thiết giáp hạm dreadnought là giàn hỏa lực 'toàn súng lớn', nhưng cũng có một vỏ giáp nặng tập trung vào một đai dày ở ngang mực nước và một hay nhiều sàn tàu bọc thép. Thêm vào đó, giàn hỏa lực hạng hai, hệ thống kiểm soát hỏa lực, thiết bị chỉ huy, hệ thống bảo vệ chống lại ngư lôi cũng được nhồi nhét lên thân tàu.

Hậu quả không thể tránh khỏi của những đòi hỏi về tốc độ nhanh hơn nữa, hỏa lực mạnh và sự chịu đựng có nghĩa là tải trọng, và do đó là chi phí, của dreadnought có xu hướng gia tăng. Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 đặt ra một giới hạn 35.000 đối với tải trọng của các tàu chiến chủ lực. Trong những năm sau đó, một số thiết giáp hạm hiệp ước được đưa vào hoạt động có thiết kế bên trong giới hạn này. Quyết định của Nhật Bản rời khỏi Hiệp ước trong những năm 1930, rồi đến việc Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, cuối cùng đã khiến cho giới hạn này không còn thích hợp.

Vũ khí trang bị

Một kế hoạch cho chiếc [[HMS Bellerophon (1907)|Bellerophon cho thấy sự bố trí hỏa lực tiêu biểu của dreadnought Anh Quốc thế hệ đầu tiên. Dàn pháo chính được bố trí trên các tháp pháo nòng đôi, với hai tháp pháo bên cánh; giàn hỏa lực hạng hai tập trung quanh cấu trúc thượng tầng]]

Dreadnought mang một giàn hỏa lực chính gồm pháo hạng nặng có cỡ nòng đồng nhất; số lượng, kích cỡ và cách bố trí rất khác nhau giữa các thiết kế. Bản thân Dreadnought mang mười khẩu 305 mm (12 inch). Pháo 305 mm (12 inch) đã trở thành tiêu chuẩn cho hầu hết hải quân trên thế giới trong thời đại tiền-dreadnought và điều này được tiếp nối trong thế hệ đầu tiên của thiết giáp hạm dreadnought. Hải quân Đế quốc Đức là một ngoại lệ, họ tiếp tục sử dụng pháo 280 mm (11 inch) trên những chiếc dreadnought hàng đầu thuộc lớp Nassau.

Dreadnought cũng trang bị các vũ khí nhẹ hơn. Nhiều chiếc dreadnought đời đầu có một giàn hỏa lực hạng hai gồm các khẩu pháo rất nhẹ được thiết kế để đẩy lùi tàu phóng lôi đối phương. Tuy nhiên, cỡ nòng và trọng lượng của giàn hỏa lực hạng hai có xu hướng gia tăng, khi tầm xa của ngư lôi và sức chịu đựng của tàu khu trục được dự định mang chúng cũng gia tăng. Từ cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất trở đi, thiết giáp hạm còn được trang bị vũ khí phòng không, tiêu biểu là một số lượng lớn súng hạng nhẹ.

Bản thân dreadnought cũng rất hay được trang bị ống phóng ngư lôi. Về lý thuyết, một hàng thiết giáp hạm được trang bị như vậy có thể tung ra một loạt ngư lôi hủy diệt nhằm vào hàng tàu chiến đối phương đang di chuyển một hướng đi song song. Song các ghi chép thực tế cho thấy ngư lôi phóng từ thiết giáp hạm ghi rất ít khi trúng mục tiêu, trong khi nguy cơ từ việc dự trữ ngư lôi có thể gây nổ nguy hiểm nếu bị hỏa lực đối phương bắn trúng.

Sự bố trí dàn pháo chính

Hiệu quả của các khẩu pháo phụ thuộc một phần vào cách sắp xếp các tháp pháo. Dreadnought và các thiết giáp hạm Anh chế tạo ngay sau nó mang 5 tháp pháo: 2 phía trước và 1 phía sau trên trục dọc con tàu, và 2 tháp pháo bên cánh cạnh cấu trúc thượng tầng. Điều này cho phép ba tháp pháo sẽ bắn hướng ra trước và bốn tháp pháo bắn qua mạn tàu. Các lớp dreadnought NassauHelgoland của Đức sử dụng một sơ đồ 'lục giác': 1 tháp pháo phía trước và phía sau cùng 4 tháp pháo bên cánh, có nghĩa là có nhiều pháo trang bị hơn, nhưng có cùng số pháo có thể bắn ra phía trước hay qua mạn tàu so với Dreadnought.

Những thiết kế khác của dreadnought thử nghiệm nhiều cách sắp xếp khác nhau. lớp Neptune của Anh xếp tầng các tháp pháo bên cánh, để cả 10 khẩu pháo có thể bắn qua mạn, một đặc tính cũng được lớp Kaiser của Đức áp dụng. Tuy nhiên, điều này có nguy cơ ảnh hưởng của phát súng nổ sẽ gây hư hại các bộ phận của con tàu nơi các khẩu pháo khai hỏa, và tạo áp lực nặng lên khung tàu.

Nếu tháp pháo đều được bố trí toàn bộ trên trục dọc con tàu, áp lực lên khung tàu sẽ tương đối thấp. Cách bố trí này cho phép có thể bắn toàn bộ dàn pháo chính qua mạn tàu, cho dù sẽ ít hơn khi bắn hai đầu. Nó cũng có nghĩa là lườn tàu phải dài hơn, tạo một số thách thức cho các nhà thiết kế; một con tàu dài hơn cần dành nhiều trọng lượng hơn cho vỏ giáp để được bảo vệ tương xứng, và các hầm đạn phục vụ cho mỗi tháp pháo ảnh hưởng đến việc phân bố các nồi hơi và động cơ. Vì những lý do đó, thiết giáp hạm HMS Agincourt (1913), mang một số lượng kỷ lục mười bốn khẩu 305 mm (12 inch) trên bảy tháp pháo bố trí dọc theo trục giữa, không được xem là một thành công.

Một giải pháp bố trí bắn thượng tầng cuối cùng được áp dụng như là tiêu chuẩn. Giải pháp này bao gồm việc nâng cao một hoặc hai tháp pháo để chúng có thể bắn ngay bên trên một tháp pháo khác ngay phía trước hay phía sau nó. Hải quân Mỹ áp dụng kiểu này ngay trên những dreadnought đầu tiên của họ vào năm 1906, nhưng những nước khác không vội vã làm theo. Giống như những cách bố trí khác, nó vẫn có những thiếu sót. Thoạt tiên, có mối lo ngại về ảnh hưởng của sự nổ của các khẩu súng bên trên đối với tháp pháo thấp hơn; và các tháp pháo được nâng cao cũng kéo trọng tâm của tàu lên cao, có thể làm giảm độ ổn định của con tàu. Dù sao, cách bố trí này tận dụng tốt nhất hỏa lực có được từ một số lượng pháo cố định, và sau này được áp dụng rộng rãi. lớp Tegetthoff của Áo-Hung, và lớp Nevada của Mỹ. Hải quân Hoàng gia không sử dụng tháp pháo ba nòng cho đến sau Thế Chiến I với lớp Nelson. Nhiều thiết kế sau đó còn sử dụng tháp pháo bốn nòng, bao gồm lớp King George V của Anh và lớp Richelieu của Pháp.

Sức mạnh và cỡ nòng của dàn pháo chính

nhỏ|phải|Hoạt động của dàn pháo chính trên thiết giáp hạm, dựa trên kiểu pháo [[Hải pháo BL 381 mm (15 inch)/42 caliber|381 mm (15 inch) của Anh trên chiếc siêu–dreadnought]] Thay vì cố gắng chất nhiều pháo trên một con tàu, có thể gia tăng sức mạnh cho mỗi khẩu pháo. Điều này có thể thực hiện bằng cách gia tăng cỡ nòng của vũ khí, và do đó là trọng lượng quả đạn pháo, hoặc bằng cách kéo dài nòng pháo để làm tăng lưu tốc đầu đạn. Cả hai cách trên đều giúp cho việc gia tăng tầm bắn và độ đâm xuyên vỏ giáp.

Cả hai phương pháp đều có những ưu và khuyết điểm, cho dù nói chung lưu tốc đầu đạn lớn hơn sẽ làm gia tăng sự bào mòn trong lòng nòng pháo. Khi nổ súng, sự cháy của thuốc phóng bên trong khiến nòng súng bị mòn, mất độ chính xác và cuối cùng đòi hỏi phải thay thế. Có lúc điều này là cả một vấn đề; Hải quân Mỹ từng nghiêm túc xem xét đến việc phải ngưng thực tập tác xạ trên các cỡ pháo hạng nặng vào năm 1910 do vấn đề hao mòn nòng pháo. Khuyết điểm của những khẩu pháo lớn hơn lại gấp đôi: trước tiên, cả pháo và tháp pháo đều nặng hơn nhiều, kế tiếp, quả đạn pháo nặng và chậm hơn đòi hỏi phải bắn ở một góc nâng cao hơn cho cùng một khoảng cách, ảnh hưởng đến thiết kế của tháp pháo. Tuy nhiên, ưu điểm lớn của việc gia tăng cỡ nòng là quả đạn pháo nặng hơn sẽ ít bị ảnh hưởng bởi lực cản của không khí, và giữ được sức mạnh đâm xuyên lớn hơn ở tầm xa.

Hải quân các nước tiếp cận vấn đề về cỡ nòng theo những cách khác nhau. Hải quân Đức thường sử dụng một cỡ nòng nhỏ hơn so với tàu chiến Anh Quốc tương đương, như là cỡ nòng 305 mm (12 inch) vào lúc mà tiêu chuẩn của Anh đã tăng lên 343 mm (13,5 inch). Tuy nhiên, do ngành luyện kim của Đức tiến triển hơn, pháo 305 mm (12 inch) của Đức vượt trội hơn pháo 305 mm (12 inch) của Anh trong khía cạnh trọng lượng đạn pháo và lưu tốc đầu đạn; và vì khẩu pháo của Đức nhẹ hơn khẩu 343 mm (13,5 inch) của Anh, tàu chiến Đức có thể dành ra nhiều trọng lượng hơn cho vỏ giáp.

Một bước đi khác trong việc thiết kế thiết giáp hạm với pháo lớn hơn nữa, và được đặt lườn vào lúc Thế Chiến I kết thúc, đó là Lớp Nagato của Nhật Bản vào năm 1917 mang cỡ pháo 406 mm (16 inch). Ngay sau đó là lớp Colorado của Hải quân Mỹ. Cả Anh Quốc lẫn Nhật Bản đều nhanh chóng vạch kế hoạch cho những thiết giáp hạm trang bị pháo 457 mm (18 inch), trong trường hợp của Anh là lớp N3 và Nhật là lớp Số 13. Tuy nhiên, Hiệp ước Hải quân Washington đã khiến cho những kế hoạch này cùng với các khẩu pháo khổng lồ không bao giờ thể hiện bên ngoài bàn vẽ. nhỏ|trái|Một khẩu hải pháo 355 mm (14 inch), như được trang bị cho lớp [[thiết giáp hạm hiệp ước King George V]] Hiệp ước Hải quân Washington giới hạn pháo trang bị cho thiết giáp hạm ở cỡ nòng 406 mm (16 inch). Các hiệp ước sau này tiếp tục duy trì giới hạn này, cho dù có những đề nghị nhằm giảm hơn nữa xuống còn 11, 12, hoặc 14 inch. Những thiết giáp hạm duy nhất phá vỡ giới hạn này là lớp Yamato của Nhật Bản, bắt đầu vào năm 1937 sau khi Hiệp ước hết hiệu lực. Chúng có dàn pháo chính với cỡ nòng 460 mm (18,1 inch). Trong khi Thế Chiến II trang diễn ra, Anh Quốc tận dụng các khẩu pháo 381 mm (15 inch) vốn được dự trữ để thay thế cho lớp Queen Elizabeth trang bị cho chiếc thiết giáp hạm cuối cùng của Anh Vanguard.

Trong Thế Chiến II còn có một số thiết kế đề xuất một bước tiến mới trang bị vũ khí khổng lồ. Các thiết kế H-43 và H-44 của Đức đề xuất pháo cỡ 508 mm (20 inch), và có chứng cứ cho thấy Hitler mong muốn có cỡ nòng lên đến 609 mm (24 inch); thiết kế lớp Siêu Yamato của Nhật Bản cũng trang bị pháo 508 mm. Không có đề xuất nào trong số này tiến xa hơn bước thiết kế sơ thảo.

Dàn pháo hạng hai

nhỏ|phải|Pháo chống tàu phóng lôi [[Hải pháo QF 12 pounder 18 cwt|QF 12 pounder bố trí trên nóc một tháp pháo của HMS Dreadnought]] Những chiếc dreadnought đầu tiên có dàn pháo hạng hai rất nhẹ, dùng để bảo vệ tàu trước các cuộc tấn công của tàu phóng lôi. Bản thân Dreadnought mang 22 khẩu pháo 12-pounder; mỗi khẩu có thể bắn ít nhất 15 phát mỗi phút nhắm vào mọi tàu phóng lôi mưu toan tấn công. Những chiếc South Carolina cùng các dreadnought ban đầu của Hoa Kỳ cũng được trang bị tương tự. Vào thời kỳ này, tàu phóng lôi thường tấn công độc lập với các hoạt động của hạm đội. Do đó, không cần bọc giáp cho dàn pháo hạng hai hay bảo vệ cho pháo thủ khỏi hiệu ứng sức nổ bởi dàn pháo hạng nặng của chính nó. Trong hoàn cảnh đó, các khẩu pháo hạng nhẹ có xu hướng được gắn trên các vị trí cao không bọc giáp của con tàu để giảm trọng lượng và có góc bắn tối đa.

Trong vòng vài năm, mối đe dọa chủ yếu là từ các tàu khu trục, vốn lớn hơn, vũ trang mạnh hơn và khó tiêu diệt hơn so với các tàu phóng lôi. Điều này dẫn tới nhu cầu xem xét việc một quả đạn pháo từ dàn pháo hạng hai của thiết giáp hạm có thể đánh chìm, chứ không chỉ là làm hư hại, một tàu khu trục tấn công. Ngoài ra, khác với tàu phóng lôi, tàu khu trục còn tấn công trong đội hình của một cuộc đối đầu hạm đội, nên dàn pháo hạng hai cũng cần được bảo vệ chống lại mảnh đạn pháo và sức nổ của dàn pháo chính hạng nặng. Triết lý về dàn pháo hạng hai này được Hải quân Đức áp dụng ngay từ đầu; như là lớp Nassau mang 12 khẩu 150 mm (5,9 inch) và mười sáu khẩu 88 mm (3,45 inch), và được tiếp nối bởi các lớp dreadnought sau đó. Pháo hạng hai tiêu chuẩn của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất là loại 127 mm (5 inch), nhưng sau chiến tranh pháo 152 mm (6 inch) được sử dụng cho những chiếc tàu mới.

Dàn pháo hạng hai còn được sử dụng cho nhiều mục đích khác. Người ta hy vọng là pháo cỡ trung có thể bắn trúng hệ thống kiểm soát hỏa lực nhạy cảm trên một dreadnought đối phương. Ngoài ra, người ta còn cảm thấy rằng pháo hạng hai có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh đuổi tàu tuần dương đối phương định tấn công một thiết giáp hạm bị hư hại.

Nhìn chung, hiệu quả của dàn pháo hạng hai trên dreadnought không làm người ta thỏa mãn. Một phát pháo hạng nhẹ dù bắn trúng cũng không thể chặn đứng một tàu khu trục; và cũng không hy vọng pháo hạng nặng bắn trúng một tàu khu trục, như kinh nghiệm trong trận Jutland cho thấy. Cách bố trí các khẩu pháo nặng hơn trên các ụ súng thân cũng tỏ ra có vấn đề; được bố trí quá thấp trên lườn tàu, nên chúng dễ bị tràn nước; và vì thế trên một số lớp tàu, chúng đã bị tháo bỏ. Cách duy nhất chắc chắn để bảo vệ một dreadnought khỏi bị tàu khu trục hay tàu phóng lôi tấn công là bố trí một hải đội tàu khu trục hộ tống nó. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, dàn pháo hạng hai có xu hướng được gắn trên những tháp pháo ở sàn trên và chung quanh cấu trúc thượng tầng. Điều này cho phép có góc bắn rộng và được bảo vệ tốt mà không có những nhược điểm của ụ súng thân. Dần dần trong những năm 1920 và 1930, các khẩu pháo hạng hai trở thành một phần chính của giàn hỏa lực phòng không, sử dụng các khẩu pháo có góc nâng cao và mục đích kép.

Vỏ giáp

Sơ đồ chiếc [[HMS Bellerophon (1907)|Bellerophon trình bày sự bảo vệ tiêu biểu của một chiếc dreadnought, với vỏ giáp rất dày bảo vệ tháp pháo, hầm đạn cùng động cơ và được vuốt thon trên những vùng không quan trọng; và các ngăn kín bên dưới mực nước đề phòng bị chìm]] Hầu hết trọng lượng rẽ nước của một chiếc dreadnought là do các tấm thép của lớp vỏ giáp tạo ra. Các nhà thiết kế dành nhiều thời gian và nỗ lực để cung cấp sự bảo vệ tốt nhất có thể cho con tàu của họ chống lại nhiều loại vũ khí khác nhau. Tuy nhiên, không thể dành quá nhiều tải trọng cho việc bảo vệ mà không tính đến tốc độ, hỏa lực hay khả năng đi biển.

Thành trì trung tâm

Phần lớn nhất của vỏ giáp trên một chiếc dreadnought tập trung chung quanh một "thành trì trung tâm". Đây là một cái hộp với bốn vách bọc thép và nóc cũng bọc thép chung quanh những bộ phận quan trọng nhất của con tàu. Mặt hông của thành trì này là đai giáp của con tàu, bắt đầu từ lườn tàu ngay trước tháp pháo phía trước và kéo dài cho đến phía sau tháp pháo phía sau. Hai đầu của thành trì này là hai vách ngăn bọc thép trước và sau, nối liền giữa hai đầu của đai giáp. Nóc của thành trì và một lớp sàn tàu bọc thép. Bên trong nó là các nồi hơi, động cơ và hầm đạn cho các tháp pháo chính. Một phát bắn trúng vào một trong số các bộ phận này có thể làm hỏng hoặc thậm chí phá hủy con tàu. Đáy của cái hộp này chính là đáy của lườn tàu và không được bọc thép.

Những chiếc dreadnought đầu tiên nhất được thiết kế để tham gia những trận chiến đối đầu các thiết giáp hạm khác ở khoảng cách cho đến 9 km (10.000 yard). Trong một cuộc đối đầu như vậy, các quả đạn pháo sẽ bay theo một đường đạn tương đối phẳng, và sẽ trúng ngay hay vào khoảng mực nước để gây hư hại những phần thiết yếu của con tàu. Vì lý do này, vỏ giáp của những chiếc dreadnought đầu tiên tập trung vào một đai dày chung quanh mực nước; và nó dày 280 mm (11 inch) trên chiếc Dreadnought. Các hầm chứa than cho con tàu được bố trí đằng sau đai giáp này để tăng cường hơn nữa sự bảo vệ các khoang động cơ. Trong một trận chiến kiểu này, có ít nguy cơ hư hại gián tiếp cho những bộ phận thiết yếu của con tàu. Một quả đạn pháo bắn trúng phía trên đai giáp và phát nổ sẽ tung mảnh đạn bay ra khắp mọi hướng. Những mảnh đạn này nguy hiểm, nhưng có thể được ngăn chặn bởi lớp vỏ giáp mỏng hơn nhiều so với lớp cần có để ngăn chặn một quả đạn xuyên thép chưa phát nổ. Để bảo vệ những phần bên trong của con tàu khỏi mảnh đạn của những đạn pháo phát nổ trên cấu trúc thượng tầng, một lớp vỏ thép mỏng hơn được ghép cho các sàn tàu. Sơ đồ bảo vệ "tất cả hoặc không có gì" là giải pháp thay thế được Hải quân Mỹ phát triển. Đai giáp sẽ cao và dày, nhưng không có sự bảo vệ bên hông nào được cung cấp cho hai đầu con tàu hoặc các sàn tàu bên trên. Lớp vỏ giáp sàn tàu cũng được làm dày hơn. Sơ đồ "tất cả hoặc không có gì" đem đến sự bảo vệ hiệu quả hơn cho những cuộc đối đầu ở tầm rất xa giữa các hạm đội chiến trận và được áp dụng rộng rãi bên ngoài Hải quân Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Trong quá trình phát triển của dreadnought, sơ đồ vỏ giáp cũng thay đổi phản ảnh mối nguy cơ lớn hơn của đạn pháo bắn đến từ tầm xa, và mối đe dọa gia tăng của bom xuyên thép ném từ máy bay. Trong các thiết kế sau này, lớp vỏ giáp thép cho sàn tàu có độ dày lớn hơn; Yamato mang đai giáp chính dày 406 mm (16 inch), nhưng vỏ giáp sàn tàu dày 228 mm (9 inch).

Việc bảo vệ dưới nước và sự phân ngăn

Yếu tố cuối cùng của sơ đồ bảo vệ những chiếc dreadnought thế hệ đầu tiên là những ngăn kín nước riêng biệt của lườn tàu bên dưới mực nước. Nếu lườn tàu bị thủng bởi bất cứ nguyên nhân nào, đạn pháo, thủy lôi, ngư lôi hay do va chạm; trên lý thuyết chỉ có một khu vực bị ngập nước và con tàu có thể sống sót. Để làm cho biện pháp phòng ngừa này thêm hiệu quả, nhiều chiếc dreadnought thậm chí không trang bị cửa thông giữa các ngăn khác nhau dưới mực nước, để ngay cả một lỗ thủng bất ngờ dưới nước cũng không thể làm đắm con tàu. Tuy nhiên, vẫn có một số tình huống mà việc ngập nước lan rộng giữa các ngăn dưới nước.

Tiến triển lớn nhất trong hệ thống bảo vệ dreadnought là việc phát triển các bầu và đai chống ngư lôi, cả hai đều nhằm bảo vệ chống lại sự hư hại dưới nước do thủy lôi và ngư lôi gây ra. Mục đích của việc bảo vệ dưới nước là hấp thu xung lực của một quả thủy lôi hay một quả ngư lôi kích nổ, không cho chúng tác động tới lớp trong cùng của lườn tàu kín nước. Đó là một vách ngăn bên trong dọc theo hông của lườn tàu, nói chung được bọc giáp nhẹ để ngăn chặn mảnh đạn, cách biệt với lớp vỏ ngoài bởi một hay nhiều ngăn. Những ngăn ở giữa có thể để trống hoặc được đổ đầy than, nước hay dầu đốt.

Động lực

nhỏ|phải|Thiết giáp hạm Pháp [[Paris (thiết giáp hạm Pháp)|Paris đang chạy thử hết tốc độ]] Dreadnought được vận hành nhờ từ hai đến bốn chân vịt cánh quạt. Bản thân Dreadnought cùng các thiết giáp hạm dreadnought của Anh có các trục chân vịt được dẫn động bằng động cơ turbine hơi nước. Tuy nhiên, thế hệ dreadnought đầu tiên mà các nước khác chế tạo vẫn sử dụng kiểu động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc chậm hơn, vốn là tiêu chuẩn cho các thiết giáp hạm tiền-dreadnought.

Với cùng một thể tích máy móc, động cơ turbine cung cấp nhiều sức mạnh hơn động cơ chuyển động qua lại. Điều này, cộng với sự đảm bảo của nhà phát minh động cơ mới là Charles Parsons, đã thuyết phục được Hải quân Anh sử dụng turbine trên Dreadnought. Tuy nhiên, vào thời điểm 1905, những thiết kế mới của động cơ chuyển động qua lại sẵn có đã sạch hơn và tin cậy hơn so với các kiểu trước đó. Đây chính là lý do đưa đến quyết định của Mỹ từ bỏ động cơ turbine sau khi đã trang bị chúng cho chiếc North Dakota (đặt hàng năm 1907, hạ thủy năm 1908); mãi cho đến chiếc Nevada (đặt hàng năm 1911, hạ thủy năm 1914) thì động cơ turbine mới sống lại trên những chiếc dreadnought của Mỹ.

Bất lợi của kiểu động cơ turbine cuối cùng cũng được khắc phục bằng cách áp dụng rộng rãi turbine hộp số, khi hộp số được dùng làm giảm tốc độ xoay của chân vịt và do đó làm tăng hiệu quả. Tuy nhiên, giải pháp này đòi hỏi độ chính xác kỹ thuật của hộp số, và vì vậy khó áp dụng.

Một giải pháp thay thế là động cơ turbo-điện khi các turbin hơi nước dẫn động máy phát điện, và điện năng được dùng để quay các chân vịt. Giải pháp này được Hải quân Mỹ đặc biệt ưa chuộng, khi áp dụng cho mọi dreadnought từ cuối năm 1915 đến năm 1922. Ưu điểm của phương pháp này là chi phí thấp, khả năng phân bố các ngăn thật sát nhau dưới mực nước, và cơ động chạy lui tốt. Những khuyết điểm bao gồm máy móc nặng nề và mong manh trước những hư hại trong chiến đấu. Đặc biệt là ảnh hưởng của ngập nước đối với hệ thống điện.

Động cơ turbine không bao giờ được thay thế trên thiết kế của thiết giáp hạm. Động cơ diesel từng được hải quân nhiều nước xem xét, vì chúng có tầm hoạt động xa và kích thước động cơ chiếm ít hơn chiều dài của con tàu. Tuy nhiên, chúng cũng nặng hơn, chiếm chỗ nhiều bề rộng hơn, công suất yếu hơn, và được xem là ít tin cậy.

Nhiên liệu

Thế hệ dreadnought đầu tiên sử dụng than để đốt các nồi hơi cung cấp hơi nước cho các turbine. Than đã bắt đầu được sử dụng ngay từ những tàu chiến hơi nước đầu tiên, nhưng có nhiều bất lợi. Chất than lên hầm chứa trên tàu, rồi để nạp chúng vào lò đốt là một công việc tốn sức lực. Các nồi hơi dễ bị nghẹt vì muội than. Than tạo ra lớp khói đen kịt bộc lộ vị trí của hạm đội. Hơn nữa, than rất cồng kềnh và có hiệu suất nhiệt tương đối thấp. Dù sao, than có tính trơ khá và có thể được sử dụng như một phần trong sơ đồ bảo vệ con tàu.

Động cơ đốt dầu mang lại những lợi ích mà cả các nhà thiết kế hải quân lẫn sĩ quan hạm đội đều ưa chuộng. Nó tạo ra ít khói, khiến con tàu ít bị phát hiện. Nó có thể nạp tự động vào lò đốt, không cần đến một đội ngũ các thợ đốt lò để nạp than thủ công. Dầu đốt có nhiệt dung khoảng gấp đôi than. Điều này có nghĩa là bản thân nồi hơi có thể nhỏ hơn; và với cùng một thể tích nhiên liệu, một con tàu đốt dầu có tầm hoạt động xa hơn nhiều. Cũng có những vấn đề kỹ thuật liên quan đến việc đốt dầu, do sự phân bố khác nhau trọng lượng của dầu đốt so với than, Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất của việc sử dụng dầu đốt cho hạm đội chiến trận chính là mọi cường quốc hải quân, ngoại trừ Hoa Kỳ, đều phải nhập khẩu dầu. Việc này khiến cho nhiều nước áp dụng 'lò đốt kép' sử dụng than phun dầu; tàu chiến Anh đã được trang bị như vậy, kể cả thiết giáp hạm, có thể sử dụng một mình dầu cho đến 60% công suất.

Hoa Kỳ là nước sản xuất dầu chính yếu, và họ là nước đầu tiên toàn tâm toàn ý sử dụng dầu đốt. Năm 1910, Hải quân Mỹ đã quyết định đặt hàng chế tạo nồi hơi đốt dầu cho thiết giáp hạm lớp Nevada vào năm 1911. Anh Quốc không bị tụt hậu lâu, đã quyết định vào năm 1912 sử dụng dầu đốt cho lớp Queen Elizabeth của mình; Tất cả các cường quốc hải quân khác đều giữ lại lò đốt hỗn hợp than và dầu cho đến khi kết thúc Thế Chiến I.

Việc chế tạo dreadnought

Phát triển dreadnought trở thành một động thái chạy đua vũ trang thiết giáp hạm toàn cầu vốn đã bắt đầu từ những năm 1890. Hải quân Hoàng gia Anh đang có được ưu thế đáng kể về số lượng thiết giáp hạm tiền-dreadnought, nhưng chỉ dẫn trước một dreadnought duy nhất. Tình hình này, cùng với việc hạ thủy chiếc HMS Dreadnought, làm nảy sinh các ý kiến phê phán rằng Anh Quốc đã ném bỏ đi một lợi thế chiến lược. Cùng lúc đó, đa số các đối thủ hải quân của Anh đang dự định, hay thậm chí đang chế tạo, tàu chiến có cỡ pháo lớn đồng nhất. Cả hải quân Nhật lẫn Hoa Kỳ đã đặt hàng những chiếc "toàn súng lớn" vào năm 1904–1905, với các lớp Satsuma (Nhật Bản) và South Carolina (Hoa Kỳ). Ngay từ những năm 1890, Hoàng đế Đức Wilhelm II từng chủ trương một tàu chiến nhanh chỉ trang bị pháo hạng nặng. Bằng cách đi trước trong việc chế tạo dreadnought, Anh Quốc muốn đảm bảo trên mặt biển của họ tiếp tục được duy trì.

Cuộc đua thiết giáp hạm lại nhanh chóng tăng tốc một lần nữa, đặt một gánh nặng khổng lồ về tài chính lên các chính phủ liên quan. Những chiếc dreadnought đầu tiên không quá đắt hơn so với những chiếc tiền-dreadnought cuối cùng, nhưng chi phí cho mỗi con tàu tiếp tục gia tăng sau đó. Cho dù chi phí chế tạo cao, song các thiết giáp hạm hiện đại là một thành phần cốt yếu của sức mạnh hải quân. Mỗi thiết giáp hạm là một dấu hiệu của sức mạnh và uy tín của quốc gia, theo một cách tương tự như vũ khí hạt nhân ngày nay. Đức, Pháp, Nga, Ý, Nhật Bản và Áo, tất cả đều bắt đầu những chương trình chế tạo dreadnought, còn những thế lực hải quân hạng hai bao gồm Đế quốc Ottoman, Argentina, Brasil và Chile đưa vào hoạt động những dreadnought được chế tạo bởi các xưởng đóng tàu Anh và Mỹ.

Cuộc chạy đua vũ trang Anh–Đức

nhỏ|phải|[[George V của Anh|Vua George V (bên trái) cùng Đô đốc Callaghan thị sát chiếc thiết giáp hạm HMS Neptune]] Việc chế tạo chiếc Dreadnought lại trùng hợp với sự gia tăng căng thẳng trong mối quan hệ giữa Anh Quốc và Đức. Đức bắt đầu chế tạo một hạm đội chiến trận lớn vào những năm 1890. Đây là một phần của chính sách có chủ tâm thách thức ưu thế thống trị hải quân của Anh. Cùng với việc ký kết Thỏa thuận Thân thiện giữa Anh và Pháp vào tháng 4 năm 1904, điều ngày càng trở nên rõ ràng là đối thủ hải quân chủ yếu của Anh sẽ là Đức, vốn đang xây dựng một hạm đội lớn hiện đại theo các đạo luật của Tirpitz. Sự cạnh tranh này đã thúc đẩy hình thành nên hai hạm đội dreadnought lớn nhất thế giới vào giai đoạn trước chiến tranh.

Phản ứng đầu tiên của Đức đối với Dreadnought là lớp Nassau, đặt lườn vào năm 1907. Tiếp theo là lớp Helgoland vào năm 1909. Cùng với hai chiếc tàu chiến-tuần dương, một kiểu tàu chiến mà Đức ít ngưỡng mộ hơn so với Fisher, nhưng lại được phép chế tạo vì được xem như một tàu tuần dương bọc thép thay vì một tàu chiến chủ lực; chúng cho phép Đức có tổng cộng mười tàu chiến chủ lực đã hoặc đang chế tạo cho đến năm 1909. Mặc dù các tàu chiến Anh hơi nhanh và mạnh hơn so với đối thủ Đức, nhưng một tỉ lệ lợi thế chỉ có 12:10 quả là đáng thất vọng vì thấp hơn nhiều so với tỉ lệ 2:1 mà Hải quân Hoàng gia muốn duy trì.

Vào năm 1909, Quốc hội Anh chấp thuận chế tạo bốn tàu chiến chủ lực bổ sung, giữ hy vọng là Đức sẽ sẵn lòng thương lượng một hiệp ước giới hạn số lượng thiết giáp hạm. Nếu không tìm được giải pháp như vậy, sẽ có thêm bốn chiếc nữa được đặt lườn vào năm 1910. Ngay cả một giải pháp thỏa hiệp như vậy, nhưng đặt trong bối cảnh những cải cách xã hội đang diễn ra, dẫn tới một sự tăng thuế nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách do việc đóng tàu đã đủ để kích động một cuộc khủng hoảng hiến pháp cho Anh Quốc trong các năm 19091910. Vào năm 1910, kế hoạch đóng tám tàu của Anh được xúc tiến, bao gồm bốn chiếc thuộc lớp Orion, và được bổ sung bởi các tàu chiến-tuần dương được Australia và New Zealand đặt mua. Cùng khoảng thời gian đó, Đức chỉ đặt lườn ba chiếc, khiến Anh Quốc có một ưu thế 22:13. Quyết tâm của Anh thể hiện qua chương trình chế tạo đã khiến Đức phải tìm kiếm một sự kết thúc cho cuộc chạy đua vũ trang bằng con đường thương lượng. Dù mục tiêu mới của Bộ Hải quân Anh nhằm đạt 60% ưu thế đối với Đức cũng khá suýt soát với mục đích của Tirpitz cắt giảm ưu thế của Anh còn 50%, nhưng các cuộc đàm phán lại bị sa lầy trong câu hỏi liệu phạm vi của hiệp ước có bao gồm các tàu chiến-tuần dương của Khối Thịnh Vượng Chung hay không, cũng như là những vấn đề không liên quan đến hải quân, như việc Đức đòi hỏi phải xác nhận chủ quyền của họ trên vùng Alsace-Lorraine.

Cuộc chạy đua vũ trang dreadnought gia tăng trở lại trong năm 1910 và 1911, khi Đức đặt lườn bốn tàu chiến chủ lực mỗi năm trong khi phía Anh là năm chiếc. Căng thẳng lên đến tột điểm vào lúc thông qua Đạo luật Hải quân của Đức vào năm 1912. Luật này nêu rõ việc xây dựng một hạm đội Đế quốc Đức bao gồm 33 thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương, vượt trội hơn Hải quân Hoàng gia tại vùng biển nhà. Tình hình thêm tệ hại cho người Anh, khi Hải quân Đế quốc Áo-Hung bắt đầu chế tạo bốn thiết giáp hạm, còn Ý đã có bốn và đang chế tạo thêm hai. Những nguy cơ này khiến Hải quân Hoàng gia không thể tiếp tục đảm bảo hoàn toàn cho những lợi ích sống còn của Đế quốc Anh. Anh Quốc đối mặt với sự lựa chọn hoặc phải chế tạo thêm nhiều thiết giáp hạm, hoặc rút lui khỏi Địa Trung Hải, hoặc đi tìm một liên minh quân sự với Pháp. Đóng thêm tàu là một sự tốn kém không thể chấp nhận được vào thời điểm mà ngân sách dành cho phúc lợi xã hội đang được đòi hỏi. Rút lui khỏi Địa Trung Hải có nghĩa là một mất mát lớn về ảnh hưởng, làm yếu đi chính sách ngoại giao của Anh tại khu vực này và làm lung lay sự ổn định của Đế chế Anh. Lựa chọn duy nhất khả thi, cũng là giải pháp mà Bộ trưởng Hải quân Winston Churchill đề nghị, là phá vỡ truyền thống về chính sách của quá khứ để có một sự dàn xếp về quân sự với Pháp. Theo đó, Pháp sẽ đảm nhận trách nhiệm ngăn chặn Ý và Áo-Hung tại Địa Trung Hải, đổi lấy việc Anh Quốc sẽ đảm bảo an ninh cho bờ biển phía Bắc của Pháp. Cho dù có một số phản đối của các chính trị gia Anh, Hải quân Hoàng gia bắt đầu tổ chức lại trên cơ sở này vào năm 1912.

Mặc dù đã gây ra những hệ quả chiến lược quan trọng, Đạo luật Hải quân 1912 chỉ có ít ảnh hưởng lên tương quan giữa các lực lượng thiết giáp hạm. Anh Quốc đã đáp trả bằng cách đặt lườn thêm mười chiếc siêu-dreadnought mới trong các tài khóa 1912 và 1913, những chiếc thuộc lớp Queen ElizabethRevenge với những cải tiến lớn về vũ khí, tốc độ và sự bảo vệ; trong khi Đức chỉ đặt lườn năm chiếc do phải tập trung các nguồn lực cho lục quân.

Hoa Kỳ

nhỏ|phải|[[USS New York (BB-34)|USS New York (BB-34) đang chạy hết tốc độ vào năm 1915]] Lớp South Carolina của Hoa Kỳ là những tàu chiến "toàn súng lớn" đầu tiên được hoàn tất bởi một trong những đối thủ của Anh Quốc. Kế hoạch cho kiểu thiết giáp hạm mới này đã được bắt đầu trước khi Dreadnought được hạ thủy. Trong khi có những suy đoán là thiết kế của Hải quân Mỹ bị ảnh hưởng bởi những mối quan hệ không chính thức với các sĩ quan Hải quân Hoàng gia đồng tình, các tàu chiến Mỹ lại rất khác biệt.

Quốc hội Hoa Kỳ cho phép Hải quân đóng hai thiết giáp hạm mới, nhưng chỉ với tải trọng 16.000 tấn hay nhỏ hơn. Kết quả là lớp South Carolina được chế tạo với những tính năng nhỏ hơn nhiều so với Dreadnought. Để sử dụng tốt nhất trọng lượng dành cho vũ khí, tất cả tám khẩu pháo 305 mm (12 inch) đều được bố trí dọc theo trục giữa, trên các vị trí bắn thượng tầng trước và sau. Cách sắp xếp này cho phép một số lượng pháo bắn qua mạn tàu tương đương với Dreadnought cho dù có tổng số pháo trang bị ít hơn; và đây là giải pháp bố trí vũ khí hiệu quả nhất, là điềm báo trước cho cấu hình tiêu chuẩn trên các thế hệ thiết giáp hạm tương lai. Tiết kiệm chính về tải trọng so với Dreadnought là ở hệ thống động lực; South Carolina giữ lại kiểu động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc, nên chỉ đạt được tốc độ tối đa 34 km/h (18,5 knot) so với 41,6 km/h (22,5 knot) của Dreadnought. Chính vì lý do này mà một số tác giả đã mô tả lớp Delaware sau này mới là những thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thực sự của Hoa Kỳ. Chỉ vài năm sau khi được đưa vào hoạt động, lớp South Carolina đã không thể hoạt động trong đội hình chiến thuật chung với các dreadnought mới hơn do tốc độ chậm của chúng, và bị buộc phải hoạt động chung với các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ hơn.

Hai chiếc thuộc lớp Delaware là những thiết giáp hạm Mỹ đầu tiên bắt kịp về tốc độ so với các dreadnought Anh Quốc. Quyết định áp dụng kiểu tàu tải trọng 20.500 tấn trang bị 10 pháo thay vì 24.000 tấn và 12 pháo cho lớp tàu này bị phê phán, vì dàn pháo hạng hai bị ướt khi đi biển và mũi tàu thấp so với mực nước. Thiết kế 12 pháo thay thế cũng có nhiều bất lợi; hai khẩu pháo bổ sung và ụ pháo thấp có những "chi phí ngầm", hai tháp pháo cánh được dự tính trang bị sẽ làm yếu đi sàn tàu bên trên, hầu như không thể được bảo vệ thỏa đáng chống lại các cuộc tấn công dưới nước, và buộc phải bố trí các hầm đạn quá gần hông lườn tàu.

Hải quân Mỹ tiếp tục phát triển hạm đội chiến trận của họ, đặt lườn thêm hai chiếc mỗi năm trong hầu hết những năm tiếp theo cho đến năm 1920. Mỹ tiếp tục sử dụng động cơ chuyển động qua lại thay vì động cơ turbine cho đến lớp Nevada, đặt lườn vào năm 1912. Điều này một phần phản ảnh sự tiếp cận thận trọng trong chương trình chế tạo thiết giáp hạm, và một phần do sự lựa chọn ưu thế tầm xa hoạt động hơn là ưu thế tốc độ tối đa.

Nhật Bản

nhỏ|Thiết giáp hạm Nhật Bản [[Settsu (thiết giáp hạm Nhật)|Settsu]] Sau chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Nga–Nhật năm 1904–1905, người Nhật bắt đầu quan tâm đến khả năng xảy ra một cuộc xung đột với Hoa Kỳ. Nhà lý luận Sato Tetsutaro đã phát triển một đường lối cho rằng Nhật Bản phải có một hạm đội chiến trận với kích cỡ ít nhất bằng 70% so với của Hoa Kỳ. Có như vậy, Nhật Bản mới có thể chiến thắng trong hai trận chiến quyết định, trận thứ nhất vào đầu cuộc chiến chống lại Hạm đội Thái Bình Dương, và trận thứ hai chống lại Hạm đội Đại Tây Dương vốn sẽ không tránh khỏi được gửi đến tăng cường.

Ưu tiên ban đầu của Nhật Bản là tái trang bị những chiếc tiền-dreadnought mà họ đã chiếm được của Nga và hoàn tất SatsumaAki. Lớp Satsuma thậm chí còn được thiết kế trước Dreadnought, nhưng sự thiếu hụt tài chính do ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh Nga–Nhật đã trì hoãn việc hoàn tất cũng như khiến nó phải mang một dàn pháo chính hỗn hợp, nên nó được gọi là một "bán-dreadnought". Chúng được tiếp nối bởi một kiểu Aki được cải tiến: những chiếc KawachiSettsu. Hai chiếc này được đặt lườn vào năm 1909 và hoàn tất vào năm 1912, được trang bị mười hai pháo 305 mm (12 inch), nhưng chúng lại là hai kiểu pháo khác nhau với hai chiều dài nòng pháo riêng biệt, khiến cho chúng gặp khó khăn trong việc kiểm soát hỏa lực ở tầm xa.

Các nước khác

nhỏ|Thiết giáp hạm Pháp [[Provence (thiết giáp hạm Pháp)|Provence, một chiếc thuộc lớp Bretagne]] So với các cường quốc hải quân khác, Pháp chậm trễ trong việc bắt đầu chế tạo dreadnought, thay vì vậy họ đã tập trung vào việc hoàn tất lớp tiền-dreadnought Danton theo kế hoạch, đặt lườn năm chiếc trong các năm 1907–1908. Mãi đến tháng 9 năm 1910, chiếc đầu tiên của lớp Courbet mới được đặt lườn, đưa Pháp trở thành quốc gia thứ mười một tham gia cuộc chạy đua dreadnought. Trong tài liệu "Navy Estimates năm 1911", Paul Bénazet quả quyết rằng trong giai đoạn từ năm 1896 đến năm 1911, Pháp đã bị tụt dốc từ vị trí hải quân lớn thứ hai toàn thế giới xuống vị trí thứ tư; ông quy kết điều này cho những vấn đề trong quy trình bảo trì thường quy và sự sao lãng. Tuy nhiên, nhờ liên minh thân thiện hơn với Anh Quốc được mô tả bên trên, Hải quân Pháp vẫn có số lượng đảm bảo.

Vào tháng 1 năm 1909, các Đô đốc Áo-Hung phát hành một tài liệu kêu gọi xây dựng một hạm đội bao gồm bốn chiếc dreadnought. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng hiến pháp vào năm 1909–1910 khiến mọi việc chế tạo đều không thể thực hiện. Dù vậy, có suy đoán rằng hai chiếc dreadnought đã được đặt lườn, và sau đó thêm hai chiếc nữa được chấp thuận. Tiếp sau những chiếc thuộc lớp Tegetthoff này là bốn chiếc nữa, nhưng chúng bị hủy bỏ khi Thế Chiến I nổ ra.

Vào tháng 6 năm 1909, Hải quân Đế quốc Nga bắt đầu chế tạo bốn chiếc dreadnought lớp Gangut cho Hạm đội Baltic, rồi đến tháng 11 năm 1911 thêm ba chiếc thuộc lớp Imperatritsa Mariya được đặt lườn cho Hạm đội Biển Đen. Trong tổng số bảy chiếc, chỉ có một chiếc hoàn tất trong vòng bốn năm kể từ khi đặt lườn, còn những chiếc Gangut đã "lạc hậu và bị qua mặt" khi đưa vào hoạt động. Những bài học trong trận Tsushima và ảnh hưởng của Cuniberti khiến chúng khá gần gũi với phiên bản chậm của những tàu chiến-tuần dương của Fisher hơn là với Dreadnought, và chúng tỏ ra rất kém cỏi do cỡ pháo nhỏ và lớp giáp mỏng so với các dreadnought đương thời.

Tây Ban Nha đưa vào hoạt động ba chiếc thuộc lớp España, chiếc đầu tiên được đặt lườn vào năm 1909. Ba chiếc này là những dreadnought nhỏ nhất từng được chế tạo. Dù được đóng ngay tại Tây Ban Nha, nhưung việc chế tạo phải dựa vào sự giúp đỡ của Anh; ví dụ như việc chế tạo chiếc thứ ba trong lớp Jaime I phải mất chín năm từ lúc đặt lườn cho đến lúc hoàn thành, do không nhận được những vật liệu chiến lược cần thiết từ Anh, đặc biệt là vũ khí. nhỏ|trái|Thiết giáp hạm Brazil [[Minas Geraes (thiết giáp hạm Brazil)|Minas Geraes ngoài biển vào đầu năm 1910, không lâu sau khi được đưa vào hoạt động]] Brasil là nước thứ ba bắt đầu chế tạo dreadnought. Kế hoạch mới đưa ra một dreadnought trang bị một dàn pháo chính mạnh chưa từng có trên mọi thiết giáp hạm vào thời đó, với mười hai khẩu pháo 305 mm (12 inch)/45 caliber. Minas Geraes được đặt lườn bởi hãng Armstrong tại Elswick vào ngày 17 tháng 4 năm 1907, và chiếc chị em với nó São Paulo được tiếp nối chỉ mười ba ngày sau đó bởi hãng Vickers tại Barrow. Cho dù nhiều tạp chí hải quân tại châu Âu và Hoa Kỳ suy đoán những con tàu này chỉ là sự ủy nhiệm của một trong các cường quốc hải quân, và sẽ được trao lại cho họ một khi được hoàn tất, song cả hai đã được đưa vào hoạt động trong Hải quân Brasil vào năm 1910. Những chiếc dreadnought của Brasil đã phát động một cuộc chạy đua vũ trang quy mô nhỏ tại Nam Mỹ, khi Argentina đặt hàng hai chiếc từ Mỹ, còn Argentina hai chiếc từ Anh. ARA Rivadavia và ARA Moreno của Argentina có dàn pháo chính tương đương với những đối thủ Brasil. Tuy nhiên, cả hai chiếc của Chile đều bị Anh mua lại vào lúc nổ ra Thế Chiến I, cho dù sau cùng có một chiếc, Almirante Latorre, được trao trả lại cho Chính phủ Chile.

Hà Lan lên kế hoạch thay thế hạm đội tiền-dreadnought phòng thủ duyên hải của họ bằng một hạm đội hiện đại với ít nhất năm chiếc dreadnoughtvào năm 1912. Song, những thay đổi lặt vặt thường xuyên trong thiết kế cùng với những quyết định chính trị chậm trễ đã khiến cho không có con tàu nào được đặt hàng, và khi mà Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ vào mùa Hè năm 1914, thì kế hoạch hạm đội nhiều tham vọng của Hà Lan chấm dứt.

Thổ Nhĩ Kỳ đặt hàng các xưởng đóng tàu Anh chế tạo cho mình hai chiếc dreadnought, nhưng bị Anh trưng dụng khi Thế Chiến I nổ ra, nhằm tăng cường cho Hải quân Hoàng gia và ngăn không cho chúng rơi vào tay đối phương. Những chiếc ReshadiyeSultan Osman I bị đổi tên thành HMS ErinAgincourt. Trong khi đó, Đức lại tặng cho Thổ Nhĩ Kỳ hai tàu chiến: tàu chiến-tuần dương Goeben và tàu tuần dương Breslau. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần vào quyết định của Đế quốc Ottoman tham chiến ở phe Liên minh Trung tâm.

Hy Lạp đặt hàng Đức chế tạo cho mình một chiếc dreadnought, nhưng công việc bị ngưng lại khi chiến tranh nổ ra. Dàn pháo chính cho con tàu Hy Lạp được đặt hàng tại Hoa Kỳ, và các khẩu pháo này sau đó được trang bị cho một lớp monitor của Anh. Thay vào đó, năm 1914, Hy Lạp mua lại hai chiếc tiền-dreadnought cũ của Hải quân Mỹ, đặt lại tên là KilkisLimnos khi phục vụ trong Hải quân Hoàng gia Hy Lạp.

Siêu-dreadnought

nhỏ|Những chiếc trong [[Orion (lớp thiết giáp hạm)|lớp Orion đang di chuyển theo đội hình hàng dọc]] Trong vòng năm năm sau khi chiếc Dreadnought được đưa vào hoạt động, một thế hệ mới của những chiếc "siêu-dreadnought" mạ

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**HMS _Dreadnought**_ là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc vốn đã làm cuộc cách mạng về sức mạnh hải quân. Việc đưa nó vào hoạt động năm 1906 đánh dấu
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
nhỏ|354x354px|Thiết giáp hạm _[[Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)|Vittorio Veneto_ và _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý trong một buổi tập trận ở Địa Trung Hải, năm 1940.]] Bắt đầu từ những năm 1890,
**SMS _Rheinland**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Rheinland_ được trang bị dàn pháo chính bao gồm mười hai
nhỏ|phải|Sơ đồ cắt ngang một chiếc tàu tuần dương bọc thép tiêu biểu trình bày sơ đồ bảo vệ. Những đường đỏ là các lớp sàn tàu bọc thép phía trên và phía giữa cùng
**Lớp thiết giáp hạm _Nassau**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức; là sự đáp trả của Đức đối với việc Hải quân Hoàng gia
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**SMS _Posen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được đặt lườn tại xưởng tàu Germaniawerft ở Kiel
**SMS _Westfalen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Westfalen_ được đặt lườn tại xưởng tàu AG Weser ở Bremen
**SMS _Hannover**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, chiếc thứ hai trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ
**SMS _Nassau**_ là chiếc thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức, một hành động đáp trả lại việc hạ thủy thiết giáp hạm HMS _Dreadnought_ của Hải
**SMS _Oldenburg**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
**SMS _Thüringen**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**SMS _Deutschland**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, chiếc đầu tiên trong số năm chiếc thuộc lớp _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
**SMS _Goeben**_ là chiếc thứ hai thuộc lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được hạ thủy vào năm 1911 và được đặt tên theo August Karl von Goeben, vị
**SMS _Schleswig-Holstein**_ là một thiết giáp hạm của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
**SMS _Schlesien**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903
**SMS _Hessen**_ là chiếc thứ ba trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Ostfriesland**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ hai trong lớp _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc. _Ostfriesland_ được đặt
**HMS _Orion**_ là một thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được hạ thủy vào năm 1910, nó là chiếc dẫn
Mô hình tàu chiến Đại Hiệu của thủy quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút]] **Tàu chiến** là danh xưng thường dùng trong tiếng Việt theo nghĩa rộng để chỉ các loại
**SMS _Kaiser**_ (hoàng đế) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiser_ được đóng
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**Lớp thiết giáp hạm _Deutschland**_ là một nhóm bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đức. Lớp bao gồm các chiếc SMS _Deutschland_, SMS _Hannover_, SMS _Pommern_, SMS _Schlesien_
**SMS _Helgoland**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Thiết kế
**Lớp thiết giáp hạm _Colossus**_ bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm _Colossus_ và _Hercules_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nằm trong số những thiết giáp hạm thế hệ dreadnought đầu tiên tiếp
**Lớp thiết giáp hạm _Bellerophon**_ là một lớp bao gồm ba thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã phục vụ
**SMS _Pommern**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903
**SMS _Preussen**_ là chiếc thứ tư trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**Lớp thiết giáp hạm _Orion**_ bao gồm bốn thiết giáp hạm siêu-dreadnought — những con tàu đầu tiên kiểu này — của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Chiếc dẫn đầu, _Orion_, được hạ thủy
**HMS _Conqueror**_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp _Orion_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến
**HMS _Thunderer**_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp _Orion_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến
**HMS _Monarch**_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp _Orion_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến
**HMS _Collingwood**_ là một thiết giáp hạm dreadnought thuộc lớp _St Vincent_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Thiết kế của nó hầu như tương tự so với những chiếc thuộc lớp _Bellerophon_ dẫn
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
**HMS _Superb**_ là một thiết giáp hạm dreadnought thuộc lớp _Bellerophon_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc Được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Armstrong Whitworth ở Elswick với chi phí 1.744.287 Bảng
thumb|[[Tàu sân bay trở thành các tàu chiến chủ lực chính của hầu hết các lực lượng hải quân nước xanh dương thời hiện đại. Trong ảnh là tàu sân bay chạy bằng năng lượng
**USS _Arizona_ (BB-39)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Pennsylvania_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào giữa những năm 1910. Được đặt tên nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 48 của
**Hải chiến Tsushima** hay **Hải chiến Đối Mã** (tiếng Nhật: 日本海海戦, _Nihonkai-Kaisen_; âm Hán-Việt Nhật Bản hải hải chiến; tiếng Nga: Цусимское сражение, _Stusimkoye Srazhenie_) là một trận chiến trên biển trong Chiến tranh Nga-Nhật
**Trận Jutland** là trận hải chiến lớn nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất diễn ra giữa Hạm đội công hải của Đức và Đại hạm đội của Anh từ ngày 31 tháng 5
**_Mikasa_** (tiếng Nhật: 三笠; Hán-Việt: Tam Lạp) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo tại Anh Quốc vào đầu thế kỷ 20. Nó đã
**Lớp thiết giáp hạm _Helgoland**_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: _Helgoland_, _Ostfriesland_,