✨Braunschweig (lớp thiết giáp hạm)

Braunschweig (lớp thiết giáp hạm)

Lớp thiết giáp hạm _Braunschweig_ là những thiết giáp hạm tiền-dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào những năm đầu tiên của thế kỷ 20. Lớp bao gồm năm chiếc: Braunschweig, Elsass, Hessen, PreussenLothringen. Các con tàu này là một sự cải tiến so với lớp thiết giáp hạm Wittelsbach dẫn trước; được trang bị một dàn pháo chính mạnh hơn, nhanh hơn 2 knot (hải lý mỗi giờ) và có vỏ giáp bảo vệ tốt hơn.

Cả năm chiếc trong lớp đều đã tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, chủ yếu như những tàu phòng thủ duyên hải thuộc Hải đội Chiến trận 4. Hessen được điều sang Hải đội Chiến trận 2 vào năm 1916 và đã tham gia trận Jutland vào ngày 31 tháng 5-1 tháng 6 năm 1916. Tất cả đều được phép giữ lại cho Hải quân Đức sau khi Đức thua trận, và tiếp tục phục vụ trong những vai trò khác nhau. Hessen cuối cùng được tái cấu trúc như một tàu mục tiêu điều khiển từ xa bằng vô tuyến, trong khi PreussenLothringen được cải biến thành những tàu tiếp liệu cho tàu quét mìn. Tất cả mọi chiếc ngoại trừ Hessen đều bị tháo dỡ trong những năm 1930; Hessen sống sót cho đến tận cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, khi nó bị Hải quân Liên Xô chiếm và tiếp tục sử dụng như một tàu mục tiêu cho đến đầu những năm 1960.

Thiết kế

Các đặc tính chung

nhỏ|trái|Thiết giáp hạm Hessen vào năm 1926 Những chiếc trong lớp Braunschweig có chiều dài ở mực nước là và chiều dài chung là . Chúng có mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Các con tàu có 13 ngăn kín nước cùng một đáy kép chiếm 60% chiều dài của lườn tàu. Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn là , và lên đến khi đầy tải.

Các con tàu được mô tả là những tàu đi biển tốt, nhưng có xu hướng lật nghiêng nặng. Chúng dễ đáp ứng và có đường kính quay vòng nhỏ ở tốc độ chậm, nhưng khi bẻ lái 12° con tàu mất đến 70% tốc độ. Thủy thủ đoàn thông thường của các con tàu bao gồm 35 sĩ quan và 708 thủy thủ, và khi đảm nhiệm vai trò soái hạm của hải đội, chúng được bổ sung thêm 13 sĩ quan và 66 thủy thủ. ác con tàu mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm hai xuồng gác, hai xuồng đổ bộ, một xuồng máy (sau được tháo dỡ), hai ca-nô, hai xuồng yawl và hai xuồng nhỏ.

Động lực

Những chiếc trong lớp Braunschweig được vận hành bởi ba động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc công suất . Hơi nước được cung cấp bởi tám nồi hơi kiểu Marine và sáu nồi hơi hình trụ. Sau năm 1915, khả năng đốt đầu được bổ sung để bổ trợ cho các nồi hơi đốt than. Các con tàu có một bánh lái duy nhất và ba chân vịt. Các chân vịt phía ngoài có ba cánh, đường kính , trong khi chân vịt trung tâm có bốn cánh với đường kính . Tốc độ tối đa của các con tàu là ; tuy nhiên, khi chạy thử máy, động cơ đã đạt đến công suất , và tốc độ tối đa đạt đến . Các con tàu trong lớp có thể di chuyển ở tốc độ đi đường trường , ngoại trừ Hessen; Hessen bị ảnh hưởng bởi bánh lái không ổn định, vốn đưa đến việc gia tăng tiêu hao nhiên liệu khiến chỉ có tầm hoạt động ở tốc độ . Hai chiếc dẫn đầu của lớp BraunschweigElsass có bốn máy phát điện với công suất 230 kW (74 V), trong khi ba chhiếc tiếp theo Hessen, PreussenLothringen có bốn máy phát turbine cung cấp 260 kW (110 V). Dàn pháo chính bao gồm bốn khẩu pháo SK L/40 bắn nhanh đặt trên hai tháp pháo nòng đôi, được tăng lên từ cỡ pháo của lớp dẫn trước, nhưng yếu so với cỡ pháo trên nhiều chiếc của nước ngoài. Các khẩu pháo này có thể hạ đến -4° và nâng đến góc 30°, cho phép có một tầm bắn tối đa . Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo nặng ở lưu tốc đầu đạn 820 m/s (2.690 ft/s).

Lịch sử hoạt động

Chiến tranh Thế giới thứ nhất

nhỏ|trái|Những chiếc thuộc các lớp Braunschweig và [[Deutschland (lớp thiết giáp hạm)|Deutschland trong thành phần Hải đội Chiến trận II tại Bắc Hải]] Vào lúc bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất, những thành viên thuộc lớp Braunschweig đang được phân về Hải đội Chiến trận 4 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Erhard Schmidt với những nhiệm vụ phòng thủ duyên hải. BraunschweigElsaß đều đã tham dự giai đoạn đầu của Trận chiến vịnh Riga; chúng đã giữ chân thiết giáp hạm tiền-dreadnought Slava trong vịnh trong khi các bãi mìn của Nga được rà quét. Tuy nhiên, lực lượng Nga đã kháng cự quyết liệt. Đô đốc Schmidt quyết định rút lui lực lượng dưới quyền khi rõ ràng là việc quét mìn kéo dài quá lâu, và không đủ thời gian trời sáng còn lại cho tàu quét mìn Deutschland rải bãi mìn của chính nó. Đến năm 1916, Hessen được điều về Hải đội Chiến trận 2, và đã tham gia trận Jutland trong các ngày 31 tháng 5-1 tháng 6 năm 1916; cùng với các thiết giáp hạm tiền-dreadnought khác thuộc Hải đội 2 đối đầu trong một lúc ngắn với Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 Anh Quốc dưới quyền Phó Đô đốc David Beatty, nhờ đó đã giúp bảo vệ cho việc rút lui các tàu chiến-tuần dương Đức đã bị đánh tơi tả dưới quyền Đô đốc Franz von Hipper.

Bắt đầu từ năm 1916, những chiếc trong lớp Braunschweig được cho rút khỏi hoạt động ngoài mặt trận, chủ yếu là do thiếu hụt nhân sự. Braunschweig được sử dụng như một tàu huấn luyện, và vào ngày 20 tháng 8 năm 1917 được cải biến thành một tàu trại binh tại Kiel. Elsaß cũng được sử dụng như một tàu trại binh và huấn luyện tại Kiel, được rút khỏi phục vụ ngoài mặt trận vào ngày 25 tháng 7 năm 1916. Hessen được cải biến thành một tàu kho chứa tại Brunsbüttel vào năm 1917, trong khi Preussen trở thành một tàu kho chứa tại Wilhelmshaven cùng năm đó. Lothringen được rút khỏi phục vụ vào năm 1917 được sử dụng như một tàu huấn luyện kỹ sư tại Wilhelmshaven.

Sau chiến tranh

nhỏ|phải|Preussen vào năm [[1932, sau khi được cải biến thành một tàu kho chứa.]] Vì mọi chiếc thiết giáp hạm dreadnought hiện đại của Đức đều bị đánh đắm tại Scapa Flow hoặc trao cho Đồng Minh như những chiến lợi phẩm, những chiếc thuộc lớp Braunschweig được cho hoạt động trở lại cùng với một Hải quân Đức được tái tổ chức lại. Trong những năm sau chiến tranh, Braunschweig, ElsaßHessen được tái cấu trúc như những hải phòng hạm, cho dù kế hoạch này sau cùng bị hủy bỏ. Braunschweig phục vụ cho Hải quân Đức từ năm 1921 đến năm 1926, khi nó được rút khỏi hoạt động thường trực. Vào ngày 31 tháng 5 năm 1931, nó được rút khỏi đăng bạ và được cải biến thành một lườn tàu cố định tại Wilhelmshaven, và cuối cùng bị tháo dỡ. Elsaß phục vụ cho hạm đội từ năm 1924 cho đến ngày 25 tháng 2 năm 1930, khi nó được rút khỏi hoạt động thường trực. Vào ngày 31 tháng 3 năm 1931, nó được rút khỏi đăng bạ và là một lườn tàu cố định tại Wilhelmshaven. Vào ngày 31 tháng 10 năm 1935, Elsaß được bán cho hãng Norddeutscher-Lloyd tại Bremerhaven, và được tháo dỡ vào năm 1936.

Hessen phục vụ cho hạm đội từ năm 1925 cho đến ngày 12 tháng 11 năm 1934, khi nó được cho rút khỏi hoạt động thường trực và cải biến thành một tàu mục tiêu. Công việc cải biến kéo dài từ ngày 31 tháng 3 năm 1935 đến ngày 1 tháng 4 năm 1937. Nó phục vụ dưới vai trò mới này cho đến năm 1945; sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nó bị Liên Xô chiếm và đổi tên thành Tsel. Con tàu cuối cùng bị tháo dỡ trong những năm 1960. Preussen hoạt động cùng với hạm đội như một tàu tiếp liệu cho tàu quét mìn từ năm 1919 đến ngày 5 tháng 4 năm 1929, khi nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân. Con tàu được bán vào ngày 25 tháng 2 năm 1931 để tháo dỡ với giá 216.800 Mác, và được tháo dỡ tại Wilhelmshaven. Một đoạn lườn tàu dài được giữ lại để sử dụng như một mục tiêu dành cho thử nghiệm ngư lôi và các chất nổ khác; đoạn này bị máy bay Đồng Minh ném bom đánh chìm vào tháng 4 năm 1945. Xác đắm của đoạn lườn tàu này sau cùng được cho nổi lên và tháo dỡ vào năm 1954. Lothringen cũng được cải biến thành một tàu tiếp liệu quét mìn và đã phục vụ trong vai trò này từ năm 1922 đến năm 1926. Con tàu được rút khỏi đăng bạ Hải quân vào ngày 31 tháng 3 năm 1931, được bán để tháo dỡ với giá 269.650 Mác, và được tháo dỡ bởi hãng Blohm & Voss tại Hamburg.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Braunschweig**_ là những thiết giáp hạm tiền-dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào những năm đầu tiên của thế kỷ 20. Lớp bao gồm năm chiếc:
**Lớp thiết giáp hạm _Deutschland**_ là một nhóm bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đức. Lớp bao gồm các chiếc SMS _Deutschland_, SMS _Hannover_, SMS _Pommern_, SMS _Schlesien_
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
Những chiếc [[Dreadnought trong Hạm đội biển cao đang trong tư thế hàng ngũ|alt=A line of nine large gray battleships stretches into the distance, all belching dark black smoke from their funnels]] Hải quân Đức—
**SMS _Braunschweig**_ là chiếc đầu tiên trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Lothringen**_ là chiếc cuối cùng trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Hannover**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, chiếc thứ hai trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ
**SMS _Kaiser Barbarossa**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ 20. _Kaiser
**SMS _Kaiser Wilhelm der Grosse**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang
**SMS _Kaiser**_ (hoàng đế) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiser_ được đóng
**SMS _Schleswig-Holstein**_ là một thiết giáp hạm của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
**SMS _Schlesien**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903
**SMS _Kaiser Friedrich III**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế
**SMS _Preussen**_ là chiếc thứ tư trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Hessen**_ là chiếc thứ ba trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Elsass**_ là chiếc thứ hai trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Deutschland**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, chiếc đầu tiên trong số năm chiếc thuộc lớp _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
## Lớp thiết giáp hạm (Tạm ngưng sản xuất) Hầu hết ở thời điểm này đều gần như không có _Lớp thiết giáp hạm_ nào được sản xuất, Đây là danh sách các _Thiết giáp
**SMS _Kaiser Karl der Grosse**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**_Admiral Graf Spee_** là một trong những tàu chiến nổi tiếng nhất của Hải quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với thiết giáp hạm _Bismarck_. Kích cỡ của nó bị giới
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**_Reichsmarine_** (**Hải quân Đế chế**) là tên gọi của Hải quân Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và hai năm đầu tiên của Đức Quốc xã. Đây là nhánh hải quân của _Reichswehr_, tồn tại
nhỏ|Tàu corvette [[động cơ hơi nước|hơi nước Pháp _Dupleix_ (1856–1887)]] **Corvette** (nguồn gốc từ tiếng Pháp: _corvair_; tiếng Việt còn có thể dịch là **tàu hộ tống nhỏ**, **tàu hộ vệ** hay **hộ vệ hạm**
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng