✨Nassau (lớp thiết giáp hạm)
Lớp thiết giáp hạm _Nassau_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức; là sự đáp trả của Đức đối với việc Hải quân Hoàng gia Anh đưa ra hoạt động chiếc thiết giáp hạm "toàn-súng-lớn" Dreadnought mang tính cách mạng. Lớp bao gồm các chiếc Nassau, Rheinland, Posen và Westfalen; cả bốn chiếc đều được đặt lườn vào giữa năm 1907 và hoàn tất từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1910. So với những thiết giáp hạm Anh Quốc đương thời, những chiếc trong lớp Nassau nhẹ hơn và có chiều rộng mạn thuyền lớn hơn. Tuy nhiên, chúng chậm hơn hai knot (hải lý mỗi giờ), vì những con tàu Đức giữ lại kiểu động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc so với kiểu động cơ turbine hơi nước công suất mạnh hơn của Anh. Những con tàu này cũng mang cỡ pháo chính nhỏ hơn, 11 inch (280 mm) thay vì cỡ 12 inch (305 mm) trang bị trên các con tàu Anh.
Sau khi được đưa ra hoạt động cùng Hạm đội Đức, cả bốn chiếc đã phục vụ như một đơn vị: Đội II thuộc Hải đội Thiết giáp I. Nassau và Posen đã tham gia Trận chiến vịnh Riga bất phân thắng bại vào năm 1915, khi chúng đối đầu với thiết giáp hạm tiền-dreadnought Slava của Nga. Những chiếc trong lớp Nassau đã tham gia trận Jutland vào ngày 31 tháng 5-1 tháng 6 năm 1916 trong thành phần Hải đội Thiết giáp II; chúng chỉ bị hư hại nhẹ từ một số ít phát đạn pháo hạng hai bắn trúng cùng một số thương vong giới hạn. Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc, cả bốn chiếc đều bị phe Đồng Minh thắng trận chiếm giữ như những chiến lợi phẩm, và được bán để tháo dỡ.
Thiết kế
Việc phát triển
Vào năm 1906, việc đưa vào hoạt động chiếc thiết giáp hạm "toàn-súng-lớn" Dreadnought đã khiến mọi thiết giáp hạm đang hiện hữu trở nên lạc hậu. Trong Bản Tu chính Hải quân Thứ nhất dành cho Đạo luật Hải quân Đức năm 1900 được thông qua vào năm 1906 trước khi Dreadnought được hạ thủy, Đô đốc Alfred von Tirpitz thoạt tiên yêu cầu sáu thiết giáp hạm và sáu tàu tuần dương bọc thép mới, cùng một số tàu tiện ích nhỏ. Việc hạ thủy chiếc Dreadnought mang tính cách mạng có nghĩa là mọi tàu chiến trong tương lai muốn cạnh tranh với nó sẽ đắt tiền hơn đáng kể so với những thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ hơn. Thái độ phản đối việc gia tăng ngân sách của Quốc hội Đế chế Đức buộc Tirpitz phải giảm bớt yêu cầu của mình còn sáu tàu tuần dương bọc thép, trong đó một chiếc được đặt trong tình trạng dự bị, và 48 tàu phóng lôi, loại bỏ hoàn toàn yêu cầu đóng thiết giáp hạm mới; yêu cầu đã giảm bớt này được thông qua vào ngày 19 tháng 5 năm 1906. Tuy nhiên, một tuần sau khi tu chính luật được thông qua, ngân khoản dành cho hai thiết giáp hạm tải trọng 18.000 tấn và một tàu tuần dương bọc thép tải trọng 15.000 tấn được cấp cho Hải quân. Ngân quỹ cũng được cấp cho việc mở rộng kênh đào Kaiser Wilhelm và nâng cấp các cơ sở ụ tàu để thu nhận những con tàu lớn hơn.
Một cuộc tranh luận nổ ra tại Văn phòng Hải quân (Reichsmarineamt) trong việc chế tạo các con tàu mới. Tirpitz chuộng việc theo đuổi Hải quân Hoàng gia Anh bằng cách cũng chế tạo thiết giáp hạm dreadnought và tàu chiến-tuần dương; ông xem đây là một cơ hội để phá vỡ chính sách "tiêu chuẩn hai thế lực" của Anh. Tirpitz cũng có ý định sử dụng ngân sách dành cho tàu tuần dương bọc thép để chế tạo tàu chiến-tuần dương thay thế, cho dù chúng vẫn phải được xếp loại như tàu tuần dương bọc thép. Bản Tu chính Hải quân Thứ hai được thông qua vào ngày 27 tháng 3 năm 1908; bao gồm một ngân khoản 1 tỉ mark, và cho phép giảm tuổi đời hoạt động của thiết giáp hạm từ 25 năm xuống còn 20 năm. Điều này có hiệu lực đưa đến việc cần thay thế các hải phòng hạm thuộc các lớp Siegfried và Oldenburg cũng như các thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp Brandenburg. Lớp tàu frigate bọc thép Sachsen (được đưa ra sử dụng vào cuối những năm 1870) cũng cần được thay thế, vì chúng rõ ràng đã lạc hậu cho dù dưới tiêu chuẩn 25 năm. Bốn chiếc lớp Sachsen được thay thế bởi lớp Nassau. Cặp tàu thứ hai trong lớp Nassau: Posen và Rheinland, được đặt hàng trong chương trình chế tạo 1907–1908. Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Các con tàu có 19 ngăn kín nước, ngoại trừ Nassau chỉ có 16 ngăn. Cả bốn con tàu đều có đáy tàu kép chiếm 88% lườn tàu. Các con tàu mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm một xuồng gác, ba xuồng đô đốc, hai xuồng đổ bộ, hai ca-nô và hai xuồng nhỏ.
Lúc thiết kế, các con tàu vận hành không được tốt ngay cả khi biển lặng, chuyển động cứng đơ. Chúng mắc phải sự lật nghiêng nặng do trọng lượng các tháp pháo hai bên mạn. Các tháp pháo mạn khiến các con tàu có chiều cao khuynh tâm lớn, vốn tạo cho chúng thành một bệ pháo rất vững chắc, nhưng chu kỳ chòng chành của chúng lại trùng hợp với chiều cao sóng trung bình của Bắc Hải. Sau này những sống dưới lườn tàu được bổ sung, giúp cải thiện vấn đề lật nghiêng, nhưng lại góp phần vào việc mất tốc độ khi bẻ lái gắt. Cho dù có xu hướng bị lật, lớp Nassau có khả năng cơ động và có đường kính xoay vòng nhỏ. Chúng chịu đựng sự mất tốc độ đôi chút khi biển động, nhưng lên đến 70% khi bẻ lái gắt. Vì vậy lớp Nassau giữ lại loại động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc đã lạc hậu công suất 22.000 mã lực;
Hơi nước được cung cấp bởi 12 nồi hơi Schulz-Thornycroft, Điện năng cho con tàu được cung cấp bởi tám máy phát turbine, tạo ra công suất 1.280 kW điện xoay chiều 225 V. Do không có đủ dung lượng hầm đạn để hỗ trợ các tháp pháo bắn thượng tầng bố trí theo trục dọc, các nhà thiết kế buộc phải phân bố sáu tháp pháo chính trên một hình lục giác khá bất thường. Hai tháp pháo nòng đôi được đặt trước và sau, cùng hai tháp pháo mỗi bên mạn. Các tháp pháo bên mạn thuộc kiểu Drh LC/1906, tương tự như hai tháp pháo trên trục dọc của hai chiếc đầu tiên trong lớp Nassau và Westfalen. Riêng Posen và Rheinland mang kiểu tháp pháo Drh LC/1907 trên trục dọc, có thân dài hơn so với thiết kế của LC/1906. Hầm chứa thuốc phóng được đặt bên trên hầm chứa đầu đạn, ngoại trừ những tháp pháo đặt trên trục dọc của Nassau và Westfalen. Ở khoảng cách , đạn pháo AP 11 inch có thể xuyên thủng vỏ giáp dày đến . Chiếc đầu tiên trong lớp, Nassau, được đặt lườn vào ngày 22 tháng 7 năm 1907 tại xưởng tàu Kaiserliche Werft ở Wilhelmshaven, được hạ thủy vào ngày 7 tháng 3 năm 1908, và đưa ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày 1 tháng 10 năm 1909. Westfalen được đặt lườn không đầy một tháng sau đó, vào ngày 12 tháng 8 năm 1907 tại xưởng tàu AG Weser ở Bremen. Con tàu được hạ thủy vào ngày 1 tháng 7 năm 1908, và đưa ra hoạt động vào ngày 16 tháng 11 năm 1909.
Rheinland, chiếc thứ ba trong lớp, thực ra là chiếc đầu tiên được đặt lườn vào ngày 1 tháng 6 năm 1907 tại xưởng tàu AG Vulcan ở Stettin. Việc chế tạo Rheinland tiến triển chậm hơn Nassau và Westfalen, nên nó được hạ thủy trễ hơn vào ngày 26 tháng 9 năm 1908, và nó gia nhập hạm đội vào ngày 30 tháng 4 năm 1910. Posen, chiếc cuối cùng trong lớp, được đặt lườn tại xưởng tàu Germaniawerft ở Kiel vào ngày 11 tháng 6 năm 1907. Con tàu được hạ thủy vào ngày 12 tháng 12 năm 1908, và chỉ tham gia cùng các tàu chị em vào ngày 31 tháng 5 năm 1910.
Lịch sử hoạt động
nhỏ|phải|Westfalen trên đường đi trước năm [[1917|alt=A large warship steams at low speed; gray smoke drifts from the two smoke stacks]] Những chiếc trong lớp Nassau đã phục vụ như một đơn vị của Hạm đội Biển khơi Đức: Đội II thuộc Hải đội Thiết giáp I. Chúng đã tham gia một số hoạt động của Hạm đội tại Bắc Hải, bao gồm hoạt động vào ngày 31 tháng 5 năm 1916 vốn đã đưa đến trận Jutland. Các con tàu cũng có những hoạt động giới hạn trong biển Baltic, trong đó có Trận chiến vịnh Riga bị bỏ dỡ vào tháng 8 năm 1915.
Trận chiến vịnh Riga
Vào tháng 8 năm 1915, Hải quân Đức tìm cách quét sạch vịnh Riga tạo điều kiện cho Lục quân đức chiếm Riga. Kế hoạch của Đức dự định đánh đuổi hoặc tiêu diệt lực lượng Hải quân Nga trong vịnh, bao gồm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought Slava cùng một số pháo hạm và tàu khu trục, và để rải một loạt các bãi mìn ở lối ra vào phía Bắc của vịnh. Hạm đội được tập trung để tấn công bao gồm bốn thiết giáp hạm lớp Nassau, bốn chiếc lớp Helgoland cùng các tàu chiến-tuần dương Von der Tann, Moltke và Seydlitz. Tám chiếc thiết giáp hạm làm nhiệm vụ hỗ trợ cho lực lượng đối đầu cùng hạm đội Nga. Nỗ lực đầu tiên vào ngày 8 tháng 8 đã không thành công, vì đã mất quá lâu để dọn sạch các bãi mìn Nga nhằm cho phép Deutschland rải bãi mìn của chính nó.
Vào ngày 16 tháng 8, một nỗ lực thứ hai được thực hiện nhằm tìm cách xâm nhập vào vịnh: Nassau và Posen cùng với bốn tàu tuần dương hạng nhẹ và 31 tàu phóng lôi đã vượt qua vòng phòng thủ vịnh. Vào ngày tấn công đầu tiên, tàu quét mìn Đức T 46 cùng tàu khu trục V 99 bị đánh chìm. Sang ngày 17 tháng 8, Nassau và Posen tham gia vào cuộc đấu pháo với Slava, bắn trúng ba phát vào con tàu Nga buộc nó phải rút lui. Sau ba ngày, các bãi mìn Nga được vớt sạch, và phân hạm đội tiến vào vịnh ngày 19 tháng 8, nhưng những báo cáo về sự xuất hiện của tàu ngầm Đồng Minh trong khu vực đã buộc lực lượng Đức rút khỏi vịnh một ngày sau đó.
Trận Jutland
nhỏ|phải|Một bản vẽ nhận dạng do Hải quân Hoàng gia Anh thực hiện, với dàn pháo chính của Nassau quay sang mạn phải Những chiếc trong lớp Nassau đã tham gia Trận Jutland vào ngày 31 tháng 5–1 tháng 6 năm 1916. Trong hầu hết thời gian của trận chiến, Hải đội Thiết giáp I hình thành nên phần trung tâm của hàng chiến trận, phía sau Hải đội Thiết giáp III dưới quyền Chuẩn Đô đốc Behncke, và được nối gót bởi các thiết giáp hạm tiền-dreadnought già cỗi thuộc Hải đội Thiết giáp II của Chuẩn Đô đốc Mauve. Posen đã phục vụ như là soái hạm của đội tàu dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc W. Engelhardt.
Khoảng nữa đêm ngày 1 tháng 6, Nassau bắt gặp tàu khu trục Anh Spitfire, và trong cảnh hỗn loạn, đã tìm cách húc vào nó. Spitfire tìm cách né tránh, nhưng không thể cơ động đủ nhanh, và hai con tàu bị va chạm. Nassau ngắm các khẩu pháo 11 inch phía trước vào chiếc tàu khu trục, nhưng không thể hạ đủ thấp để bắn trúng; dù sao, vụ nổ của phát đạn pháo cũng phá hủy cầu tàu của Spitfire. Lúc đó, Spitfire có thể tách khỏi Nassau, mang theo nó một phần vách hông của Nassau dài 20 ft (6 m). Vụ va chạm làm hỏng một khẩu pháo 5,9 inch, để lại một lỗ hổng 3,5 m (11,5 ft) bên trên mực nước; làm chậm con tàu còn 15 knot cho đến khi nó có thể được sửa chữa. Hầu như cùng lúc đó, Posen vô tình va phải tàu tuần dương hạng nhẹ Elbing làm thủng một lỗ bên dưới mực nước. Phòng động cơ của Elbing hoàn toàn ngập nước khiến nó không thể di chuyển; và bị hư hại nặng đến mức thuyền trưởng của Elbing phải ra lệnh đánh đánh đắm nó để không rơi vào tay người Anh.
Không lâu sau 01 giờ 00, Nassau và Thüringen đụng độ với tàu tuần dương bọc thép Anh Black Prince. Thüringen khai hỏa trước tiên, phá hủy Black Prince với tổng cộng 27 quả đạn pháo hạng nặng và 24 quả đạn pháo hạng hai. Nassau và Ostfriesland tham gia sau đó, rồi được nối gót bởi Friedrich der Grosse.
Xác con tàu đắm nằm ngay trên hướng đi của Nassau; để né tránh, con tàu phải bẻ lái gắt về phía Hải đội Thiết giáp III. Con tàu đã cần phải chạy lui hết tốc độ để tránh va chạm với Kaiserin. Sau đó Nassau tụt lại một vị trí phía sau giữa hai thiết giáp hạm tiền-dreadnought Hessen và Hannover. Những chiếc thuộc lớp Nassau chỉ phải chịu một ít phát bắn trúng từ dàn hỏa lực hạng hai của Hạm đội Grand đối địch: Nassau trúng hai phát, Westfalen và Rheinland mỗi chiếc một, còn Posen thoát được tuyệt đối an toàn; không có chiếc nào trúng phải pháo hạng nặng của đối phương.
Các hoạt động sau cùng
Không đầy ba tháng sau trận Jutland, Westfalen trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm Anh HMS E23 vào ngày 19 tháng 8 năm 1916, nhưng chỉ bị hư hại nhẹ và được sửa chữa không lâu sau đó. Đến năm 1918, Westfalen và Rheinland được cho tách khỏi Hạm đội Biển khơi để di chuyển đến biển Baltic. Phần Lan đang trong một cuộc nổi dậy chống sự cai trị của Nga, và hai chiếc tàu chiến được phái đến trợ giúp người Phần Lan trong cuộc nội chiến tại đây. Những chiếc thuộc các lớp Nassau và Helgoland được để lại Đức. Sau vụ Đánh đắm Hạm đội Đức tại Scapa Flow vào tháng 6 năm 1919, cả bốn chiếc Nassau đều được phân chia cho phe Đồng Minh thắng trận như những chiến lợi phẩm thay thế cho những con tàu bị đánh chìm. Nassau được nhường cho Nhật Bản, Anh Quốc nhận Westfalen và Posen, còn Rheinland được đưa thẳng đến nơi tháo dỡ tại Dordrecht. Từ năm 1920 đến năm 1924, Westfalen được tháo dỡ tại Birkenhead trong khi những chiếc còn lại được tháo dỡ tại Dordrecht.