✨Wittelsbach (lớp thiết giáp hạm)
Lớp thiết giáp hạm _Wittelsbach_ bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine). Chúng là những thiết giáp hạm đầu tiên được chế tạo theo Đạo luật Hải quân Đức năm 1898, bao gồm Wittelsbach, Wettin, Zähringen, Schwaben và Mecklenburg. Cả năm chiếc đều được đặt lườn giữa các năm 1899-1900, và hoàn tất vào năm 1904. Chúng có hình dáng bên ngoài tương tự như của lớp Kaiser Friedrich III dẫn trước, nhưng có một sàn tàu chính phẳng thay vì sàn tàu phía đuôi thấp hơn như trên lớp Kaiser Friedrich III, và có một đai giáp được mở rộng hơn. Vũ khí trang bị hầu như tương tự, cho dù được sắp xếp hiệu quả hơn.
Các con tàu được đưa ra hoạt động cùng hạm đội Đức từ năm 1902 đến năm 1904, nơi chúng gia nhập Hải đội Chiến trận 1. Chúng nhanh chóng bị lạc hậu bởi sự ra đời của chiếc Dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh vào năm 1906. Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914, những chiếc trong lớp Wittelsbach đã không còn phù hợp cho các hoạt động nơi tuyến đầu, mặc dù cũng có những hoạt động giới hạn tại biển Baltic chống lại Hải quân Nga. Vào năm 1916, cả năm chiếc trong lớp được giải giáp để phục vụ trong các vai trò thứ yếu. Wittelsbach, Wettin và Schwaben trở thành những tàu huấn luyện, Mecklenburg là một tàu giữ tù binh và sau đó là một tàu trại lính nổi, trong khi Zähringen trở thành một tàu mục tiêu. Tất cả ngoại trừ Zähringen đều bị tháo dỡ vào năm 1921-1922, Zähringen được tái cấu trúc thành một tàu mục tiêu điều khiển bằng vô tuyến vào giữa những năm 1920. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó bị hư hại nặng trong một cuộc không kích vào năm 1944 và bị đánh đắm vào những ngày cuối cùng của chiến tranh. Xác tàu đắm của nó sau cùng được tháo dỡ tại chỗ vào các năm 1949-1950.
Thiết kế
Những chiếc trong lớp Wittelsbach là những thiết giáp hạm đầu tiên được chế tạo theo Đạo luật Hải quân Đức thứ nhất năm 1898. Các con tàu cũng có khả năng phòng thủ được cải thiện, nhờ có đai giáp được mở rộng hơn. Khác biệt chính về kiểu dáng so với lớp dẫn trước là toàn bộ chiều dài của sàn tàu chính đều phẳng, trong khi sàn phía sau của lớp Kaiser Friedrich III được đặt thấp hơn.
Các đặc tính chung
Những chiếc trong lớp Wittelsbach có chiều dài ở mực nước là và chiều dài chung , mạn thuyền rộng , và độ sâu của mớn nước là ở phía trước. Lớp Wittelsbach được thiết kế với trọng lượng choán nước thông thường là , và lên đến khi đầy tải nặng. Lườn tàu được cấu trúc bởi các khung thép ngang và dọc, và các tấm thép được đinh tán vào các cấu trúc khung đó. Con tàu được chia ra 14 ngăn kín nước và có một đáy kép kéo dài 70% chiều dài lườn tàu.
Lớp Wittelsbach được Hải quân Đức đánh giá như những con tàu đi biển xuất sắc và dễ nghiêng khi bẻ lái; chúng nghiêng cho đến 30° trong vòng 10 giây. Chúng cơ động dễ dàng, mất cho đến 60% tốc độ và nghiêng trên 9° khi bẻ lái. Tuy nhiên, chúng mắc phải sự rung động nặng, nhất là ở phần đuôi, khi di chuyển tốc độ cao; đồng thời mũi tàu rất ướt ngay cả khi biển động vừa. Con tàu có một thủy thủ đoàn gồm 33 sĩ quan và 650 thủy thủ; khi phục vụ như là soái hạm của hải đội, chúng được bổ sung thêm 13 sĩ quan và 66 thủy thủ, và khi hoạt động như tàu chỉ huy thứ hai, chúng có thêm 9 sĩ quan và 44 thủy thủ. Wittelsbach và các tàu chị em mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm hai xuồng gác, hai xuồng đổ bộ, một xuồng chèo, hai ca-nô, hai xuồng yawl và hai xuồng nhỏ.
Động lực
Những chiếc trong lớp Wittelsbach được vận hành bởi ba động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc. Các động cơ phía ngoài dẫn động một chân vịt ba cánh có đường kính ; trong khi trục giữa nối với một chân vịt bốn cánh hơi nhỏ hơn với đường kính . Hơi nước được cung cấp bởi sáu nồi hơi hình trụ ngang và sáu nồi hơi kiểu Marine, ngoại trừ Wettin và Mecklenburg thay kiểu nồi hơi Marine bằng kiểu nồi hơi Thornycroft. Con tàu được điều khiển bởi một bánh lái lớn duy nhất. bố trí trên hai tháp pháo nòng đôi, một phía trước và một phía sau của cấu trúc thượng tầng. Các khẩu pháo được đặt trên các bệ Drh.L. C/98, cho phép nâng lên đến 30° và hạ xuống đến −5°. Ở góc nâng tối đa, các khẩu pháo có thể bắn đến mục tiêu cách xa . Kiểu pháo này bắn ra đạn pháo nặng với lưu tốc đầu đạn 690 m/s (2.263 ft/s). Chúng có tốc độ bắn 3-4 phát mỗi phút, và được cung cấp tổng cộng 340 quả đạn pháo, tức 85 quả đạn cho mỗi khẩu pháo. nhỏ|trái|Wittelsbach trước chiến tranh Dàn pháo hạng hai của các con tàu bao gồm mười tám khẩu hải pháo SK L/40, gồm bốn khẩu đặt trên các tháp pháo đơn giữa tàu và các khẩu còn lại đặt trong các tháp pháo ụ MPL. Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo xuyên thép với tốc độ bắn 4-5 phát; các tháp pháo có thể nâng đến góc 20° và hạ cho đến góc -7°, cho phép có một tầm bắn tối đa , nhưng phải nâng và xoay bằng tay. Chúng có tổng cộng 2.160 quả đạn pháo, tức 120 quả cho mỗi khẩu.
Các con tàu còn mang theo mười hai khẩu pháo SK L/30 Các con tàu còn có 12 khẩu súng máy.
Vỏ giáp
Các con tàu trong lớp Wittelsbach được trang bị vỏ giáp bằng thép Krupp. Vỏ giáp sàn tàu dày ở phần ngang và ở phần nghiêng, tiếp nối với đai giáp. Đai giáp chính dày đến ở giữa phần thành trì trung tâm, nơi bố trí những thành phần trọng yếu của con tàu bao gồm các hầm đạn và hệ thống động lực. Chiều dày của đai giáp giảm còn ở hai đầu thành trì trung tâm, trong khi mũi tàu và đuôi tàu hoàn toàn không có giáp bảo vệ. Toàn bộ chiều dài của đai giáp được lót phía trong một lớp gỗ teak dày . Nó được đặt lườn tại xưởng tàu Kaiserliche tại Wilhelmshaven vào năm 1899 dưới số hiệu chế tạo 25,
Giống như những chiếc thuộc lớp Kaiser Friedrich III, lớp Wittelsbach được rút khỏi hoạt động nơi tuyến đầu sau sự ra đời của những chiếc dreadnought; tuy nhiên chúng được gọi trở lại phục vụ sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914. Vào đầu tháng 9 năm 1914, các con tàu thực hiện một đợt càn quét không kết quả vào biển Baltic chống lại lực lượng Hải quân Nga đang hoạt động tại đây. Đến tháng 5 năm 1915, bốn chiếc trong lớp Wittelsbach tiến vào biển Baltic bắn phá Libau, vốn sau đó bị Lục quân Đức chiếm đóng. Cả năm chiếc đã di chuyển đến Libau trong Trận chiến vịnh Riga vào tháng 8 năm 1915, cho dù chúng không tham gia tác chiến trong trận này.
Tàu ngầm Anh bắt đầu hoạt động tích cực tại biển Baltic vào cuối năm 1915; nhiều tàu tuần dương đã bị đánh đắm, nên những chiếc trong lớp Wittelsbach không thể chịu đựng thêm rủi ro tại đây. Do đã cũ kỹ và mong manh, chúng được rút khỏi hoạt động và giải giáp vào năm 1916. Các con tàu được sử dụng làm tàu huấn luyện, ngoại trừ Mecklenburg được dùng làm tàu giữ tù binh. Đến năm 1919, Wittelsbach và Schwaben được cải biến thành tàu kho chứa tiếp liệu cho các tàu quét mìn. Toàn bộ những chiếc trong lớp, ngoại trừ Zähringen, được rút khỏi Đăng bạ Hải quân sau khi chiến tranh kết thúc: Mecklenburg vào ngày 27 tháng 1 năm 1920, Wettin tiếp nối vào ngày 11 tháng 3 năm 1920, Wittelsbach và Schwaben vào ngày 8 tháng 3 năm 1921. Cả bốn con tàu bị tháo dỡ trong những năm 1921-1922. Zähringen được cải biến thành một tàu nmục tiêu điều khiển bằng vô tuyến trong những năm 1926-1927. Máy bay ném bom của Không quân Hoàng gia Anh đã đánh chìm nó tại Gotenhafen vào năm 1944; xác đắm của con tàu bị tháo dỡ tại chỗ trong những năm 1949-1950.