✨Brandenburg (lớp thiết giáp hạm)
Lớp thiết giáp hạm _Brandenburg_ bao gồm bốn chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought đi biển đầu tiên của Hải quân Đế quốc Đức. Chúng cũng là những tàu chiến đầu tiên thuộc mọi kiểu tàu của Đức được trang bị liên lạc vô tuyến. Lớp bao gồm bốn chiếc: Brandenburg, Kurfürst Friedrich Wilhelm, Weißenburg và Wörth; tất cả đều được đặt lườn vào năm 1890 và hoàn tất vào năm 1893 ngoại trừ Weißenburg vào năm 1894. Chiếc dẫn đầu Brandenburg được đóng với chi phí 9,3 triệu Mác và Kurfürst Friedrich Wilhelm có chi phí 11,23 triệu Mác. Hải quân Hoàng gia Anh đã chế diễu gọi những con tàu này là "tàu đánh cá voi".
Cả bốn chiếc trong lớp Brandenburg đều đã phục vụ trong nhiều vai trò rộng rãi. Vào năm 1900 chúng được phái sang Trung Quốc tham gia trấn áp cuộc Nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn, và sau đó được hiện đại hóa đáng kể. Đến năm 1910, hai chiếc trong lớp, Kurfürst Friedrich Wilhelm và Weißenburg, được bán cho Hải quân Ottoman và được đổi tên tương ứng thành Barbaros Hayreddin và Turgut Reis. Barbaros Hayreddin bị một tàu ngầm Anh đánh chìm năm 1915, còn Turgut Reis sống sót qua cuộc chiến tranh cho đến khi bị tháo dỡ năm 1938. Brandenburg và Wörth chỉ có những hoạt động hạn chế trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất như những hải phòng hạm cho đến khi được rút ra hoạt động trong những vai trò phụ trợ. Cả hai bị bán để tháo dỡ vào tháng 5 năm 1919.
Thiết kế
Bối cảnh
Lớp Brandenburg là những chiếc thiết giáp hạm đi biển đầu tiên của Hải quân Đế quốc Đức. Chúng tiếp nối sau một số chiếc hải phòng hạm (tàu phòng thủ bờ biển), bao gồm các lớp Siegfried và Odin vốn chỉ dự định cho vai trò phòng thủ tại chỗ ở bờ biển Đức.
Những chiếc thiết giáp hạm lớp Brandenburg trở thành nền tảng của lực lượng mà sau này trở thành Hạm đội Biển khơi Đức. Tiêu biểu cho sự thay đổi về tầm nhìn chiến lược của Hải quân Đức, phương thức đóng tàu truyền thống vốn phụ thuộc nặng vào kiểu tàu của nước ngoài bị hủy bỏ. Một số thử nghiệm được đưa vào trong quá trình thiết kế, đặc biệt là về kiểu vỏ giáp trang bị cho các con tàu. Brandenburg và Wörth được trang bị vỏ giáp tổng hợp gồm nhiều lớp vật liệu khác nhau, trong khi hai chiếc sau có vỏ giáp bằng hợp kim thép-nickel kiểu Harvey.
Các đặc tính chung
Những chiếc trong lớp Brandenburg có chiều dài ở mực nước là và chiều dài chung là , mạn thuyền rộng nhưng tăng thêm lên đến sau khi lắp đặt lưới chống ngư lôi, và chúng có độ sâu của mớn nước ở phía trước và ở phía sau. Lớp Brandenburg có trọng lượng choán nước thiết kế là , và tải trọng tối đa trong chiến đấu lên đến .
Như là tiêu chuẩn của các con tàu Đức vào thời đó, lườn tàu của những chiếc trong lớp Brandenburg được chế tạo từ những khung thép ngang và dọc, trên đó các tấm thép lườn tàu được kết nối bằng đinh tán. Các con tàu có 13 ngăn kín nước và một đáy kép chiếm 48% chiều dài con tàu. Hải quân Đức đánh giá chúng như những con tàu đi biển tốt, chuyển động dễ dàng, phản ứng tốt với chỉ thị từ cầu tàu và có đường kính lượn vòng trung bình. Chúng chỉ bị giảm 30% tốc độ khi bẻ lái và có chiều cao khuynh tâm . Tuy nhiên, các con tàu bị ướt khi di chuyển tốc độ cao và phải chịu bập bềnh nặng.
Hệ thống động lực
Các con tàu được trang bị hai bộ động cơ hơi nước ba buồng bành trướng 3 xy-lanh đặt trong các ngăn động cơ riêng biệt, mỗi bộ dẫn động một chân vịt đường kính ; và có một bánh lái. Hơi nước được cung cấp bởi 12 nồi hơi hình trụ đặt ngang, cũng được chia ra hai phòng nồi hơi riêng biệt; mỗi nồi hơi có đến ba lò đốt và cung cấp hơi nước cho đến áp suất . Hệ thống động lực này được thiết kế để cung cấp công suất , nhưng trong thực tế chúng đạt được từ đối với Kurfürst Friedrich Wilhelm cho đến đối với Wörth. Các con tàu được dự định đạt tốc độ ; Brandenburg là chiếc chậm nhất khi chỉ đạt , trong khi cả Kurfürst Friedrich Wilhelm và Wörth đều đạt được khi chạy thử máy. Các con tàu được thiết kế để chở theo than để đốt các nồi hơi; tuy nhiên các khoảng trống trong lườn tàu có thể sử dụng để chất than, và do đó có thể chở tổng cộng ; cho phép các con tàu có tầm xa tốc đa với tốc độ đi đường trường . Điện năng được cung cấp bởi ba máy phát nhưng khác nhau trên mỗi con tàu; công suất tổng cộng thay đổi từ 72,6 đến 96,5 kilowatt ở điện thế 67 volt. trong khi tháp pháo giữa mang kiểu nòng ngắn hơn L/35. Vì nòng pháo của kiểu L/35 ngắn hơn, nó chỉ đạt đến , và do đó chỉ có tầm xa tối đa khoảng . Ở khoảng cách , đạn pháo AP có thể xuyên thủng vỏ giáp dày cho đến .
Các con tàu còn được trang bị sáu ống phóng ngư lôi , tất cả đều đặt trên bệ xoay bên trên mực nước. Bốn ống được bố trí bên mạn tàu, một ống trước mũi và một ống phía đuôi. Chúng được cung cấp tổng cộng 16 quả ngư lôi. Một trong các ống phóng được tháo dỡ trong đợt hiện đại hóa. Brandenburg được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng AG Vulcan ở Stettin vào năm 1890; nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 9 năm 1891. Công việc hoàn thiện nó, bao gồm việc trang bị vũ khí cho con tàu, kéo dài cho đến ngày 19 tháng 11 năm 1893 khi nó được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Đức.
Bước sang đầu Thế kỷ 20, các con tàu lần lượt được đưa đến ụ tàu Kaiserliche Werft Wilhelmshaven trải qua một đợt hiện đại hóa rộng rãi. Wörth là chiếc đầu tiên được nâng cấp, bắt đầu từ năm 1901, rồi đến lượt Weißenburg tiếp nối vào năm 1902, Brandenburg năm 1903, và cuối cùng là Kurfürst Friedrich Wilhelm đi vào xưởng tàu vào năm 1904. Các nồi hơi được thay thế bằng kiểu mới hơn, và các khoang giữa tàu được giảm bớt. thoạt tiên cùng với bốn chiếc tàu frigate bọc thép lớp Sachsen cũ hơn, nhưng đến năm 1901-1902, những chiếc Sachsen được thay thế bằng những chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought lớp Kaiser Friedrich III mới đưa vào hoạt động. Chúng tham gia chiến dịch lớn đầu tiên vào năm 1900, khi được bố trí đến Trung Quốc trong vụ Nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn. Đô đốc Alfred von Tirpitz đã phản đối kế hoạch này, cho rằng nó không cần thiết và tốn kém. Lực lượng chỉ đến được Viễn Đông sau khi cuộc phong tỏa Bắc Kinh đã kết thúc. Kết quả là lực lượng đổ bộ chỉ được sử dụng để trấn áp các vụ nổi dậy lẻ tẻ trong khu vực phụ cận Giao Châu. Cuối cùng, chiến dịch đã làm tiêu tốn chính phủ Đức hơn 100 triệu Mác.
Sau khi được hiện đại hóa từ năm 1902 đến năm 1904, những chiếc trong lớp Brandenburg gia nhập trở lại hạm đội thường trực; tuy nhiên chúng nhanh chóng bị lạc hậu khi HMS Dreadnought được hạ thủy vào năm 1906. Kết quả là chúng chỉ có những hoạt động giới hạn. với tổn thất 253 người. Turgut Reis sống sót qua cuộc chiến tranh và được sử dụng như một tàu huấn luyện vào năm 1924. Sau đó nó được sử dụng như một lườn tàu tại Bosporus, và cuối cùng bị tháo dỡ vào năm 1938.