✨SMS Kaiserin

SMS Kaiserin

SMS _Kaiserin_ (Nữ hoàng) là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm Kaiser của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Kaiserin được đặt lườn vào ngày 26 tháng 1 năm 1910 tại xưởng tàu của hãng Howaldtswerke ở Kiel, được hạ thủy vào tháng 11 năm 1911 và được đưa ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày 15 tháng 5 năm 1913. Con tàu được trang bị mười khẩu pháo được bố trí trên năm tháp pháo nòng đôi, và đạt được tốc độ tối đa . Kaiserin được phân về Hải đội Chiến trận 3, và sau đó là Hải đội Chiến trận 4, của Hạm đội Biển khơi Đức trong hầu hết thời gian của Thế Chiến I

Cùng với các tàu chị em cùng lớp Kaiser, Friedrich der Grosse, König AlbertPrinzregent Luitpold, Kaiserin đã tham gia hầu hết các hoạt động hạm đội chủ yếu trong Thế Chiến I tại biển Bắc, bao gồm trận Jutland vào ngày 31 tháng 5 - 1 tháng 6 năm 1916. Nó cũng hiện diện trong Chiến dịch Albion, cuộc tấn công đổ bộ chiếm các cứ điểm do Nga chiếm giữ tại vịnh Riga trong biển Baltic vào tháng 9 và tháng 10 năm 1917, và trong Trận Heligoland Bight thứ hai vào tháng 11 năm 1917.

Sau khi Đức thua trận trong chiến tranh buộc phải ký Thỏa thuận Ngừng bắn vào tháng 11 năm 1918, Kaiserin cùng với hầu hết Hạm đội Biển khơi bị lưu giữ tại căn cứ Hải quân Anh ở Scapa Flow. Các con tàu bị giải giới, thủy thủ đoàn được rút gọn ở vai trò bảo trì trong khi quá trình thương lượng hòa bình diễn ra để đưa đến Hòa ước Versailles. Vào ngày 21 tháng 6 năm 1919, tư lệnh của hạm đội bị cầm giữ, Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter, ra lệnh đánh đắm hạm đội nhằm đảm bảo người Anh không thể chiếm các con tàu. Xác tàu đắm của Kaiserin cuối cùng được cho nổi lên vào tháng 5 năm 1936 và được tháo dỡ sau đó.

Thiết kế và chế tạo

nhỏ|trái|Sơ đồ mô tả lớp Kaiser, vùng màu xám là khu vực của con tàu được bảo vệ bằng vỏ giáp|alt=A large warship with five gun turrets, two tall masts, two funnels, and heavy armor protection. Được đặt hàng dưới cái tên trong hợp đồng Ersatz Hagen như là sự thay thế cho chiếc hải phòng hạm Hagen đã lạc hậu, Kaiserin được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Howaldtswerke ở Kiel vào tháng 11 năm 1910. Nó được hạ thủy vào ngày 11 tháng 11 năm 1911, và công việc trang bị hoàn tất được tiếp nối sau đó. Một đội công nhân xưởng tàu đã bàn giao con tàu cho Hải quân vào ngày 13 tháng 5 năm 1913; nó được đưa ra hoạt động vào ngày hôm sau. Trong quá trình chạy thử máy, động cơ turbine của con tàu bị hư hại, khiến phải trì hoãn việc hoàn tất nó. Kết quả là Kaiserin chỉ gia nhập hạm đội vào ngày 13 tháng 12 năm 1913.

Con tàu có chiều dài chung và trọng lượng choán nước tối đa ; mạn thuyền rộng , độ sâu của mớn nước trước mũi là và sau đuôi là . Kaiserin được dẫn động bởi ba bộ turbine Parsons, được cung cấp hơi nước từ 16 nồi hơi đốt than, cho phép đạt được một tốc độ tối đa . Nó mang theo than, cho phép có được tầm hoạt động tối đa ở tốc độ đường trường .

Kaiserin được trang bị dàn pháo chính gồm mười khẩu pháo SK L/50 đặt trên năm tháp pháo nòng đôi. Con tàu còn được trang bị mười bốn khẩu pháo SK L/45 trong các tháp pháo ụ giữa tàu, tám khẩu SK L/45 trong các tháp pháo ụ và bốn khẩu 8,8 cm L/45 phòng không. Ngoài ra còn có năm ống phóng ngư lôi , tất cả đều được bố trí trong lườn tàu. Khi quay về đến Đức, Kaiserin đi đến Brunsbüttel vào ngày 24 tháng 7, nơi nó là chiếc thiết giáp hạm đầu tiên băng qua kênh đào Kaiser Wilhelm vừa mới được vét sâu hơn. Chuyến đi đòi hỏi con tàu phải được làm nhẹ bớt, nhưng chỉ trong vòng dưới 12 giờ, Kaiserin đã đi ra khỏi cửa âu tàu tại Holtenau và gặp gỡ hải đội của nó tại Kiel. Ngày 31 tháng 7, toàn bộ hải đội quay trở lại biển Bắc ngang qua kênh đào. Đến nữa đêm 4 tháng 8, với một Hạm đội Grand hùng hậu, Anh tuyên chiến với Đức.

Kaiserin có mặt trong cuộc tiến quân đầu tiên của Hạm đội Đức vào biển Bắc, diễn ra vào ngày 2-3 tháng 11 năm 1914, cho dù không bắt gặp lực lượng Anh nào. Một đợt thứ hai được tiếp nối vào ngày 15-16 tháng 12. Sáng sớm ngày 15 tháng 12, hạm đội rời cảng tiến hành cuộc bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby. Chiều tối hôm đó, hạm đội chiến trận Đức với khoảng 12 thiết giáp hạm dreadnought, trong đó có Kaiserin và bốn tàu chị em với nó, cùng 8 thiết giáp hạm tiền-dreadnought, đã tiếp cận ở khoảng cách với một hải đội Anh biệt lập bao gồm sáu thiết giáp hạm. Tuy nhiên, các cuộc đụng độ lẻ tẻ giữa lực lượng tàu khu trục hộ tống của hai bên trong bóng tối đã khiến Đô đốc von Ingenohl tin rằng ông đang phải đối đầu với toàn bộ Hạm đội Grand. Tuân theo chỉ thị của Kaiser Wilhelm II tránh không được mạo hiểm hạm đội một cách không cần thiết, von Ingenohl ra lệnh tách ra khỏi trận chiến và quay mũi hạm đội đội chiến trận trở về Đức.

Kaiserin di chuyển đến biển Baltic cho một lượt huấn luyện hải đội từ ngày 3 đến ngày 29 tháng 1 năm 1915. Khi quay trở lại biển Bắc, nó vào ụ tàu tại Wilhelmshaven cho một đợt đại tu định kỳ, vốn kéo dài từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 20 tháng 2. Von Pohl tiếp tục chiến lược càn quét vào biển Bắc để tiêu diệt những đơn vị Anh biệt lập. Một loạt các cuộc tiến quân hạm đội được tiến hành trong năm 1915. Kaiserin cùng phần còn lại của hạm đội đã xuất quân để hỗ trợ cho Đội Tuần tiễu 2 thực hiện một chiến dịch rải mìn vào ngày 17-18 tháng 5. Không đầy hai tuần sau, vào ngày 29-30 tháng 5, hạm đội dự định tiến hành cuộc càn quét vào biển Bắc, nhưng hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt đã buộc Đô đốc Pohl phải hủy bỏ chiến dịch khi chỉ còn cách ngoài khơi Schiermonnikoog. Hạm đội đã ở lại căn cứ cho đến ngày 10 tháng 8, khi nó di chuyển đến phía Bắc Helgoland hỗ trợ cho chuyến quay về của chiếc tàu tuần dương phụ trợ Meteor. Một tháng sau, vào ngày 11-12 tháng 9, hạm đội hỗ trợ cho một hoạt động rải mìn khác ngoài khơi Swarte Bank. Hoạt động cuối cùng trong năm là vào ngày 23-24 tháng 10, khi hạm đội xuất quân về hướng Horns Reef mà không gặp sự kiện gì. Hải đội Chiến trận 3 tiến hành một lượt huấn luyện tại biển Baltic trong các ngày 5 đến 20 tháng 12. Scheer đề xuất một chiến lược tích cực tấn công hơn nhằm đưa đến một cuộc đối đầu với Hạm đội Grand Anh Quốc; ông nhận được sự chuẩn thuận của Kaiser vào tháng 2. Chiến dịch đầu tiên của Scheer được thực hiện trong tháng tiếp theo, vào ngày 5-7 tháng 3, với một cuộc càn quét Hoofden không mang lại kết quả. Kaiserin cũng hiện diện trong một cuộc tiến quân đến Amrun Bank vào ngày 2-3 tháng 4. Một đợt tiến quân khác đến Horns Reef được tiếp nối vào ngày 21-22 tháng 4.

Không lâu trước 16 giờ 00, các tàu chiến-tuần dương thuộc Đội Tuần tiễu 1 đối đầu với Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của Đô đốc David Beatty. Các lực lượng đối địch bắt đầu một cuộc đấu pháo, vốn đã đưa đến việc phá hủy chiếc HMS Indefatigable không lâu sau 17 giờ 00, rồi đến lượt HMS Queen Mary không đầy nữa giờ sau đó. Lúc 16 giờ 19 phút, Kaiserin bị buộc phải tắt tạm thời turbine của trục giữa do bộ ngưng tụ bắt đầu bị rò rỉ; tuy nhiên, thủy thủ đã tái khởi động lại động cơ trước khi nó bước vào tác chiến. Vào lúc này, các tàu chiến-tuần dương Đức di chuyển về phía Nam nhằm thu hút các tàu chiến Anh về phía lực lượng chủ lực của Hạm đội Biển khơi. Đến 17 giờ 30, thiết giáp Đức dẫn đầu König nhìn thấy cả Đội Tuần tiễu 1 của Đức bên mạn phải và Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 của Anh bên mạn trái. Đến 17 giờ 45 phút, Scheer ra lệnh bẻ lái 2 point (22,5°) sang mạn trái để đưa các con tàu của ông đến gần hơn các tàu chiến-tuần dương Anh, và một phút sau lệnh khai hỏa được đưa ra.

Lúc khoảng 17 giờ 40 phút, tàu tuần dương hạng nhẹ Anh Nottingham phóng một quả ngư lôi duy nhất nhắm vào Kaiserin ở tầm xa tối đa , vốn đã không đi đến mục tiêu. Sau khi Scheer ra lệnh nổ súng, Kaiserin đã đối đầu trong một lúc ngắn với tàu chiến-tuần dương New Zealand nhưng không bắn trúng phát nào; và đến 17 giờ 54 phút, New Zealand cùng các tàu chiến-tuần dương Anh khác gia tăng tốc độ đi ra khỏi tầm bắn. Các tàu khu trục Anh NestorNomad, vốn đã bị đánh hỏng trước đó trong trận chiến, nằm chắn ngay trên hướng đi của Hạm đội biển khơi. Kaiserin cùng ba tàu chị em nổ súng nhắm vào Nomad với dàn pháo hạng hai trong khi các thiết giáp hạm của Hải đội 1 kết liễu Nestor. Lúc khoảng 19 giờ 00, hàng chiến trận Đức đụng độ với nhiều tàu chiến thuộc Hải đội Tuần dương nhẹ 2 của Anh. Kaiserin đã bắn ba loạt đạn pháo vào một tàu tuần dương bốn ống khói đối phương không rõ tung tích, nhưng không trúng đích.

Không lâu sau 19 giờ 00, tàu tuần dương Đức Wiesbaden bị đánh hỏng bởi một quả đạn pháo từ chiếc tàu chiến-tuần dương Anh Invincible; Chuẩn Đô đốc Behncke trên chiếc König tìm cách cơ động Hải đội Chiến trận 3 để bảo vệ cho chiếc tàu tuần dương bị bắn trúng. Nhưng cùng lúc đó, các hải đội tuần dương nhẹ 3 và 4 của Anh bắt đầu một cuộc tấn công bằng ngư lôi vào hàng chiến trận Đức; trong khi tiến đến đủ khoảng cách để phóng ngư lôi, chúng tấn công Wiesbaden bằng hỏa lực của dàn pháo chính. Tám thiết giáp hạm thuộc Hải đội 3 nhắm vào các tàu tuần dương Anh, nhưng việc chịu đựng hỏa lực pháo hạng nặng của thiết giáp hạm đối phương không đủ để đánh đuổi các tàu tuần dương Anh. Các tàu tuần dương bọc thép Defence, WarriorBlack Prince tham gia vào cuộc tấn công nhằm kết liễu Wiesbaden đã bị hư hại. Từ 19 giờ 14 phút đến 19 giờ 17 phút, nhiều thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương đã nổ súng vào DefenceWarrior. Kaiserin thoạt tiên đối đầu với một trong số thiết giáp hạm của Hải đội Chiến trận 5 Anh Quốc và đã bắn trúng một phát, có thể là Malaya căn cứ theo nhật ký hải trình của Kaiserin. Sau ba phút nổ súng vào Malaya, Kaiserin chuyển hỏa lực sang Defence. Sau khi Defence phát nổ, Kaiserin chuyển hỏa lực của nó vào một mục tiêu được tin là tàu chiến-tuần dương Anh Tiger; tuy nhiên hoàn cảnh sương mù nặng đã buộc Kaiserin ngừng bắn chỉ sau hai loạt đạn pháo.

Đến 20 giờ 00, hàng chiến trận Đức được lệnh quay mũi toàn bộ 180° về phía Đông để tách ra khỏi hạm đội Anh. Được tiến hành dưới làn hỏa lực đối phương nặng nề, cú cơ động này đã khiến hạm đội Đức trở nên lộn xộn. Kaiserin tiến đến quá gần Prinzregent Luitpold và bị buộc phải tách ra khỏi hàng sang mạn phải để tránh va chạm, Chiếc sau này lại chạy song song với Kaiserin ở tốc độ cao. Kết quả là Kaiserin phải ở lại ngoài hàng không thể quay trở lại vị trí được phân công. Cú đổi hướng cũng làm đảo ngược thứ tự hàng hạm đội Đức; Kaiserin giờ đây là chiếc thứ bảy kể từ phía sau hàng chiến trận Đức. Cuối cùng đến khoảng 23 giờ 30 phút, hạm đội Đức cũng tái tổ chức thành đội hình di chuyển ban đêm; Kaiserin là chiếc thứ 11 giữa đội hình 24 chiếc.

Sau một loạt các cuộc đụng độ ban đêm giữa những thiết giáp hạm thuộc Hải đội 1 và các tàu khu trục Anh, Hạm đội Biển khơi Đức xuyên qua được các lực lượng hạng nhẹ Anh và về đến Horns Reef lúc 04 giờ 00 ngày 1 tháng 6. Hạm đội Đức đến được Wilhelmshaven vài giờ sau đó; nơi các thiết giáp hạm thuộc Hải đội 1 chiếm lấy các vị trí phòng thủ bên ngoài vũng biển, và Kaiserin, Kaiser, Prinzregent Luitpold cùng Kronprinz trực chiến bên ngoài các lối ra vào Wilhelmshaven. Phần còn lại của hạm đội đi vào cảng Wilhelmshaven, nơi những chiếc còn có khả năng chiến đấu được tiếp than và tiếp đạn dược. Trong quá trình trận chiến, Kaiserin đã bắn 160 quả đạn pháo hạng nặng và 135 quả đạn pháo hạng hai; nó thoát ra khỏi trận chiến mà không bị hư hại gì. được hỗ trợ bởi ba thiết giáp hạm dreadnought, sẽ tham gia cuộc bắn phá thị trấn ven biển Sunderland nhằm lôi kéo và tiêu diệt các tàu chiến-tuần dương của Beatty. Phần còn lại của hạm đội, bao gồm Kaiserin, sẽ theo sau bảo vệ. Trên đường đi đến bờ biển Anh, Scheer chuyển hướng lên phía Bắc sau một báo cáo sai lầm từ một khí cầu zeppelin về một đơn vị Anh trong khu vực. Vì vậy việc bắn phá đã không được tiến hành; và đến 14 giờ 35 phút, Scheer được cảnh báo về sự xuất hiện của Hạm đội Grand, nên đã quay mũi lực lượng của mình rút lui trở về các cảng Đức.

Một cuộc tiến quân hạm đội khác được tiếp nối vào ngày 18-20 tháng 10, nhưng nó kết thúc mà không bắt gặp đơn vị Anh nào. Hai tuần sau, vào ngày 4 tháng 11, Kaiserin tham gia một cuộc viễn chinh đến bờ biển phía Tây Đan Mạch để hỗ trợ cho hai chiếc tàu ngầm U-boat U-20U-30 bị mắc cạn tại đây. Đến ngày 1 tháng 12, Hạm đội Biển khơi được tái tổ chức: Trong khi đi qua kênh đào Kaiser Wilhelm vào ngày 14 tháng 3 năm 1917, Kaiserin bị mắc cạn. Một trong các sống lườn tàu của nó bị hư hại, và nó bị ngập khoảng nước. Việc sửa chữa được tiến hành tại Xưởng tàu Đế chế tại Kiel từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 3. Kaiserin quay trở lại biển Bắc vào ngày 30 tháng 3, và tiếp tục ở lại đây làm nhiệm vụ canh phòng cho đến ngày8 tháng 6. Đến ngày 9 tháng 6, nó đi đến biển Baltic cho một loạt các cuộc thực tập kéo dài một tháng, vốn hoàn tất vào ngày 2 tháng 7. Nó quay trở lại nhiệm vụ canh phòng tại German Bight vào ngày 3 tháng 7 và tiếp tục vai trò này cho đến ngày 11 tháng 9, khi Kaiserin được cho tách ra để tham gia một đơn vị đặc biệt trong Chiến dịch Albion. Ngày 18 tháng 9, mệnh lệnh được đưa ra cho một chiến dịch phối hợp Lục-Hải quân nhằm chiếm các đảo Ösel và Moon; lực lượng hải quân tham gia chiến dịch được đưa về Đơn vị Đặc biệt, bao gồm soái hạm Moltke cùng các hải đội chiến trận 3 và 4 của Hạm đội Biển khơi. Cùng với chín tàu tuần dương hạng nhẹ, ba chi hạm đội tàu phóng ngư lôi cùng nhiều tàu rải mìn và tàu quét mìn, toàn bộ lực lượng bao gồm khoảng 300 tàu chiến, được sự hỗ trợ của trên 100 máy bay và sáu khí cầu zeppelin. Lực lượng tấn công gồm khoảng 24.600 sĩ quan và binh sĩ. Đối đầu với lực lượng Đức là các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ của Nga SlavaTsarevitch, các tàu tuần dương bọc thép Bayan, Admiral MakarovDiana, 26 tàu khu trục, nhiều tàu phóng lôi và pháo hạm, cùng một lực lượng đồn trú tại Ösel với khoảng 14.000 người cùng các khẩu đội pháo phòng thủ duyên hải.

Chiến dịch bắt đầu vào sáng ngày 12 tháng 10, khi Moltke cùng Hải đội Chiến trận 3 bắn phá các vị trí Nga trong vịnh Tagga. Cùng lúc đó, Kaiserin và phần còn lại của Hải đội Chiến trận 4 nổ súng vào các khẩu đội pháo bờ biển trên bán đảo Sworbe thuộc đảo Ösel. Hai ngày sau, Phó Đô đốc Wilhelm Souchon, Tư lệnh Hải đội Chiến trận 4, rời vịnh Tagga cùng với Kaiserin, Friedrich der GrossePrinzregent Luitpold để hỗ trợ cho lực lượng Đức trên bộ tiến quân trên bán đảo Sworbe. Kaiserin được phân nhiệm vụ trấn áp một khẩu đội pháo Nga tại Zerel, cho dù sương mù nặng đã trì hoãn việc nó tấn công mục tiêu. Phía Nga khai hỏa trước, và nhanh chóng bị KaiserinKönig Albert đáp trả. Friedrich der Grosse cũng đến để trợ giúp các tàu chị em; ba chiếc thiết giáp hạm đã bắn tổng cộng 120 quả đạn pháo hạng nặng trong vòng một giờ. Loạt đạn pháo thứ tư của phía Nga vây bọc chung quanh Kaiserin, buộc nó phải bẻ lái để né tránh hỏa lực Nga. Hỏa lực áp đảo từ các tàu chiến Đức đã buộc hầu hết pháo thủ Nga phải chạy khỏi vị trí của mình.

Trong đêm 15 tháng 10, KaiserinKönig Albert được gửi đi để tiếp thêm than tại Putzig. Vào ngày 19 tháng 10 có thêm sự tham gia của Friedrich der Grosse trong một thời gian ngắn tại Putzig, vốn tiếp tục đi đến Arensburg cùng với Moltke. Sáng hôm sau, Phó Đô đốc Schmidt ra lệnh giải tán đơn vị đặc biệt hải quân và quay trở về biển Bắc. Trong một thông báo gửi về bộ tư lệnh hải quân, ghi chú rằng KaiserinKönig Albert có thể được cho tách ra ngay lập tức từ Putzig để quay về biển Bắc. Hai con tàu đã đi đến Kiel ngang qua Danzig, nơi chúng băng qua kênh đào Kaiser Wilhelm để quay trở lại biển Bắc.

Các hoạt động sau cùng

Vào ngày 17 tháng 11 năm 1917, KaiserinKaiser được phân nhiệm vụ hỗ trợ cho Đội tuần tiễu 2 khi chúng tiến hành một chiến dịch quét mìn tại biển Bắc. Một lực lượng Anh đáng kể bao gồm năm tàu chiến-tuần dương cùng nhiều tàu tuần dương hạng nhẹ đã tấn công Đội tuần tiễu 2; nên hai chiếc thiết giáp hạm đã lập tức tiến đến trợ giúp. Trong trận Helgoland Bight thứ hai diễn ra sau đó, Kaiserin bắn một phát trúng đích vào tàu tuần dương hạng nhẹ Calypso. Kaiserin đi vào ụ tàu vào ngày 22 tháng 12 để bảo trì, và công việc kéo dài cho đến ngày 5 tháng 2 năm 1918. Nó cũng tham gia cuộc xuất quân đến Na Uy không mang lại kết quả vào ngày 23-25 tháng 4 năm 1918, rồi sau đó tiếp tục nhiệm vụ canh gác tại German Bight. Hải đội Chiến trận 4 tiến hành một đợt thực tập huấn luyện khác tại biển Baltic từ ngày 18 tháng 6 đến ngày 13 tháng 8 và một lượt thực hành vào các ngày 2-28 tháng 10. Sáng ngày 29 tháng 10 năm 1918, mệnh lệnh được đưa ra để chuẩn bị khởi hành từ Wilhelmshaven vào ngày hôm sau. Bắt đầu từ đêm 29 tháng 10, thủy thủ trên chiếc Thüringen, và sau đó trên nhiều thiết giáp hạm khác, làm binh biến. Sự bất ổn cuối cùng đã buộc Hipper và Scheer phải hủy bỏ chiến dịch. Được thông báo về tình hình, Kaiser phát biểu "Tôi không còn có một lực lượng Hải quân nữa".

Số phận

Bản đồ vị trí các con tàu bị đánh đắm tại Scapa Flow. Kaiserin được đánh dấu với số 19|alt=A map designating the locations where the German ships were sunk. Sau khi Đức đầu hàng vào tháng 11 năm 1918, hầu hết tàu chiến của Hạm đội Biển khơi, kể cả Kaiserin, bị lưu giữ tại căn cứ hải quân Anh tại Scapa Flow, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter. Hạm đội đã gặp gỡ tàu tuần dương hạng nhẹ Anh Cardiff, vốn đã dẫn đầu các con tàu Đức đi đến điểm gặp gỡ hạm đội Đồng Minh, một lực lượng khổng lồ bao gồm 370 tàu chiến của Anh, Mỹ và Pháp, vốn sẽ hộ tống hạm đội Đức đến Scapa Flow. Khi bị lưu giữ trong suốt thời gian diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình, mà sau này cuối cùng sẽ dẫn đến Hòa ước Versailles,

Một bản in của báo The Times cung cấp thông tin cho von Reuter rằng Thỏa thuận Ngừng bắn sẽ hết hiệu lực vào giữa trưa ngày 21 tháng 6 năm 1919, thời hạn cuối cùng mà Đức phải ký vào Hiệp định hòa bình. Đô đốc Von Reuter đưa đến kết luận người Anh sẽ tìm cách chiếm hữu các con tàu Đức sau khi Thỏa thuận Ngừng bắn hết hiệu lực. Không biết rằng thời hạn của thỏa thuận đã được triển hạn đến ngày 23 tháng 6, ông quyết định đánh đắm các con tàu của mình vào cơ hội thuận tiện đầu tiên có được. Sáng ngày 21 tháng 6, Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành thực tập huấn luyện; và đến 11 giờ 20 phút Reuter truyền mệnh lệnh này đến các con tàu của mình. Kaiserin chìm lúc 14 giờ 00; nó được cho nổi lên vào ngày 14 tháng 5 năm 1936 rồi được tháo dỡ sau đó tại Rosyth.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**SMS _Kaiserin**_ (_Nữ hoàng_) là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiserin_ được đặt lườn vào ngày
**SMS _Prinzregent Luitpold**_, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính Luitpold của Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong
**SMS _König Albert**_, tên đặt theo Vua Albert của Saxony, là chiếc thứ tư trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
**SMS _Lützow**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ hai thuộc lớp _Derfflinger_ của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Được đặt hàng
**SMS _Kaiser**_ (hoàng đế) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiser_ được đóng
**SMS _Friedrich der Große**_ (_Friedrich Đại Đế_) là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Friedrich der Große_
**SMS _Nassau**_ là chiếc thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức, một hành động đáp trả lại việc hạ thủy thiết giáp hạm HMS _Dreadnought_ của Hải
**SMS _Oldenburg**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
**SMS _Kronprinz**_ là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kronprinz_ được đặt lườn vào ngày tháng 11
**SMS _Bayern**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chiếc tàu chiến được hạ thủy vào tháng
**SMS _Kurfürst Friedrich Wilhelm**_ là một trong những thiết giáp hạm hoạt động biển khơi đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Con tàu được đặt tên theo Frederick William I, Hoàng
**SMS _Brandenburg**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Brandenburg_, vốn còn bao gồm các chiếc _Kurfürst Friedrich Wilhelm_, _Weißenburg_ và _Wörth_, được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche
**SMS _Wörth**_ là một trong số bốn thiết giáp hạm tiền-dreadnought đi biển đầu tiên thuộc lớp _Brandenburg_, vốn còn bao gồm các chiếc _Kurfürst Friedrich Wilhelm_, _Weißenburg_ và _Brandenburg_, được chế tạo cho Hải
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**HMS _Repulse**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Renown_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, vốn bao gồm cả chiếc _Renown_. Nó đã phục vụ trong cả cuộc Chiến tranh Thế giới thứ
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**Viktoria Luise của Phổ** (tiếng Đức: _Viktoria Luise von Preußen_; tên đầy đủ: _Viktoria Luise Adelheid Mathilde Charlotte_; 13 tháng 9 năm 1892 – 11 tháng 12 năm 1980) là người con cuối cùng của