✨Kaiser Friedrich III (lớp thiết giáp hạm)

Kaiser Friedrich III (lớp thiết giáp hạm)

Lớp thiết giáp hạm _Kaiser Friedrich III_ là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm năm chiếc, tất cả đều được đặt tên theo các hoàng đế của Đức. Lớp Kaiser Friedrich III bắt đầu đưa ra cách sắp đặt vũ khí truyền thống cho các thiết giáp hạm Đức với bốn khẩu pháo hạng nặng trên hai tháp pháo nòng đôi, nhưng có cỡ nòng tương đối nhỏ hơn so với các thiết giáp hạm đương thời, cho đến khi khai sinh kiểu thiết giáp hạm dreadnought vào đầu những 1900. Chúng cũng tiêu chuẩn hóa việc sử dụng ba trục chân vịt trên thiết giáp hạm.

Kaiser Friedrich III được đặt lườn tại Xưởng hải quân Wilhelmshaven vào tháng 3 năm 1895, được tiếp nối bởi Kaiser Wilhelm II vào tháng 10 năm 1896, cũng tại Wilhelmshaven. Kaiser Wilhelm Der Grosse được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Germania ở Kiel in tháng 1 năm 1898, được tiếp nối bởi Kaiser Barbarossa tại xưởng tàu của hãng Schichau ở Danzig vào tháng 8 năm đó và Kaiser Karl Der Grosse một tháng sau đó vào tháng 9 tại xưởng tàu của hãng Blohm & Voss ở Hamburg. Công việc trên cả năm con tàu đều hoàn tất vào năm 1901

Năm chiếc trong lớp Kaiser Friedrich III được phân về Hải đội 1 của Hạm đội Nhà (Heimatflotte) sau khi được đưa vào hoạt động; và đã tiến hành các đợt cơ động huấn luyện rộng rãi hàng năm cùng với phần còn lại của hạm đội. Sau mười năm phục vụ cùng hạm đội, chúng được thay thế bằng các con tàu mới hơn; và được chuyển sang Hải đội 3 của hạm đội, vốn được tổ chức thành Hạm đội Biển khơi, và được đưa về lực lượng dự bị. Chúng được gọi quay trở lại phục vụ khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, nhưng chỉ có những hoạt động giới hạn trong chiến tranh. Thoạt tiên chúng phục vụ cùng Hải đội 5 cho đến năm 1915, khi được rút về các vai trò phụ trợ, hầu hết là như những tàu giữ tù binh. Sau chiến tranh cho đến năm 1922, cả năm chiếc đều bị lần lượt bị bán để tháo dỡ.

Thiết kế

Kaiser Wilhelm II, Hoàng đế của Đế quốc Đức, tin rằng đất nước cần có một lực lượng hải quân mạnh mẽ để bành trướng ảnh hưởng ra bên ngoài lục địa Châu Âu. Vì vậy, ông khởi phát một chương trình xây dựng lực lượng hải quân vào cuối những năm 1880, và những chiếc thiết giáp hạm đầu tiên được chế tạo chính là bốn chiếc thuộc lớp Brandenburg. Chúng được tiếp nối bởi năm chiếc lớp Kaiser Friedrich III.

Công việc thiết kế lớp Kaiser Friedrich III được bắt đầu vào năm 1892 và kéo dài cho đến năm 1894. Những chiếc trong lớp Kaiser Friedrich III đánh dấu sự thay đổi đáng kể so với lớp thiết giáp hạm Brandenburg dẫn trước. Pháo cỡ nòng lớn với mục đích xuyên thủng vỏ giáp được loại bỏ, thay thế bằng cỡ pháo nòng nhỏ bắn nhanh hơn. Các khẩu pháo này được dự định để san bằng cấu trúc thượng tầng tàu chiến đối phương để làm mất tinh thần đối thủ. Hệ thống động lực được cải tiến và sắp xếp lại để bổ sung thêm một trục chân vịt thứ ba. Tuy nhiên, hệ thống vỏ giáp bảo vệ vẫn tương tự như được áp dụng cho lớp Brandenburg.

Hải quân Đức đánh giá những chiếc này như những con tàu đi biển xuất sắc. Chúng có đường kính bẻ lái hẹp và đáp ứng tốt. Con tàu nghiêng cho đến 15° khi bẻ lái và thời gian nghiêng 12 là giây. Chúng chỉ bị mất ít tốc độ khi biển động nặng, nhưng mất cho đến 40% tốc độ khi bẻ lái gắt. Chiều cao khuynh tâm của các con tàu là . Các con tàu mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm hai xuồng gác, hai xuồng đổ bộ, một xuồng chèo, hai ca-nô, hai xuồng yawl và hai xuồng nhỏ. Con tàu có một thủy thủ đoàn gồm 39 sĩ quan và 612 thủy thủ; và khi phục vụ như là soái hạm của hải đội, chúng được bổ sung thêm 12 sĩ quan và từ 51 đến 63 thủy thủ. trên hai tháp pháo nòng đôi, một phía trước và một phía sau cấu trúc thượng tầng trung tâm. Các khẩu pháo được gắn trên các bệ Drh.L. C/98, cho phép nâng tối đa đến 30° và hạ tối đa đến -5°. Ở góc nâng tối đa, các khẩu pháo có thể bắn đến mục tiêu cách xa . Kiểu pháo này bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn 690 m/s (2.263 ft/s). Chúng có tốc độ bắn 3-4 phát mỗi phút, và mỗi khẩu pháo được cung cấp 75 quả đạn, tức có tổng cộng 300 quả đạn pháo. nhỏ|trái|Thiết giáp hạm SMS Kaiser Barbarossa Dàn pháo hạng hai của các con tàu bao gồm mười tám khẩu hải pháo SK L/40, gồm sáu khẩu đặt trên các tháp pháo đơn giữa tàu và các khẩu còn lại đặt trong các tháp pháo ụ MPL. Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo xuyên thép với tốc độ bắn 4-5 phát; các tháp pháo có thể nâng đến góc 20° và hạ cho đến góc -7°, cho phép có một tầm bắn tối đa , nhưng phải nâng và xoay bằng tay. Chúng có tổng cộng 2.160 quả đạn pháo, tức 120 quả cho mỗi khẩu.

Các con tàu còn mang theo mười hai khẩu pháo SK L/30 Các con tàu còn có 12 khẩu súng máy.

Vỏ giáp

Các con tàu trong lớp Kaiser Friedrich III được trang bị vỏ giáp bằng thép Krupp. Đai giáp chính dày đến ở giữa phần thành trì trung tâm, nơi bố trí những thành phần trọng yếu của con tàu bao gồm các hầm đạn và hệ thống động lực. Chiều dày của đai giáp giảm còn ở phần phía trước và còn ở phần phía trước sau tàu, nhưng không mở rộng đến tận đuôi. Phần bên dưới của đai giáp có độ dày trong khoảng ; toàn bộ chiều dài của đai giáp được lót phía trong một lớp gỗ teak dày . Vỏ giáp sàn tàu dày ở phần ngang. Nó được dự định nhằm thay thế cho chiếc tàu frigate bọc thép cũ Preussen; được đặt lườn vào năm 1895 dưới số hiệu chế tạo 22, Lườn của Kaiser Wilhelm II cũng được đặt tại xưởng tàu Kaiserliche Werft ở Wilhelmshaven vào năm 1896 dưới số hiệu chế tạo 24. Nó được đặt hàng dưới cái tên trong hợp đồng Ersatz Friedrich der Grosse nhằm thay thế cho chiếc tàu frigate bọc thép Friedrich der Grosse. Trong suốt cuộc tập trận, những chiếc trong lớp ngoại trừ Kaiser Wilhelm II đã hoạt động như "lực lượng đối phương"; trong vai trò soái hạm của hạm đội Kaiser Wilhelm II tiếp đón vua Wilhelm II thị sát nhiều trận đánh giả và phục vụ như điểm quan sát cho ban tham mưu cao cấp.

Từ năm 1907 đến năm 1910, ngoại trừ Kaiser Karl der Grosse, những chiếc còn lại trong lớp được tái trang bị rộng rãi. Trong quá trình hiện đại hóa, cấu trúc thượng tầng của chúng được cắt ngắn, đồng thời tháo dỡ bốn khẩu pháo 15 cm và một ống phóng ngư lôi. Các khẩu pháo 8,8 cm được tái bố trí lên sàn trên nơi các khẩu 15 cm được đặt. Ngoài ra các ống khói cũng được kéo dài.

Đến năm 1911, hạm đội được tái tổ chức thành Hạm đội Biển khơi, đồng thời các thiết giáp hạm dreadnought cũng bắt đầu được đưa vào hoạt động. Kết quả là những chiếc thuộc lớp Kaiser Friedrich III được chuyển sang Hải đội 3, rồi được đưa về lực lượng dự bị. Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914, cả năm chiếc trong lớp được gọi trở lại phục vụ và được bố trí về Hải đội 5 của hạm đội. Vào tháng 2 năm 1915, các con tàu được rút khỏi hoạt động thường trực lần thứ hai. Chúng được tháo bỏ vũ khí vào năm 1916 để chuyển sang các vai trò thứ yếu. Kaiser Wilhelm der Grosse trở thành một tàu huấn luyện ngư lôi trong khi Kaiser Wilhem II trở thành sở chỉ huy nổi cho Tư lệnh Hạm đội Biển khơi tại Wilhelmshaven. Ba con tàu kia trở thành những trại giam tù binh nổi. Đến năm 1917, Kaiser Friedrich III được chuyển sang vai trò tàu trại binh tại Flensburg. Tất cả các con tàu ngoại trừ Kaiser Wilhelm II được rút khỏi Đăng bạ Hải quân vào ngày 6 tháng 12 năm 1919 và bị bán để tháo dỡ. Kaiser Wilhelm II tiếp nối theo vào ngày 17 tháng 3 năm 1921. Đến năm 1922, cả năm con tàu đều được tháo dỡ. Biểu trưng trước mũi tàu của Kaiser Friedrich IIIKaiser Wilhelm II được bảo tồn tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Liên bang tại Dresden.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser Friedrich III**_ là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm năm chiếc, tất cả đều
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**Lớp thiết giáp hạm _Wittelsbach**_ bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine). Chúng là những thiết giáp hạm đầu tiên được chế tạo theo Đạo luật Hải
**Lớp thiết giáp hạm _Brandenburg**_ bao gồm bốn chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought đi biển đầu tiên của Hải quân Đế quốc Đức. Chúng cũng là những tàu chiến đầu tiên thuộc mọi kiểu tàu
**Lớp thiết giáp hạm _Helgoland**_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: _Helgoland_, _Ostfriesland_,
**Lớp thiết giáp hạm _Nassau**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức; là sự đáp trả của Đức đối với việc Hải quân Hoàng gia
**SMS _Kaiser Friedrich III**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**SMS _Kaiser Wilhelm der Grosse**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang
Những chiếc [[Dreadnought trong Hạm đội biển cao đang trong tư thế hàng ngũ|alt=A line of nine large gray battleships stretches into the distance, all belching dark black smoke from their funnels]] Hải quân Đức—
**SMS _Kaiser Barbarossa**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ 20. _Kaiser
**SMS _Kurfürst Friedrich Wilhelm**_ là một trong những thiết giáp hạm hoạt động biển khơi đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Con tàu được đặt tên theo Frederick William I, Hoàng
**SMS _Kaiser Wilhelm II**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ 20.
**SMS _Kaiser Karl der Grosse**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ
**SMS _Brandenburg**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Brandenburg_, vốn còn bao gồm các chiếc _Kurfürst Friedrich Wilhelm_, _Weißenburg_ và _Wörth_, được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche
**SMS _Wörth**_ là một trong số bốn thiết giáp hạm tiền-dreadnought đi biển đầu tiên thuộc lớp _Brandenburg_, vốn còn bao gồm các chiếc _Kurfürst Friedrich Wilhelm_, _Weißenburg_ và _Brandenburg_, được chế tạo cho Hải
**SMS _Rheinland**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Rheinland_ được trang bị dàn pháo chính bao gồm mười hai
**SMS _Weissenburg**_ là một trong những thiết giáp hạm hoạt động biển khơi đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Nó là chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thứ ba thuộc lớp _Brandenburg_,
**SMS _Posen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được đặt lườn tại xưởng tàu Germaniawerft ở Kiel
**SMS _Westfalen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Westfalen_ được đặt lườn tại xưởng tàu AG Weser ở Bremen
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**Carl Friedrich Heinrich Reinhard Scheer** (30 tháng 9 năm 1863 – 26 tháng 11 năm 1928) là một Đô đốc của Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_). Scheer gia nhập hải quân vào năm
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng