✨Helgoland (lớp thiết giáp hạm)

Helgoland (lớp thiết giáp hạm)

Lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: Helgoland, Ostfriesland, OldenburgThüringen. Thiết kế của chúng là một sự cải tiến đáng kể so với những chiếc thuộc lớp Nassau dẫn trước; chúng có dàn pháo chính với cỡ pháo lớn hơn, thay vì trang bị trên những chiếc trước đây, và một hệ thống động lực được cải tiến. Lớp Helgoland có thể dễ dàng phân biệt với lớp Nassau dẫn trước nhờ ba ống khói được sắp xếp gần nhau thay vì hai ống khói lớn như của lớp trước. Các con tàu vẫn giữ lại cách sắp xếp các tháp pháo chính theo hình lục giác khá bất thường của lớp Nassau.

Thiết kế

Sau khi Hiệp ước Thân thiện Tam cường giữa Anh, Pháp và Nga được ký kết vào năm 1907, Đức trở nên bị cô lập đáng kể ở giữa lục địa Châu Âu: họ bị bao vây giữa Pháp ở phía Tây và Nga ở phía Đông, cùng Anh Quốc với một lực lượng hải quân hùng mạnh có khả năng ngăn chặn Đức tiếp cận các tuyến đường biển thương mại quốc tế. Đô đốc Alfred von Tirpitz phản ứng lại bằng cách yêu cầu các tàu chiến chủ lực mới hơn và mạnh hơn. Suy nghĩ của ông về vấn đề này là: "Mục đích mà tôi nhắm đến... vì những lý do kỹ thuật và tổ chức cũng như những lý do chính trị và tài chính... là phải chế tạo càng đều đặn càng tốt." Nguyện vọng của ông được thể hiện trong Bản Tu chính thứ hai của Đạo luật Hải quân, vốn được thông qua vào ngày 27 tháng 3 năm 1908. Kết quả là Bộ Tham mưu Hải quân Đức chủ trương tăng cỡ nòng của dàn pháo chính từ lên . Đô đốc von Tirpitz rất miễn cưỡng để chấp nhận thay đổi này, ông muốn tránh việc đẩy nhanh hơn nữa cuộc chạy đua vũ trang với Anh.

Sự ngần ngại của Đô đốc von Tirpitz trong việc tăng cường hỏa lực cho các con tàu mới biến mất khi người ta biết được vào đầu năm 1907 rằng Hải quân Hoa Kỳ đang chế tạo thiết giáp hạm với pháo 30,5 cm. Đến tháng 3 năm 1907, von Tirpitz ra lệnh cho Văn phòng Chế tạo chuẩn bị một thiết kế với pháo 30,5 cm và đai giáp dày .

Luật Hải quân quy định tuổi đời hoạt động của thiết giáp hạm được giảm từ 25 năm xuống còn 20 năm, điều này được thực hiện nhằm thúc đẩy Quốc hội Đức dành ngân sách cho các con tàu mới. Việc giảm tuổi thọ cũng đưa đến việc cần thay thế các hải phòng hạm thuộc các lớp SiegfriedOldenburg cũng như các thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp Brandenburg. Những thiết giáp hạm mà von Tirpitz thất bại không thể đưa vào Tu chính thứ nhất của Luật Hải quân năm 1906 giờ đây được Quốc hội thông qua. Luật Hải quân cũng gia tăng ngân sách hải quân một ngân khoản bổ sung 1 tỉ mark vàng.

Các đặc tính chung

Những chiếc trong lớp Helgoland dài hơn so với những chiếc dẫn trước, với chiều dài chung . Chúng có mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước khi đầy tải là . Các con tàu nặng hơn đáng kể so với lớp Nassau: chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn và lên đến khi đầy tải; nặng hơn những chiếc trước gần . Các con tàu có 17 ngăn kín nước, và khoảng đáy tàu kép chiếm 86% chiều dài của lườn tàu.

Lớp tàu này có đặc tính vận hành được cải tiến đáng kể so với lớp Nassau dẫn trước, chúng có đặc tính đi biển tốt và không mắc phải vấn đề lật nghiêng nặng mà Nassau phải chịu đựng. Các con tàu phản ứng tốt khi bẻ lái, có đường kính quay đầu nhỏ, và chỉ mất tốc độ tối thiểu khi sóng to. Các con tàu bị mất cho đến 54% tốc độ khi bẻ lái gắt, và nghiêng cho đến 7°. Động cơ gồm 3 trục, 4 xy-lanh được bố trí trong ba phòng động cơ. Mỗi trục vận hành một chân vịt 4 cánh đường kính . Hơi nước được cung cấp bởi 15 nồi hơi hàng hải, mỗi chiếc có 2 lò đốt, lên đến tổng cộng 30 lò. Động cơ có công suất thiết kế để đạt được tốc độ tối đa . Khi chạy thử máy, hệ thống động lực đã cung cấp công suất và một tốc độ tối đa . Các con tàu chở theo than, sau này được cải biến để chở thêm dầu, vốn sẽ được phun vào than trong lò đốt để làm tăng tốc độ cháy. Khi đầy nhiên liệu, các con tàu có thể di chuyển ở tốc độ . Điện năng cho con tàu được cung cấp bởi tám máy phát turbine, tạo ra công suất 2.000 kW điện xoay chiều với điện thế 225 V. được đặt trên các bệ Drh LC/1908 thân dài, một phiên bản cải tiến so với kiểu LC/1907 và LC/1906 sử dụng cho lớp Nassau. Chúng được bố trí thành cặp trên sáu tháp pháo nòng đôi, gồm một tháp pháo đặt tại phía trước mũi và một sau đuôi tàu, và hai tháp pháo mỗi bên mạn tàu. Các khẩu pháo được cung cấp tổng cộng 1.020 quả đạn pháo, 85 quả cho mỗi khẩu.

Lịch sử hoạt động

Những chiếc trong lớp Helgoland đã hoạt động cùng nhau như một đơn vị của Hạm đội Biển khơi Đức; chúng đã phục vụ như là Đội 1 trực thuộc Hải đội Chiến trận 1. Chúng đã tham gia nhiều hoạt động của Hạm đội tại Bắc Hải, bao gồm cuộc xuất quân vào ngày 31 tháng 5 năm 1916 vốn đã đưa đến Trận Jutland. Các con tàu cũng đã tham gia tác chiến một cách hạn chế tại biển Baltic, chủ yếu là trong Trận chiến vịnh Riga bị bỏ dỡ vào tháng 8 năm 1915.

Bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby

nhỏ|Một hình minh họa [[SMS Ostfriesland|Ostfriesland vào năm 1911|alt=A battleship at sea with a smaller boat alongside]] Hoạt động lớn đầu tiên trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất mà lớp Helgoland tham gia là cuộc Bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby vào ngày 15–16 tháng 12 năm 1914. Cuộc bắn phá được tiến hành chủ yếu bởi các tàu chiến-tuần dương thuộc Đội Tuần tiễu 1 của Phó Đô đốc Franz von Hipper. Những chiếc trong lớp Helgoland cùng với các lớp Nassau, KaiserKönig lên đường để hỗ trợ từ xa. Friedrich von Ingenohl, Tư lệnh Hạm đội Biển khơi Đức, quyết định chiếm lấy vị trí ở khoảng giữa Bắc Hải, cách 130 hải lý về phía Đông Scarborough.

Hải quân Hoàng gia Anh, trước đó đã bắt được các bảng mật mã Đức từ chiếc tàu tuần dương Magdeburg bị mắc cạn, nhận biết một chiến dịch đang được tiến hành, nhưng không biết chắc nơi lực lượng Đức sẽ tấn công. Vì vậy, Bộ hải quân Anh ra lệnh cho Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 dưới quyền Đô đốc David Beatty, sáu thiết giáp hạm thuộc Hải đội Chiến trận 2 cùng nhiều tàu tuần dương và tàu khu trục ngăn chặn các tàu chiến-tuần dương Đức. Trong khoảng 40 phút, hai hạm đội di chuyển theo một hướng song song; và đến 7 giờ 20 phút, Ingenohl ra lệnh bẻ lái hơn nữa sang mạn phải, đưa các con tàu của mình theo một hành trình quay về vùng biển Đức.

Nhiều người trong Hải quân Đức đã giận dữ đối với sự nhút nhát của Ingenohl, và uy tín của ông bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đại Đô đốc (Großadmiral) Alfred von Tirpitz lưu ý rằng "Vào ngày 16 tháng 12, số phận của nước Đức đã nằm trong lòng bàn tay của Ingenohl. Cảm xúc của tôi trào dâng mỗi khi nghĩ đến điều đó". Thuyền trưởng của chiếc tàu chiến-tuần dương Moltke thậm chí còn gay gắt hơn; ông cho rằng Ingenohl đã rút lui "vì ông lo sợ mười một chiếc tàu khu trục Anh vốn có thể loại bỏ dễ dàng... Dưới sự lãnh đạo hiện thời chúng ta sẽ chẳng đạt được gì."

Trận chiến vịnh Riga

Vào ngày 3 tháng 8 năm 1915, nhiều đơn vị hạng nặng của Hạm đội Biển khơi được chuyển sang khu vực Baltic để tham gia vào một cuộc xâm nhập vào vịnh Riga. Kế hoạch của Đức dự định đánh đuổi hoặc tiêu diệt lực lượng Hải quân Nga trong vịnh, bao gồm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought Slava, rồi sử dụng tàu rải mìn Deutschland để rải một loạt các bãi mìn ở eo biển Moon, lối ra vào phía Bắc của vịnh. Hạm đội được tập trung để tấn công, dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Hipper, bao gồm bốn thiết giáp hạm lớp Nassau và bốn chiếc lớp Helgoland, các tàu chiến-tuần dương Seydlitz, MoltkeVon der Tann cùng một số tàu chiến nhỏ khác. Tuy nhiên, bốn chiếc lớp Helgoland không tham gia vào trận chiến thực sự. Trong suốt chiến dịch, các con tàu được bố trí bên ngoài vịnh nhằm ngăn chặn lực lượng Nga tăng cường có thể ngăn trở việc rải mìn.

Bãi mìn của chính người Nga lớn hơn so với dự định, nên việc quét sạch chúng mất nhiều thời gian hơn so với kế hoạch của Đức. Sự chậm trễ này còn kéo dài hơn do sự kháng cự quyết liệt của Hải quân Nga; Deutschland cuối cùng không thể rải mìn của chính nó. Các báo cáo về hoạt động tàu ngầm của Đồng Minh trong khu vực đã buộc lực lượng hải quân Đức phải rút lui vào sáng ngày 20 tháng 8. Thực vậy, tàu chiến-tuần dương Moltke đã trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Anh E1 vào ngày hôm trước, cho dù chỉ bị hư hại nhẹ.

Trận Jutland

Những chiếc trong lớp Helgoland đã tham gia Trận Jutland bất phân thắng bại vào ngày 31 tháng 5–1 tháng 6 năm 1916. Trong hầu hết thời gian của trận chiến, Hải đội Thiết giáp 1 hình thành nên phần trung tâm của hàng chiến trận, phía sau Hải đội Thiết giáp III dưới quyền Chuẩn Đô đốc Behncke, và được nối gót bởi các thiết giáp hạm tiền-dreadnought già cỗi thuộc Hải đội Thiết giáp II của Chuẩn Đô đốc Mauve. Ostfriesland đã phục vụ như là soái hạm của Đội 1 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc E. Schmidt. nhỏ|trái|Một hình minh họa [[SMS Helgoland|Helgoland với dàn pháo chính xoay sang mạn phải|alt=A large gray warship steams at full speed; thick black smoke pours from its three smoke stacks.]] Lớp Helgoland bắt đầu trực tiếp tác chiến lúc 19 giờ 20 phút trong ngày đầu của trận chiến. Ostfriesland, HelgolandThüringen đã khai hỏa vào Warspite, vốn đang cùng với các chiếc khác thuộc lớp thiết giáp hạm Queen Elizabeth của Hải đội Chiến trận 5 truy đuổi lực lượng tàu chiến-tuần dương Đức. Ngoại trừ Ostfriesland, việc bắn pháo chỉ kéo dài bốn phút, vì hàng chiến trận Đức đang trong quá trình bẻ lái về hướng Đông Đông Bắc, nên các con tàu nhanh chóng mất dấu các thiết giáp hạm Anh. ThüringenHelgoland chỉ bắn khoảng 20 quả đạn pháo trước khi mất dấu mục tiêu. Tuy nhiên Ostfriesland tiếp tục nhìn thấy đối thủ cho đến 19 giờ 45 phút, lúc nó cũng ngừng bắn. Đến 20 giờ 15 phút, sau cú "đổi hướng chiến trận" (Gefechtskehrtwendung) lần thứ ba, Helgoland bị một quả đạn pháo bắn trúng phần phía trước của con tàu. Phát đạn nổ xé toang một khoảng trên lườn tàu và rải một cơn mưa mảnh đạn xuống tháp pháo 5,9 inch đầu tiên bên mạn phải; con tàu bị ngập khoảng 80 tấn nước.

Khoảng nữa đêm ngày 1 tháng 6, những chiếc thuộc lớp HelgolandNassau ở trung tâm đội hình của hàng chiến trận Đức đã bắt gặp Chi hạm đội Khu trục 4 Anh Quốc. Một trận chiến đêm lộn xộn diễn ra, trong đó thiết giáp hạm Nassau húc phải tàu khu trục Anh Spitfire. Chi hạm đội 4 tạm thời rút lui khỏi trận chiến để tái lập đội hình, rồi đến khoảng 01 giờ 00 lại vô tình đối đầu với những chiếc dreadnought Đức lần thứ hai. OldenburgHelgoland nổ súng vào hai tàu khu trục Anh dẫn đầu đội hình, nhưng một quả đạn pháo Anh đã phá hủy đèn pha phía trước của Oldenburg. Một cơn mưa mảnh đạn rải xuống cầu tàu làm bị thương chỉ huy con tàu, Đại tá Hải quân Hopfner, và giết chết người chỉ huy thứ hai, Trung tá Hải quân Rabius, cùng một số người khác trên cầu tàu, kể cả người lái tàu. Oldenburg tạm thời mất điều khiển; có nguy cơ húc phải tàu phía trước hoặc phía sau trong hàng. Bất kể đang bị thương, Hopfner đích thân bẻ lái tàu, đưa nó trở lại hàng.

Không lâu sau 01 giờ 00, ThüringenNassau đụng độ với tàu tuần dương bọc thép Anh Black Prince. Thüringen khai hỏa trước tiên, phá hủy Black Prince với tổng cộng 27 quả đạn pháo hạng nặng và 24 quả đạn pháo hạng hai. NassauOstfriesland tham gia sau đó, rồi được nối gót bởi Friedrich der Große.

Vào lúc này, hầu hết Chi hạm đội Khu trục 4 bị tiêu diệt. Một số ít còn lại bị hư hại nặng và phân tán, không thể tiếp tục tham gia trận chiến.

Sau khi quay trở về vùng biển nhà, HelgolandThüringen cùng với các chiếc Nassau, PosenWestfalen thuộc lớp Nassau chiếm lấy những vị trí phòng thủ tại vũng biển Jadebusen trong đêm. Trong trận chiến, lớp Helgoland chỉ chịu đựng những hư hại nhẹ. Helgoland bị bắn trúng một quả đạn pháo 15 inch, nhưng chỉ bị hư hại nhẹ. Oldenburg trúng một phát đạn pháo hạng hai khiến 8 người thiệt mạng và 14 người bị thương. OstfrieslandThüringen thoát ra khỏi trận chiến mà không bị hư hại, mặc dù trên đường quay về vùng biển nhà, Ostfriesland trúng phải một quả thủy lôi và phải được sửa chữa tại Wilhelmshaven.

Sau chiến tranh

nhỏ|phải|Ostfriesland bốc cháy sau khi bị đánh trúng trong thử nghiệm ném bom vào [[tháng bảy|tháng 7 năm 1921|alt=Aerial view of a cloud of smoke rising from a battleship at sea]] Những chiếc trong lớp không còn tham gia hoạt động nào đáng kể trong cuộc chiến, và được chuyển cho các nước Đồng Minh như những chiến lợi phẩm theo những điều khoản của Hiệp ước Versailles. Cả bốn chiếc được rút khỏi Đang bạ Hải quân Đức vào ngày 5 tháng 11 năm 1919. Helgoland được chuyển cho Anh Quốc và bị tháo dỡ vào năm 1921 tại Morecambe; biểu trưng trước mũi tàu của nó được giữ lại, và cuối cùng được trao trả về Đức; nó hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Liên bang tại Dresden. Oldenburg được giao cho Nhật Bản, nhưng họ không muốn giữ con tàu; thay vào đó, họ bán nó cho một hãng tháo dỡ của Anh, và được tháo dỡ tại Dordrecht vào năm 1921. Thüringen bị Pháp chiếm; con tàu suýt bị thủy thủ của nó đánh đắm đang khi trên đường đi đến Cherbourg vào năm 1920. Nó được sử dụng như một tàu mục tiêu cho đến khi nó bị mắc cạn vào năm 1923 tại Gavres. Nó được tháo dỡ tại chỗ, nhưng một phần lớn lườn tàu vẫn còn dưới mặt nước.

Ostfriesland được chuyển cho Hải quân Hoa Kỳ, và sau đó được sử dụng như một mục tiêu cố định trong một cuộc phô diễn sức mạnh không quân do Tướng Billy Mitchell tiến hành vào ngày 21 tháng 7 năm 1921 ngoài khơi mũi Henry thuộc Virginia. Con tàu bị chìm lúc 12 giờ 40 phút sau khi phải chịu đựng nhiều quả bom ném trúng đích lẫn suýt trúng. Tuy nhiên, nó có thể tránh được kết cục này nếu như đang di chuyển; và nếu như bị đánh trúng, hoạt động của đội kiểm soát hư hỏng vẫn có thể giúp nó tiếp tục nổi.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Helgoland**_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: _Helgoland_, _Ostfriesland_,
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Lớp thiết giáp hạm _Nassau**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức; là sự đáp trả của Đức đối với việc Hải quân Hoàng gia
**Lớp thiết giáp hạm _Deutschland**_ là một nhóm bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đức. Lớp bao gồm các chiếc SMS _Deutschland_, SMS _Hannover_, SMS _Pommern_, SMS _Schlesien_
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**SMS _Helgoland**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Thiết kế
**SMS _Oldenburg**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
**SMS _Thüringen**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
**SMS _Grosser Kurfürst**_ là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Grosser Kurfürst_ (còn có thể viết là
**SMS _Friedrich der Große**_ (_Friedrich Đại Đế_) là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Friedrich der Große_
**SMS _Kronprinz**_ là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kronprinz_ được đặt lườn vào ngày tháng 11
**SMS _Bayern**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chiếc tàu chiến được hạ thủy vào tháng
**SMS _Kaiserin**_ (_Nữ hoàng_) là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiserin_ được đặt lườn vào ngày
**SMS _Baden**_ là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được hạ thủy vào tháng 10 năm 1915 và hoàn
**SMS _Zähringen**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Wittelsbach_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được đặt lườn tại xưởng tàu Germaniawerft ở Kiel vào năm 1899; được hạ thủy vào ngày
**SMS _Kaiser**_ (hoàng đế) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiser_ được đóng
**SMS _Markgraf**_ là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Markgraf_ được đặt lườn vào tháng 11 năm
**SMS _Schlesien**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903
**SMS _Posen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được đặt lườn tại xưởng tàu Germaniawerft ở Kiel
**SMS _König**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. König (tiếng Đức, nghĩa là Quốc vương) được
**SMS _Schleswig-Holstein**_ là một thiết giáp hạm của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
**SMS _Rheinland**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Rheinland_ được trang bị dàn pháo chính bao gồm mười hai
**SMS _Hannover**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, chiếc thứ hai trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ
**SMS _König Albert**_, tên đặt theo Vua Albert của Saxony, là chiếc thứ tư trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
**SMS _Lothringen**_ là chiếc cuối cùng trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Ostfriesland**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ hai trong lớp _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc. _Ostfriesland_ được đặt
**SMS _Nassau**_ là chiếc thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức, một hành động đáp trả lại việc hạ thủy thiết giáp hạm HMS _Dreadnought_ của Hải
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
**SMS _Deutschland**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, chiếc đầu tiên trong số năm chiếc thuộc lớp _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
**SMS _Preussen**_ là chiếc thứ tư trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Elsass**_ là chiếc thứ hai trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Braunschweig**_ là chiếc đầu tiên trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**SMS _Hindenburg**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức và là chiếc thứ ba thuộc lớp _Derfflinger_. Tên của nó được đặt nhằm vinh danh Thống chế Paul von Hindenburg, người
**Carl Friedrich Heinrich Reinhard Scheer** (30 tháng 9 năm 1863 – 26 tháng 11 năm 1928) là một Đô đốc của Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_). Scheer gia nhập hải quân vào năm
**Trận Jutland** là trận hải chiến lớn nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất diễn ra giữa Hạm đội công hải của Đức và Đại hạm đội của Anh từ ngày 31 tháng 5
**Trận chiến Eo biển Otranto** là một nỗ lực của Hải quân Đế quốc Áo-Hung trong việc phá vỡ Rào chắn Otranto của hải quân phe Hiệp ước tại eo biển Otranto trong hai ngày
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**_U-63_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ