✨Kaiser (lớp thiết giáp hạm)

Kaiser (lớp thiết giáp hạm)

Lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ ba được Đức chế tạo, và là lớp đầu tiên được trang bị động cơ turbine cùng các tháp pháo bắn thượng tầng. Những chiếc trong lớp bao gồm: Kaiser, Friedrich der Grosse, Kaiserin, Prinzregent LuitpoldKönig Albert. Như thường thấy trên những thiết giáp hạm Đức đương thời, lớp Kaiser trang bị pháo chính có cỡ nòng nhỏ hơn so với các đối thủ Anh: so với trên lớp Orion Anh Quốc.

Cả năm chiếc trong lớp đã hoạt động tại Bắc Hải trong chiến tranh; chúng cùng phục vụ với nhau như là Đội 4 của Hải đội Chiến trận 3. Bốn chiếc đã có mặt trong trận Jutland, König Albert đang ở trong ụ tàu vào lúc đó; trong số bốn chiếc tham gia trận hải chiến, chỉ có Kaiser bị hư hại do trúng hai quả đạn pháo hạng nặng. Các con tàu cũng tham gia Chiến dịch Albion tại biển Baltic; khi chúng được tái tổ chức thành Hải đội Chiến trận 4 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Wilhelm Souchon.

Khi chiến tranh kết thúc, cả năm chiếc trong lớp đều bị lưu giữ tại căn cứ Hải quân Anh ở Scapa Flow. Vào ngày 21 tháng 6 năm 1919, chúng bị đánh đắm để tránh không bị Hải quân Hoàng gia Anh chiếm giữ. Sau này các con tàu lần lượt được cho trục vớt và tháo dỡ từ năm 1929 đến năm 1937.

Thiết kế

Lớp Kaiser, giống như lớp Helgoland dẫn trước, được đặt hàng trong cùng Bản Tu chính thứ hai của Đạo luật Hải quân, vốn được thông qua vào ngày 27 tháng 3 năm 1908. Luật này quy định tuổi đời hoạt động của tàu chiến chủ lực được giảm từ 25 năm xuống còn 20 năm, một biện pháp nhằm cho phép đóng các thiết giáp hạm mới hơn. Điều đó có nghĩa là sáu chiếc thuộc lớp hải phòng hạm Siegfried, hai chiếc lớp hải phòng hạm Odin cùng bốn chiếc lớp thiết giáp hạm Brandenburg sẽ được thay thế. Các con tàu có một đáy tàu kép chiếm 88% chiều dài của lườn tàu và 17 ngăn kín nước. Thủy thủ đoàn bao gồm 41 sĩ quan và 1.043 thủy thủ. Khi phục vụ trong vai trò soái hạm của hải đội, con tàu được bổ sung thêm 14 sĩ quan và 80 thủy thủ; và khi là tàu chỉ huy thứ hai, quân số tăng thêm 2 sĩ quan và 23 thủy thủ. Chúng sử dụng turbine do nhiều hãng khác nhau chế tạo, khi Bộ Hải quân cùng các xưởng tàu Đức nỗ lực tìm một giải pháp thay thế cho sự độc quyền về turbine của hãng Parsons của Anh Quốc. Dù sao, cả Kaiser lẫn Kaiserin mỗi chiếc đều được trang bị ba bộ turbine của Parsons, Friedrich der Grosse có ba turbine của hãng AEG-Curtis, trong khi König Albert được trang bị turbine Schichau. Các turbine dẫn động chân vịt ba cánh có đường kính , cho phép đạt được tốc độ theo thiết kế là 21 knot. Các con tàu có hai bánh lái.

Điện năng cho con tàu được cung cấp bởi bốn cặp máy phát turbine và hai máy phát diesel, tạo ra công suất 1.800 kW điện xoay chiều với điện thế 225 V. đặt trên năm tháp pháo nòng đôi, gồm một tháp pháo trước mũi, hai tháp pháo hai bên mạn giữa tàu, và hai tháp pháo phía đuôi bắn thượng tầng. Các khẩu pháo được cung cấp tổng cộng 860 quả đạn pháo, 86 viên cho mỗi khẩu pháo. Các khẩu pháo được đặt trên các bệ Drh LC/1909, vốn tương tự như kiểu LC/1908 cũ hơn được sử dụng trên những chiếc thuộc lớp Helgoland dẫn trước. Thoạt tiên kiểu tháp pháo này có khả năng hạ đến −8° và nâng lên đến 13,5°; với góc nâng tối đa, nó cho phép có tầm bắn đến . Các tháp pháo sau này được cải tiến để hạ thấp −5,5° và nâng lên 16°, cho phép nâng tầm bắn tối đa lên .

Hải quân Hoàng gia Anh, trước đó đã bắt được các bảng mật mã Đức từ chiếc tàu tuần dương Magdeburg bị mắc cạn, nhận biết một chiến dịch đang được tiến hành, nhưng không biết chắc nơi lực lượng Đức sẽ tấn công. Vì vậy, Bộ hải quân Anh ra lệnh cho Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 dưới quyền Đô đốc David Beatty, sáu thiết giáp hạm thuộc Hải đội Chiến trận 2 cùng nhiều tàu tuần dương và tàu khu trục ngăn chặn các tàu chiến-tuần dương Đức. Trong khoảng 40 phút, hai hạm đội di chuyển theo một hướng song song; và đến 7 giờ 20 phút, Ingenohl ra lệnh bẻ lái hơn nữa sang mạn phải, đưa các con tàu của mình theo một hành trình quay về vùng biển Đức.

Bắn phá Yarmouth và Lowestoft

Những chiếc trong lớp Kaiser đã tham gia một cuộc bắn phá khác xuống bờ biển Anh Quốc, một lần nữa hỗ trợ cho các tàu chiến-tuần dương của Đội Tuần tiễu 1. Các tàu chiến-tuần dương khởi hành từ Jade Estuary lúc 10 giờ 55 phút ngày 24 tháng 4 năm 1916, và phần còn lại của Hạm đội Biển khơi lên đường tiếp theo lúc 13 giờ 40 phút. Tàu chiến-tuần dương Seydlitz trúng phải một quả thủy lôi trên đường đi đến mục tiêu, nên bị buộc phải rút lui. Các tàu chiến-tuần dương khác tiến hành bắn phá Lowestoft mà hầu như không gặp sự kháng cự, nhưng trên đường đi đến Yarmouth, chúng đụng độ với các tàu tuần dương Anh thuộc Lực lượng Harwich. Một cuộc đấu pháo ngắn ngủi diễn ra trước khi Lực lượng Harwich rút lui. Các báo cáo về hoạt động của tàu ngầm Anh tại khu vực đã buộc Đội Tuần tiễu 1 phải rút lui. Vào lúc này, Đô đốc Reinhard Scheer nhận được cảnh báo về việc Hạm đội Grand đã khởi hành từ căn cứ của chúng ở Scapa Flow, ông ra lệnh rút lui về vùng biển Đức an toàn hơn.

Trận Jutland

Bốn trong số năm chiếc trong lớp đã tham gia cuộc xuất quân của hạm đội vốn đã đưa đến trận Jutland vào ngày 31 tháng 5-1 tháng 6 năm 1916; König Albert đang ở trong ụ tàu vào lúc đó. Hoạt động này là một nỗ lực lặp lại các kế hoạch trước đây dự định thu hút một phần Hạm đội Grand để tiêu diệt chúng. Kaiser, Kaiserin, Prinzregent Luitpold cùng với Friedrich der Grosse, soái hạm của Đô đốc Scheer, hình thành nên Đội 6 trực thuộc Hải đội Chiến trận 3. Hải đội này là lực lượng đầu tiên trong số ba đơn vị thiết giáp hạm Đức; tuy nhiên, những chiếc thuộc lớp König thuộc Đội 3 của Hải đội Chiến trận 3 mới là đơn vị đi tiên phong của hạm đội. Ngay phía sau những chiếc lớp Kaiser là những chiếc lớp HelgolandNassau thuộc Hải đội Chiến trận 2, và sau cùng là các thiết giáp hạm tiền-dreadnought lớp Deutschland già cỗi thuộc Hải đội Chiến trận 1.

Không lâu trước 16 giờ 00 giờ Trung Âu, các tàu chiến-tuần dương thuộc Đội Tuần tiễu 1 đối đầu với Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của Đô đốc David Beatty. Các lực lượng đối địch bắt đầu một cuộc đấu pháo, vốn đã đưa đến việc phá hủy chiếc HMS Indefatigable không lâu sau 17 giờ 00, rồi đến lượt HMS Queen Mary không đầy nữa giờ sau đó. Vào lúc này, các tàu chiến-tuần dương Đức di chuyển về phía Nam nhằm thu hút các tàu chiến Anh về phía lực lượng chủ lực của Hạm đội Biển khơi. Đến 17 giờ 30, thiết giáp Đức dẫn đầu König nhìn thấy cả Đội Tuần tiễu 1 của Đức bên mạn phải lẫn Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 của Anh bên mạn trái. Đến 17 giờ 45 phút, Scheer ra lệnh bẻ lái 2 point (22,5°) sang mạn trái để đưa các con tàu của ông đến gần hơn các tàu chiến-tuần dương Anh. Lệnh khai hỏa được đưa ra không lâu sau đó; tuy nhiên ngoại trừ Prinzregent Luitpold, những chiếc khác trong lớp Kaiser chưa lọt vào tầm bắn để có thể đối đầu với các tàu chiến-tuần dương Anh. Prinzregent Luitpold xoay xở bắn được tám loạt đạn pháo ở khoảng cách trước khi khoảng cách bị nới rộng, buộc nó phải ngừng bắn. Vào lúc đó, KaiserFriedrich der Grosse cùng với các thiết giáp hạm của Hải đội Chiến trận 2 nằm trong tầm bắn với Hải đội Tuần dương nhẹ 2 của Anh. Tuy nhiên, hỏa lực áp đảo của mười thiết giáp hạm lại ảnh hưởng đến việc trinh sát tác xạ, nên chỉ sau vài loạt đạn pháo hầu hết đã ngừng bắn. nhỏ|trái|SMS Kaiser với dàn pháo chính xoay sang mạn phải Vào khoảng 19 giờ 00, tàu tuần dương Wiesbaden, trước đó đã bị đối phương đánh bất động, bắt đầu chịu đựng hỏa lực từ lực lượng tuần dương nhẹ của Anh; vì vậy Scheer ra lệnh cho các con tàu của ông đổi hướng để hỗ trợ hầu có thể kéo con tàu. Đến 19 giờ 05 phút, các tàu tuần dương bọc thép Anh DefenceWarrior bắt đầu nổ súng vào chiếc Wiesbaden đã bị đánh hỏng. Tuy nhiên, lúc 19 giờ 15 phút, các tàu chiến-tuần dương của Hipper cùng các thiết giáp hạm của Hải đội 3 xuất hiện, bắt đầu tấn công các con tàu Anh ở khoảng cách không đầy . Kaiser cùng ba chiếc lớp König tập trung hỏa lực vào hai chiếc tàu tuần dương, cho đến khi một hầm đạn của Defence bị đánh trúng, gây một vụ nổ dữ dội vốn đã phá hủy con tàu. Bị hư hại nặng và bốc cháy, Warrior cố tìm cách lết về hướng các thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth thuộc Hải đội Chiến trận 5.

Trong khi Warrior rút lui về phía Bắc dưới sự che chở của màn khói của chính nó, thiết giáp hạm Warspite tiến đến quá gần chiếc tàu chị em với nó Valiant, và phải bẻ lái sang mạn phải để tránh va chạm. Vào lúc đó, một quả đạn pháo của Kaiser đã đánh trúng đuôi chiếc Warspite, làm kẹt bánh lái, tạm thời khiến con tàu chỉ có thể di chuyển theo một vòng tròn rộng. Friedrich der Grosse, König, hai chiếc lớp Nassau và ba chiếc lớp Helgoland nả pháo vào Warspite trong khoảng 20 phút; nó bị đánh trúng 11 lần trước khi lực lượng Đức mất dấu mục tiêu. Vì bánh lái của nó không thể sửa chữa thích đáng, Warspite bị buộc phải rút lui khỏi trận chiến; sự vắng mặt của nó đã khiến phía Đức tin rằng họ đã đánh chìm được nó.

Sau khi quay về vùng cửa sông Jade, các chiếc Nassau, WestfalenPosen thuộc lớp Nassau cùng các chiếc HelgolandThüringen thuộc lớp Helgoland chiếm lấy các vị trí canh phòng bên ngoài vũng biển. Hầu như không bị hư hại trong trận chiến, Kaiser, KaiserinPrinzregent Luitpold đảm trách các vị trí phòng ngư bên ngoài các lối ra vào Wilhelmshaven. Các tàu chiến chủ lực khác còn trong tình trạng chiến đấu được tiếp đạn và tiếp nhiên liệu.

Trong quá trình trận chiến, Kaiser đã bắn 224 quả đạn pháo hạng nặng và 41 đạn pháo hạng hai; Kaiserin, 160 và 135; Prinzregent Luitpold, 169 và 106; còn Friedrich der Grosse là 72 và 151 quả đạn pháo tương ứng. Chiếc duy nhất trong lớp bị bắn trúng trong trận chiến, Kaiser, bị đánh trúng hai lần, nhưng chỉ bị hư hại nhẹ với một người bị thương.

Chiến dịch Albion

Vào đầu tháng 9 năm 1917, sau khi Đức chiếm được cảng Riga của Nga, Hải quân Đức quyết định xóa sổ lực lượng Hải quân Nga vốn còn đang trụ lại vịnh Riga. Nhằm mục đích này, Bộ Tổng Tư lệnh Hải quân (Admiralstab) vạch ra một chiến dịch tại quần đảo Moonsund, đặc biệt nhắm vào các khẩu đội pháo Nga trên bán đảo Sworbe thuộc Ösel. Ngày 18 tháng 9, mệnh lệnh được đưa ra cho một chiến dịch phối hợp Lục-Hải quân nhằm chiếm các đảo Ösel và Moon; lực lượng hải quân chủ yếu bao gồm soái hạm Moltke cùng với Hải đội Chiến trận 3 của Hạm đội Biển khơi, gồm có Đội 5 bao gồm bốn chiếc lớp König, lúc này được bổ sung chiếc thiết giáp hạm mới Bayern, và Đội 6 bao gồm năm chiếc lớp Kaiser. Cùng với chín tàu tuần dương hạng nhẹ, ba chi hạm đội tàu phóng ngư lôi cùng nhiều tàu rải mìn và tàu quét mìn, toàn bộ lực lượng bao gồm khoảng 300 tàu chiến, được sự hỗ trợ của trên 100 máy bay và sáu khí cầu zeppelin. Lực lượng tấn công gồm khoảng 24.600 sĩ quan và binh sĩ. Đối đầu với lực lượng Đức là các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ của Nga SlavaTsarevitch, các tàu tuần dương bọc thép Bayan, Admiral MakarovDiana, 26 tàu khu trục, nhiều tàu phóng lôi và pháo hạm, cùng một lực lượng đồn trú tại Ösel với khoảng 14.000 người cùng các khẩu đội pháo phòng thủ duyên hải. nhỏ|trái|SMS Kaiser trong một lễ hội tại [[Kiel vào tháng 6 năm 1913. Chiếc thuyền buồm hoàng gia Hohenzollern đang nằm ở phía hậu cảnh|alt=A large battleship, with sailors lining the side rails, sits in harbor. A large white ship passes behind.]] Chiến dịch bắt đầu vào ngày 12 tháng 10, khi những chiếc trong lớp thiết giáp hạm Kaiser đối đầu với các khẩu đội pháo phòng thủ duyên hải tại bán đảo Sworbe. Cùng lúc đó, Moltke, Bayern và các chiếc lớp König cũng bắt đầu bắn phá các khẩu đội Nga trong vịnh Tagga. Sự kháng cự kịch liệt của đối phương tại Kassar Wick, lối ra vào eo biển Moon, làm chậm sự tiến quân của lực lượng Đức. Sang ngày 14 tháng 10, Kaiser được cho tách ra từ lực lượng bắn phá để đối phó với các tàu khu trục Nga đang ngăn cản các tàu quét mìn Đức. Dưới sự hỗ trợ từ các khẩu pháo 30,5 cm của Kaiser, các tàu phóng lôi Đức đột nhập vào eo biển. Trong cuộc đối đầu, tàu khu trục Nga Grom bị đánh bất động và cuối cùng bị đánh chìm.

Các khẩu đội pháo bờ biển 30,5 cm của Nga tại Zerel tiếp tục là một trở ngại đáng kể, nên khi Kaiser đang đối phó với các tàu khu trục Nga, Kaiserin, König AlbertFriedrich der Grosse đã bắn phá Zerel ở khoảng cách . Hỏa lực bắn trả của Nga tỏ ra khá chính xác, các chiếc dreadnought Đức buộc phải liên tục thay đổi đường đi để né tránh không bị bắn trúng. Cuộc tấn công chỉ kéo dài trong khoảng một giờ, do mối e ngại về thủy lôi và tàu ngầm đối phương. Sáng hôm sau, hai thiết giáp hạm lớp König được gi đến eo biển Moon để tiêu diệt các tàu chiến Nga tại đây. König đã đánh chìm thiết giáp hạm tiền-dreadnought Slava, trong khi Kronprinz buộc các tàu chiến còn lại phải rút lui. Đến ngày 20 tháng 10, chiến dịch hải quân xem như hoàn tất; các tàu chiến Nga đã bị tiêu diệt hoặc buộc phải rút lui, và phía Đức đạt được những mục tiêu đề ra.

Số phận

phải|nhỏ|Thiết giáp hạm Kaiser đang trên đường di chuyển đến [[Scapa Flow vào ngày 21 tháng 11 năm 1918|alt=A light gray battleship steams in choppy seas.]] Sau khi đạt được thỏa thuận đình chiến vào tháng 11 năm 1918, phần lớn Hạm đội Biển khơi dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter bị lưu giữ tại căn cứ hải quân của Anh ở Scapa Flow trong suốt thời gian diễn ra cuộc đàm phán mà cuối cùng đã đưa đến Hiệp ước Versailles. Reuter tin rằng người Anh sẽ chiếm các con tàu Đức vào ngày 21 tháng 6, vốn là thời hạn mà Đức phải ký hiệp ước hòa bình. Không biết rằng thời hạn trên đã được lùi lại đến ngày 23 tháng 6, Reuter quyết định trong cơ hội sớm nhất sẽ đánh đắm các con tàu của ông. Sáng ngày 21 tháng 6, Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành các cuộc cơ động huấn luyện, Reuter nhân cơ hội ấy truyền đạt mệnh lệnh đánh đắm hạm đội lúc 10 giờ 00.

Friedrich der Grosse là chiếc đầu tiên của hạm đội bị đánh đắm, chìm lúc 12 giờ 16 phút. Nó được trục vớt vào ngày 29 tháng 4 năm 1937 và được kéo đến Rosyth để tháo dỡ; chiếc chuông của con tàu được hoàn trả về Đức vào năm 1965, và đang được lưu giữ tại Tổng hành dinh Hạm đội ở Glücksburg. König Albert tiếp nối lúc 12 giờ 54 phút, là chiếc thứ hai của hạm đội bị đánh đắm; con tàu được cho nổi lên vào ngày 31 tháng 7 năm 1935 và được tháo dỡ tại Rosyth trong năm tiếp theo. Kaiser chìm lúc 13 giờ 25 phút, và được trục vớt vào ngày 20 tháng 3 năm 1929; việc tháo dỡ được tiến hành tại Rosyth vào năm 1930. Prinzregent Luitpold chìm năm phút sau đó; nó được trục vớt vào ngày 9 tháng 7 năm 1931 và tháo dỡ tại Rosyth. Kaiserin, chiếc cuối cùng trong lớp bị đánh đắm, chìm lúc 14 giờ 00; nó được cho nổi lên vào ngày 14 tháng 5 năm 1936 và được tháo dỡ cùng năm đó tại Rosyth.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser Friedrich III**_ là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm năm chiếc, tất cả đều
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**Lớp thiết giáp hạm _Wittelsbach**_ bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine). Chúng là những thiết giáp hạm đầu tiên được chế tạo theo Đạo luật Hải
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**Lớp thiết giáp hạm _Nassau**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức; là sự đáp trả của Đức đối với việc Hải quân Hoàng gia
**Lớp thiết giáp hạm _Helgoland**_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: _Helgoland_, _Ostfriesland_,
**Lớp thiết giáp hạm _Brandenburg**_ bao gồm bốn chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought đi biển đầu tiên của Hải quân Đế quốc Đức. Chúng cũng là những tàu chiến đầu tiên thuộc mọi kiểu tàu
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
Những chiếc [[Dreadnought trong Hạm đội biển cao đang trong tư thế hàng ngũ|alt=A line of nine large gray battleships stretches into the distance, all belching dark black smoke from their funnels]] Hải quân Đức—
**SMS _Kaiser**_ (hoàng đế) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiser_ được đóng
**SMS _Kaiser Friedrich III**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế
**SMS _Kaiser Barbarossa**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ 20. _Kaiser
**SMS _Kaiser Wilhelm der Grosse**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang
**SMS _Kaiser Karl der Grosse**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ
**SMS _Kaiser Wilhelm II**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ 20.
**SMS _König Albert**_, tên đặt theo Vua Albert của Saxony, là chiếc thứ tư trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
**SMS _Kaiserin**_ (_Nữ hoàng_) là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiserin_ được đặt lườn vào ngày
**SMS _Prinzregent Luitpold**_, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính Luitpold của Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong
**SMS _Friedrich der Große**_ (_Friedrich Đại Đế_) là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Friedrich der Große_
**SMS _Oldenburg**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
**SMS _Kronprinz**_ là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kronprinz_ được đặt lườn vào ngày tháng 11
**SMS _Markgraf**_ là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Markgraf_ được đặt lườn vào tháng 11 năm
**SMS _Thüringen**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
**SMS _König**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. König (tiếng Đức, nghĩa là Quốc vương) được
**SMS _Bayern**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chiếc tàu chiến được hạ thủy vào tháng
**SMS _Baden**_ là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được hạ thủy vào tháng 10 năm 1915 và hoàn
**SMS _Brandenburg**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Brandenburg_, vốn còn bao gồm các chiếc _Kurfürst Friedrich Wilhelm_, _Weißenburg_ và _Wörth_, được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche
**SMS _Lothringen**_ là chiếc cuối cùng trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Posen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được đặt lườn tại xưởng tàu Germaniawerft ở Kiel
**SMS _Rheinland**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Rheinland_ được trang bị dàn pháo chính bao gồm mười hai
**SMS _Grosser Kurfürst**_ là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Grosser Kurfürst_ (còn có thể viết là
**SMS _Kurfürst Friedrich Wilhelm**_ là một trong những thiết giáp hạm hoạt động biển khơi đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Con tàu được đặt tên theo Frederick William I, Hoàng
**SMS _Weissenburg**_ là một trong những thiết giáp hạm hoạt động biển khơi đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Nó là chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thứ ba thuộc lớp _Brandenburg_,
**SMS _Wörth**_ là một trong số bốn thiết giáp hạm tiền-dreadnought đi biển đầu tiên thuộc lớp _Brandenburg_, vốn còn bao gồm các chiếc _Kurfürst Friedrich Wilhelm_, _Weißenburg_ và _Brandenburg_, được chế tạo cho Hải
**SMS _Mecklenburg**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Wittelsbach_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu AG Vulcan ở Stettin vào năm 1899 và được hoàn tất
**SMS _Ostfriesland**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ hai trong lớp _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc. _Ostfriesland_ được đặt
**SMS _Helgoland**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Thiết kế
**SMS _Westfalen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Westfalen_ được đặt lườn tại xưởng tàu AG Weser ở Bremen
**HMS _Monarch**_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp _Orion_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**HMS _Agincourt**_ là một thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo vào đầu những năm 1910. Nguyên được Brasil đặt hàng dưới tên gọi _Rio de Janeiro_, nhưng sự sụt giá cao su trên thị
**SMS _Hessen**_ là chiếc thứ ba trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**HMS _King George V**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu cho lớp _King George V_ thứ nhất vốn được chế tạo ngay trước Chiến
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**Lớp _Casablanca**_ là lớp tàu sân bay hộ tống với số lượng tàu sân bay lớn nhất từng được chế tạo, với năm mươi chiếc được đặt lườn, hạ thủy và nhập biên chế trong
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913