✨Scharnhorst (lớp thiết giáp hạm)
Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (Kriegsmarine) sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm hai chiếc: Scharnhorst và Gneisenau.
Scharnhorst được hạ thủy trước tiên, nên nó được nhiều tác giả xem là chiếc dẫn đầu của lớp; tuy nhiên, đôi khi lớp tàu này còn được một vài tác giả gọi là Lớp _Gneisenau_, vì Gneisenau là chiếc đầu tiên được đặt lườn đồng thời được đưa ra hoạt động sớm hơn. Các thiết giáp hạm Đức trước đây chỉ được phân loại là tàu chiến tuyến (Linienschiffe), hay tàu bọc thép (Panzerschiffe).
Đối thủ của họ, Hải quân Hoàng gia Anh, xem chúng như những tàu chiến-tuần dương mặc dù sau chiến tranh lại xếp loại chúng như những thiết giáp hạm. Nguồn Jane's Fighting Ships 1940 liệt kê cả hai lớp Scharnhorst và Bismarck như là thiết giáp hạm (Schlachtschiffe)". Một đối thủ khác, Hải quân Hoa Kỳ, xem chúng như những thiết giáp hạm. Những công trình tham khảo bằng tiếng Anh đôi khi gọi chúng là thiết giáp hạm và đôi khi lại là tàu chiến-tuần dương.
Bối cảnh
Vốn đặt ra những điều khoản nhằm để kết thúc Thế Chiến I, Hiệp ước Versailles đã giới hạn việc chế tạo tàu chiến của Hải quân Đức (Kriegsmarine) ở mức tàu tuần dương có trọng lượng choán nước không vượt quá . Những sự tranh luận tại Đức về vai trò và kích cỡ của hải quân được tiếp diễn trong suốt những năm 1920, khi việc tăng cường lực lượng hải quân tại Pháp và Nga đã khiến người Đức bắt đầu thiết kế các tàu chiến chủ lực lớn. Thiết kế thứ nhất, hoàn tất năm 1928, đề nghị một kiểu tàu chiến-tuần dương tải trọng trang bị tám pháo 30,5 cm (12 inch) trên bốn tháp pháo nòng đôi. Khi Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức vào năm 1933, ông xác định với giới lãnh đạo hải quân rằng ông không có ý định chế tạo một hạm đội lớn để thách thức ưu thế của người Anh trên mặt biển; mối quan tâm chính của Hitler là khả năng của một cuộc chiến tranh giới hạn với Pháp, trong đó có nhu cầu phải bảo vệ các tuyến đường thương mại hàng hải của Đức. Với mục đích này, ông chấp thuận cho chế tạo thêm hai tàu tuần dương lớp D để bổ sung cho ba chiếc tàu chiến bọc thép (Panzerschiffe) lớp Deutschland. Những con tàu này sẽ có trọng lượng choán nước 19.000 tấn và có vũ khí trang bị cùng tốc độ như những chiếc Panzerschiffe; tải trọng tăng thêm được sử dụng vào việc tăng cường tăng cường bảo vệ. Hitler mong muốn đi theo cách này nhằm không để bị xem là công khai vi phạm Hiệp ước Versailles. Tuy nhiên, ông đã không nhận thức được rằng những tàu chiến cướp tàu buôn"không thể chìm"này sẽ kích động Anh Quốc nặng nề hơn là các tàu chiến-tuần dương 26.000 tấn trang bị pháo 28,3 cm (11,1 inch), vốn bị đánh giá là yếu kém hơn so với mọi thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia đang hoạt động. nhỏ|trái|Sơ đồ Gneisenau mô tả cấu hình của nó vào năm [[1942]] Để đối phó lại các Panzerschiffe của Đức, Pháp chế tạo hai thiết giáp hạm nhỏ lớp Dunkerque vào đầu những năm 1930. Điều này đến lượt nó lại khiến Hải quân Đức bắt đầu có kế hoạch thiết kế một tàu chiến-tuần dương mạnh mẽ hơn. Con tàu mới sẽ có trọng lượng choán nước và trang bị chín pháo 28,3 cm trên ba tháp pháo ba nòng. Nhằm đảm bảo được sự tự do về pháp lý để đóng những tàu chiến mới, Hitler đã đạt được thỏa thuận với Anh Quốc qua Thỏa thuận Hải quân Anh-Đức năm 1935, đảm bảo ưu thế cho Anh Quốc về tàu chiến chủ lực theo tỉ lệ 3 trên 1, và quan trọng hơn thế, dỡ bỏ mọi giới hạn về tải trọng cho Hải quân Đức. Ersatz Elsaß và Ersatz Hessen, những cái tên dự định dành cho các tàu tuần dương lớp D, được dành lại cho những con tàu khác; hợp đồng chế tạo được trao cho các xưởng Kriegsmarinewerft Wilhelmshaven và Deutsche Werke tại Kiel.
Vì Thỏa thuận Hải quân Anh-Đức cho phép cỡ nòng hải pháo tối đa là 40,6 cm (16 inch), không lâu sau đó, Hitler suy nghĩ lại về cỡ pháo sẽ được sử dụng trên các tàu chiến mới và ra lệnh chúng sẽ được trang bị cỡ vũ khí 38 cm (15 inch). Tuy nhiên, các tháp pháo 28,3 cm hiện đã sẵn sàng, và còn phải mất nhiều năm để phát triển tháp pháo 38 cm, trong khi Hitler mong muốn có các tàu chiến chủ lực càng sớm càng tốt để đáp ứng những ý tưởng chính trị của mình.
Hải quân Đức xem các tàu chiến mới như những con tàu đi biển kém; chúng nặng phần mũi tàu khi được trang bị đầy đủ và rất ướt nước cho đến cầu tàu. Vấn đề này được giảm nhẹ một phần nhờ việc trang bị một"mũi tàu Đại Tây Dương"cho Gneisenau và Scharnhorst lần lượt vào tháng 1 và tháng 8 năm 1939, cho dù việc sử dụng tháp pháo"A"vẫn bị hạn chế khi biển động. Con tàu cũng có những vấn đề ở phần đuôi; nó thường xuyên bị"ướt"và các con tàu bẻ lái rất chậm. Chúng luôn đòi hỏi sự trợ giúp của các tàu kéo tại các vùng nước nông. Khi bánh lái được bẻ hết mức, con tàu mất trên 50% tốc độ và nghiêng trên 10°. Khi chạy thử máy, các con tàu đã nghiêng cho đến 13° khi bẻ lái gắt.
Scharnhorst được vận hành bởi ba turbine hơi nước hộp số Brown, Boveri, & Co, trong khi Gneisenau được trang bị ba turbine Germania của hãng Krupp. Chúng dẫn động các trục chân vịt ba cánh đường kính . Hơi nước được cung cấp đến các turbine bởi 12 nồi hơi Wagner đốt dầu áp suất rất cao, tạo ra hơi nước có áp lực đến và nhiệt độ cho đến . Hệ thống động lực này có tổng công suất 160.000 mã lực ở 265 vòng quay mỗi phút (rpm), và khi chạy thử máy đã đạt đến công suất 165.930 mã lực ở số vòng quay 280 rpm. Khi quay ngược, động cơ đạt được công suất 57.000 mã lực. Các con tàu được thiết kế để đạt được tốc độ , cho dù khi chạy thử máy cả hai chiếc đều vượt quá tốc độ thiết kế: Scharnhorst đạt được và Gneisenau đạt . Các con tàu theo thiết kế mang theo dầu đốt; nhưng cùng với các khu vực chứa bổ sung, bao gồm chỗ trống trong lườn tàu giữa đai giáp và vách ngăn chống ngư lôi, đã gia tăng trữ lượng nhiên liệu lên . Với lượng nhiên liệu tối đa mang theo, các con tàu được kỳ vọng sẽ có tầm hoạt động ở tốc độ đường trường ; tuy nhiên, Scharnhorst chỉ đạt được ở tốc độ 19 knot, trong khi Gneisenau đạt ở tốc độ này.
Những con tàu này trang bị dàn pháo hạng hai gồm mười hai khẩu hải pháo 15 cm SK C/28 L/55 bắn nhanh, được bố trí trên bốn tháp pháo Drh L. C/34 nòng đôi và bốn bệ MPL/35 nòng đơn. Cả kiểu tháp pháo và kiểu bệ đều cho phép hạ nòng pháo cho đến góc −10°; tháp pháo nâng được tối đa cho đến 40° trong khi bệ pháo bị giới hạn ở góc 35°. Các khẩu pháo này bắn ra đầu đạn nặng 45,3 kg (99,87 lb) ở tốc độ 6-8 phát mỗi phút, và được kỳ vọng sẽ bắn được 1.100 phát trước khi nòng pháo bị hao mòn đến mức cần xẻ rảnh lại hay thay mới. Pháo trên bệ có tầm bắn tối đa 22.000 m (24.060 yard), trong khi các khẩu trong tháp pháo, nhờ có góc nâng tăng thêm 5°, có tầm bắn xa hơn đôi chút đến 23.000 m (25.153 yard). Chúng được cung cấp khoảng 1.600-1.800 đạn pháo, tức 133-150 viên đạn cho mỗi khẩu pháo.
Dàn hỏa lực phòng không bao gồm mười bốn khẩu 10,5 cm C/33 L/65, mười sáu khẩu 3,7 cm L/83, và từ mười đến hai mươi khẩu 2 cm. Pháo 10,5 cm bắn ở tốc độ 15-18 viên mỗi phút, và có trần bắn hiệu quả 12.500 m (41.010 ft). Chúng được bố trí trên sáu bệ Dopp L. C/31 nòng đôi ở giữa tàu, cho phép hạ đến −8° và nâng lên đến 80°. Khi được sử dụng chống các mục tiêu trên mặt biển, chúng có tầm bắn tối đa 17.700 m (19.357 yard) ở góc nâng 45°. Pháo 3,7 cm được bố trí trên tám bệ Dopp L. C/30 nòng đôi vận hành bằng tay. Ở góc nâng 85°, chúng có trần bắn hiệu quả 6.800 m (22.310 ft), mặc dù đầu đạn pháo sáng bị giới hạn ở trần tối đa 4.800 m (15.750 ft). Chúng có tốc độ bắn 30 phát mỗi phút.
Sau năm 1942, sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm bố trí trên sàn tàu được lấy từ các tàu tuần dương hạng nhẹ Leipzig và Nürnberg để trang bị cho lớp Scharnhorst, với trữ lượng chiến đấu 18 quả ngư lôi. Kiểu ngư lôi này dài 7,2 m (23 ft 7 in) và mang một đầu đạn Hexanite 300 kg (661 lb). Chúng có thể đặt ở ba tốc độ di chuyển khác nhau: , và . Ở tốc độ 30 knot, quả ngư lôi có tầm hoạt động tối đa 14.000 m (15.300 yard); ở 40 knot tầm xa giảm tương ứng còn 8.000 m (8.750 yard); và ở 44 knot tầm xa giảm hơn nữa chỉ còn 6.000 m (6.560 yard). Người ta khám phá sau đó rằng tốc độ 44 knot khiến cho động cơ trở nên quá nóng, nên tốc độ này không còn được sử dụng.
Cả Scharnhorst và Gneisenau đều được trang bị hai bộ radar Seetakt; một được gắn trên tháp điều khiển hỏa lực phía trước bên trên cầu tàu, và bộ thứ hai gắn trên tháp điều khiển dàn hỏa lực chính phía sau. Radar Seetakt hoạt động ở tần số 368 MHz, thoạt tiên có công suất 14 kW, sau này được nâng cấp lên công suất 100 kW ở bước sóng 80 cm.
Vỏ giáp
nhỏ|phải|Scharnhorst trong cảng; có thể thấy rõ bề dày của đai giáp chính Lớp Scharnhorst được trang bị vỏ giáp bằng thép giáp Krupp. Sàn tàu bọc thép phía trên dày và được hậu thuẫn bởi sàn bọc thép chính. Lớp sàn tàu này dày phía sau, tăng lên 50 mm ở phần giữa con tàu bao gồm các hầm đạn và các khoang động cơ, và giảm xuống 20 mm phía mũi. Nó được hậu thuẫn bởi lớp giáp nghiêng dày dọc theo hai phía hông. Lớp giáp nghiêng này tăng cường đáng kể sự bảo vệ của vỏ giáp tại các vùng trọng yếu của con tàu. Các bộ phận sống còn của con tàu được bọc giáp tốt chống lại mọi cỡ đạn pháo bắn từ thiết giáp hạm vào thời đó, ở khoảng cách mà quả đạn pháo phải xuyên qua cả đai giáp chính và vỏ giáp sàn nghiêng. Tuy nhiên, ở tầm rất xa, vỏ giáp sàn tàu dễ dàng bị xuyên thủng bởi đạn pháo hạng nặng. Tất cả các phần này được cấu tạo bằng thép cứng (Wotan Hart). Đai giáp chính dày ở phần giữa con tàu, nơi các khu vực trọng yếu của con tàu được bố trí. Phía trước tháp pháo"A", độ dày của đai giáp giảm còn , vốn vuốt nhọn về phía mũi tàu. Phía sau tháp pháo sau, đai giáp dày , và cuối cùng vuốt chọn về phía đuôi tàu. Phần giữa của đai giáp còn được hậu thuẫn bởi những tấm chắn dày . Đai giáp được cấu tạo bởi thép giáp Krupp (KC: Krupp Cemented). Mặt trước của tháp pháo 15 cm dày , mặt hông dày và 50 mm trên nóc. Các khẩu pháo 10,5 cm cũng được trang bị tấm chắn dày . Tất cả vỏ giáp trên đều làm từ thép giáp Krupp.
Tuy nhiên, sự bảo vệ hông dưới mực nước có nhiều khiếm khuyết. Nó rất chắc chắn ở phần giữa tàu, nhưng lại yếu ở cả hai đầu của"thành trì"; việc bảo vệ dưới nước chỉ có thể ngăn chặn một đầu đạn tại những khu vực này. Một điểm yếu đáng kể khác trong thiết kế là sự sắp xếp các vách ngăn chống ngư lôi; nó nối liền với phần dưới của sàn tàu nghiêng ở một góc 10°; hai thanh tán ri-vêt chéo góc sẽ cố định nó tại chỗ. Những thanh này thường xuyên phải chịu đựng một áp lực đáng kể do những lực bẻ cong thông thường của lườn tàu. Khi kết hợp với lực nổ của một đầu đạn ngư lôi, những thanh này không thể chịu đựng được áp lực gia tăng và bị hỏng. Cũng như với độ rộng mạn thuyền chỉ có 30 m, hệ thống bảo vệ sẽ yếu hơn quanh các tháp pháo chính, vì một phần đáng kể khoảng trống trong lườn tàu đã bị chiếm chỗ bởi hầm đạn và bệ tháp pháo.
Lịch sử hoạt động
Chế tạo – Các hoạt động ban đầu
nhỏ|phải|Gneisenau trong cảng Gneisenau được đặt lườn vào ngày 3 tháng 5 năm 1935 tại xưởng Deutsche Werke ở Kiel. Nó được hạ thủy vào ngày 8 tháng 12 năm 1936 và hoàn tất vào ngày 21 tháng 5 năm 1938. Trong khi hạ thủy, con tàu đã phải chịu hư hại nhẹ ở phần đuôi tàu; dây xích hãm tốc độ hạ thủy bị đứt nên con tàu trôi quá xa và bị mắc cạn trên bờ sông đối diện. Sau khi đưa vào hoạt động, Gneisenau trải qua năm đầu tiên tiến hành các chuyến đi chạy thử máy và huấn luyện tại biển Baltic. Các chuyến đi đã bộc lộ ra việc bị ướt nước nặng trước mũi và cầu tàu, nên vào tháng 1 năm 1939 nó được trang bị một"mũi tàu Đại Tây Dương". Scharnhorst được đặt lườn tại xưởng Kriegsmarinewerft ở Wilhelmshaven, vào ngày 16 tháng 5 năm 1935. Nó được hạ thủy vào ngày 30 tháng 6 năm 1936 và hoàn tất vào ngày 7 tháng 1 năm 1939. Scharnhorst dừng lại để vớt những người sống sót, nhưng sự xuất hiện của tàu tuần dương HMS Newcastle đã buộc các tàu chiến Đức phải rút lui.
Chiến dịch Weserübung
nhỏ|trái|Scharnhorst sau khi được bổ sung"mũi tàu Đại Tây Dương" Vào ngày 7 tháng 4 năm 1940, Scharnhorst và Gneisenau đã hình thành nên lực lượng hỗ trợ chủ yếu cho cuộc chiếm đóng Narvik và Trondheim tại Na Uy trong quá trình Chiến dịch Weserübung. Lúc 04 giờ 30 phút ngày 9 tháng 4, radar Seetakt trên chiếc Gneisenau dò được một đối tượng, và cả hai chiếc được lệnh bước vào vị trí tác chiến. Nữa giờ sau, mục tiêu được xác định là chiếc tàu chiến-tuần dương cũ HMS Renown, vốn nằm trong thành phần hỗ trợ cho một hoạt động rải mìn của Anh Quốc. Chiếc tàu chiến-tuần dương Anh thoạt tiên nhắm vào Gneisenau ở khoảng cách . Trong vòng năm phút, Gneisenau bắn trúng Renown hai phát, nhưng cũng bị đáp trả hai phát, một phát làm hư hại tháp pháo phía sau của Gneisenau, trong khi phát kia làm hư hại bộ radar Seetakt của nó. Radar điều khiển hỏa lực của Scharnhorst gặp trục trặc kỹ thuật, ngăn trở nó có thể đối đầu hiệu quả với Renown. Chiếc tàu chiến Anh đụng độ với Scharnhorst một lúc ngắn bắt đầu từ 05 giờ 18 phút, cho dù các cú cơ động hiệu quả đã giúp Scharnhorst né tránh không bị bắn trúng. E ngại các tàu khu trục tháp tùng theo Renown có thể mở cuộc tấn công bằng ngư lôi, chỉ huy Đức ra lệnh rút lui khỏi trận chiến.
Scharnhorst và Gneisenau, cùng với Admiral Hipper và bốn tàu khu trục, lại lên đường vào ngày 4 tháng 6. Sau các hoạt động tại Bắc Hải mang lại kết quả đánh chìm nhiều tàu vận tải Anh, Admiral Hipper và các tàu khu trục được cho tách ra để tiếp nhiện liệu tại Na Uy bị chiếm đóng. Lúc 16 giờ 45 phút ngày 8 tháng 6, Scharnhorst và Gneisenau phát hiện tàu sân bay Anh HMS Glorious, được các tàu khu trục HMS Acasta và HMS Ardent hộ tống, ở khoảng cách . Các tàu khu trục thả một màn khói trong một nỗ lực nhằm che khuất chiếc tàu sân bay, nhưng các tàu chiến Đức nhanh chóng thu ngắn khoảng cách. Lúc 17 giờ 26 phút, khoảng cách giữa hai bên đã được thu ngắn còn một nửa, khoảng , và cả hai chiếc tàu Đức nổ súng. Scharnhorst bắn trúng Glorious ở một cự ly khoảng , một trong những phát bắn trúng xa nhất được ghi nhận trong suốt lịch sử hải chiến. Glorious bị bắn trúng ít nhất ba phát đạn pháo, biến thành một xác tàu cháy bừng; đến 19 giờ 00 nó lật úp và chìm. Scharnhorst chuyển hỏa lực sang chiếc Ardent trong khi Gneisenau nhắm vào Acasta; cả hai đều tiêu diệt được mục tiêu của mình. Trước khi chìm, Acasta phóng bốn quả ngư lôi nhắm vào Scharnhorst; con tàu Đức né tránh được ba nhưng quả thứ tư đánh trúng mạn phải gần tháp pháo phía sau. Trong suốt trận đánh, Scharnhorst đã bắn tổng cộng 212 quả đạn pháo chính.
Chiến dịch Berlin
Dưới sự chỉ huy của Đô đốc Günther Lütjens, Scharnhorst và Gneisenau xâm nhập ra Đại Tây Dương vào tháng 1 năm 1941 để đánh phá các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Bắc Mỹ và Anh Quốc. Vào ngày 8 tháng 2, chúng phát hiện Đoàn tàu vận tải HX 106, nhưng nó được hộ tống bởi thiết giáp hạm HMS Ramillies, trang bị tám pháo 38 cm (15 inch); vì vậy các tàu chiến Đức từ bỏ cuộc tấn công. Sau trận đánh, Scharnhorst và Gneisenau hướng đến Brest trong vùng đất Pháp bị chiếm đóng; chúng đến nơi vào ngày 22 tháng 3.
Trong khi ở trong ụ tàu tại La Pallice vào ngày 24 tháng 7, Scharnhorst bị nhiều phi đội máy bay ném bom Handley Page Halifax tấn công; năm quả bom đã trúng đích, bao gồm hai quả bom miểng và hai quả bom bán xuyên thép . Hai quả bom 454 kg đã xuyên thủng được cả hai sàn tàu bọc thép xuống đến tận đáy tàu kép, tuy nhiên chúng đã không phát nổ. Quả thứ ba cũng bị tịt ngòi. Một quả bom 227 kg xuyên qua sàn phía trên ngay phía trước tháp pháo phía sau, và đã phát nổ trên sàn bọ thép chính. Quả bom cuối cùng rơi bên mạn phải và cũng phát nổ trên sàn bọc thép chính. Các con tàu rời Brest vào cuối ngày 11 tháng 2, và đã không bị phát hiện trong hầu hết cuộc hành trình. Về phía Đông Dover, một tốp sáu máy bay ném bom-ngư lôi Fairey Swordfish đã tấn công các con tàu mà không mang lại kết quả. Lúc 15 giờ 31 phút, Scharnhorst trúng phải một quả thủy lôi từ tính, gây hư hại cho các cầu chì ngắt điện của con tàu đến mức bị mất điện toàn bộ. Con tàu bị bất động một lúc ngắn từ 15 giờ 49 phút đến 16 giờ 01 phút, sau đó cả ba turbine được tái hoạt động và con tàu lấy lại được tốc độ . Một loạt các cuộc không kích khác đã tiếp nối, nhưng nhờ vào sự cơ động lẩn tránh, hoả lực phòng không và sự giúp đỡ của máy bay Không quân Đức, tất cả đều bị đẩy lui. Đến trưa ngày 13 tháng 2, Scharnhorst về đến Wilhelmshaven, và sau hai ngày nó được chuyển đến Kiel để sửa chữa, vốn kéo dài cho đến tháng 7 năm 1942.
Gneisenau và Prinz Eugen tiếp tục hành trình đến Na Uy trong khi Scharnhorst ngừng hoạt động. Lúc 14 giờ 45 phút, các con tàu bị năm máy bay tiêm kích-ném bom Whirlwind tấn công nhưng bị các máy bay Đức đẩy lui. Thêm nhiều đợt không kích khác được tiếp nối trong vòng hai giờ tiếp theo mà không mang lại kết quả nào cho phía Anh. Đến 16 giờ 17 phút, năm tàu khu trục Anh tìm cách phóng ngư lôi vào các tàu chiến Đức, nhưng hỏa lực hạng nặng của Gneisenau và Prinz Eugen đã tiêu diệt một chiếc và buộc các chiếc khác phải tháo lui. Khi gần đến Terschelling, Gneisenau trúng phải một quả thủy lôi gây hư hại nhẹ cho lườn tàu, sức ép của vụ nổ gây hư hại cho một trong các turbine. Thuyền trưởng đã ra lệnh dừng con tàu để thực hiện sửa chữa tạm thời, vốn kéo dài khoảng 30 phút. Đến 03 giờ 50 phút ngày 13 tháng 2, con tàu đi đến Helgoland.
Bố trí Scharnhorst đến Na Uy
Vào tháng 1 năm 1943, người ta quyết định bố trí Scharnhorst cùng với Prinz Eugen và nhiều tàu khu trục đến Na Uy. Những dự định khởi hành vào các ngày 7 và 23 tháng 1 bị hủy bỏ sau khi hải quân nhận được báo cáo về các hoạt động tích cực của Không quân Hoàng gia từ các sân bay Anh Quốc. Một lần cố gắng thứ ba vào ngày 10 tháng 2 bị hủy bỏ khi Scharnhorst bị mắc cạn đang khi cố gắng tránh va chạm với một tàu ngầm U-boat; công việc sửa chữa kéo dài cho đến ngày 26 tháng 2. Vào ngày 8 tháng 3, Scharnhorst cùng bốn tàu khu trục rời Gdynia; nó đi đến ngoài khơi Narvik vào ngày 14 tháng 3. Trong sáu tháng tiếp theo sau, tình trạng thiếu hụt nhiên liệu đã ngăn trở mọi hoạt động lớn của Scharnhorst cũng như bất kỳ tàu chiến nào khác tại Na Uy, kể cả chiếc thiết giáp hạm lớp Bismarck Tirpitz và tàu tuần dương hạng nặng Lützow. Nó chỉ hoạt động phối hợp với năm tàu khu trục; Tirpitz bị hư hại trong một cuộc không kích của Anh vào tháng 9, và Lützow đang được gửi đi sửa chữa định kỳ. Ngày 25 tháng 12, vị trí của đoàn tàu vận tải được xác định, vào 19 giờ 00 con tàu rời cảng dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Erich Bey. Tuy nhiên, hạm đội Anh có được một ưu thế đáng kể: họ có khả năng giải được các bộ mật mã của Hải quân Đức, nên họ biết rõ ý định của Bey. Các tàu tuần dương HMS Sheffield, HMS Belfast và HMS Norfolk được bố trí để ngăn chặn Scharnhorst. Đô đốc Bruce Fraser bên trên thiết giáp hạm HMS Duke of York ở cách đó khoảng 270 hải lý, đang tiến đến để chặn đường rút lui của Scharnhorst sau khi nó đối đầu với ba tàu tuần dương Anh. Ngày 26 tháng 12, Belfast bắt được tín hiệu của Scharnhorst trên màn hình radar lúc 08 giờ 40 phút; và 40 phút sau trinh sát viên trên Sheffield trông thấy con tàu ở khoảng cách . Không lâu sau đó, Belfast bắn đạn pháo sá́ng để chiếu rõ mục tiêu, và Norfolk khai hỏa các khẩu pháo 20,3 cm (8 inch) của nó; trong vòng 20 phút nó đã bắn trúng Scharnhorst hai phát, phát trúng thứ hai đã phá hủy bộ radar Seetakt phía trước của Scharnhorst. nhỏ|phải|Những người sống sót của Scharnhorst đang lên bờ tại [[Scapa Flow]] Đến 10 giờ 00, Scharnhorst, sử dụng lợi thế nhanh hơn về tốc độ 4–6 knot, bứt ra khỏi cuộc chiến để tiếp tục truy tìm đoàn tàu vận tải. Đến 12 giờ 00, Belfast lại phát hiện được Scharnhorst, và sau 20 phút lại tiếp tục trong tầm bắn pháo. Lần này, Scharnhorst may mắn hơn trong các loạt đạn pháo; đến 12 giờ 23 phút, Norfolk bị bắn trúng hai phát đạn pháo 28,3 cm. Một phát vô hiệu hóa một tháp pháo, và phát kia làm thủng lườn tàu một lỗ lớn và làm hỏng radar. Các phát đạn bắn suýt trúng đã tung cơn mưa mảnh đạn lên chiếc Sheffield. Đến 12 giờ 41 phút, một lần nữa Scharnhorst tăng tốc và bứt ra khỏi cuộc chiến; nhưng các tàu chiến Anh vẫn tiếp tục dõi theo và báo cáo vị trí của nó cho Đô đốc Fraser trên chiếc Duke of York. Lúc 13 giờ 15 phút, Đô đốc Bey quyết định hủy bỏ cuộc truy tìm và quay trở về cảng. Ngay trước 17 giờ 00, các tàu chiến Anh lại tiếp cận nó; Belfast một lần nữa lại chiếu rọi mục tiêu bằng đạn pháo sáng, trong khi Duke of York khai hỏa với dàn pháo chính của nó. Một phát bắn trúng từ chiếc Duke of York đã vô hiệu hóa tháp pháo"A", rồi đến 18 giờ 00, một phát bắn trúng khác đã xuyên thủng phần trên của đai giáp, gây hư hại đáng kể cho phòng động cơ. Phát bắn trúng đã tạm thời làm giảm tốc độ của nó xuống còn , cho dù việc sửa chữa nhanh cho phép nó lại có thể di chuyển ở tốc độ .
Để đáp trả, đạn pháo 28 cm từ chiếc Scharnhorst đã bắn trúng cột ăn-ten của Duke of York, vô hiệu hóa bộ radar dò tìm mặt biển. Việc không có radar buộc Duke of York phải ngừng bắn lúc 18 giờ 24 phút, sau khi đã bắn trúng Scharnhorst ít nhất 13 lần. Những phát bắn trúng từ chiếc Duke of York đã loại khỏi vòng chiến hầu hết dàn vũ khí của Scharnhorst. Đô đốc Fraser ra lệnh cho các tàu khu trục của ông tiếp cận để phóng ngư lôi vào nó. Scharnhorst trúng ít nhất bốn quả ngư lôi phóng từ các chiếc HMS Scorpion và HNoMS Stord. Các cú đánh trúng đã gây ngập nước lan rộng và làm giảm tốc độ con tàu xuống còn . Duke of York sau đó tiến đến gần ở cự ly để nả pháo xuống con tàu. Vào lúc đó, chỉ còn tháp pháo"C"của Scharnhorst còn hoạt động; các pháo thủ còn sống sót chuyển đạn từ các tháp pháo bị vô hiệu"A"và"B"sang tháp pháo"C". Do bị tràn thêm nhiều nước, tốc độ của Scharnhorst tiếp tục giảm còn . Đến 19 giờ 25 phút, tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Jamaica phóng ba ngư lôi, rồi được tiếp nối với sáu quả từ chiếc Belfast. Nhiều tàu khu trục cũng tiếp cận và phóng ngư lôi, mặc dù trong màn khói và sương mù, không thể biết rõ có bao nhiêu quả đã trúng đích và tiếp tục hủy hoại con tàu. Scharnhorst bị nghiêng nặng, và đến 19 giờ 45 phút, con tàu lật sang mạn phải và chìm trong khi chân vịt của nó còn tiếp tục quay. Nó chìm ở tọa độ . Trong tổng số 1.968 sĩ quan và thủy thủ, chỉ có 36 người sống sót. Chuẩn Đô đốc Erich Bey mất cùng với con tàu của mình.
Tái cấu trúc Gneisenau
nhỏ|phải|Tháp pháo"C"của Gneisenau tại Na Uy Gneisenau cũng được dự định để bố trí đến Na Uy, nhưng nó đã bị hư hại nặng trong một cuộc không kích vào đêm 26–27 tháng 2 năm 1942. Một quả bom 454 kg đã xuyên thủng sàn tàu bọc thép ngay phía trước tháp pháo phía trước, các mảnh đạn đã kích nổ hầm đạn, gây hư hại nặng nề mũi con tàu và làm nổ tung tháp pháo"A"; 112 người chết và thêm 21 người khác bị thương. Người ta ước lượng phải mất đến hai năm mới có thể đưa nó trở lại hoạt động. Vì đây là một khoảng thời gian dài, sẽ hiệu quả hơn nếu như trong thời gian sửa chữa, con tàu sẽ được tái cấu trúc để mang sáu khẩu pháo 38 cm (15 inch) thay cho kiểu vũ khí 28,3 cm. Để đạt được điều này, lườn tàu cần phải được kéo dài thêm để cung cấp thêm độ nổi cần thiết, và hệ thống điện cũng cần được đại tu. Các tháp pháo"B"và"C"được tháo dỡ và chuyển đến Na Uy để phục vụ như là pháo phòng thủ duyên hải.
Vào ngày 4 tháng 4, cùng với tàu phá băng Castor và thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ SMS Schlesien, Gneisenau rời Kiel đi đến Gdynia. Tại đây công việc cải biến được bắt đầu: mũi tàu hư hại được tháo bỏ, tháp pháo"B"và"C"được tháo dỡ và tháo rời để chuyển đi. Krupp sẽ chế tạo các tháp pháo 38 cm mới, vốn đòi hỏi phải gia cường cấu trúc bệ tháp pháo để chịu đựng sức nặng của chúng. Vào đầu năm 1943, việc sửa chữa đã hầu như hoàn tất và con tàu đã sẵn sàng để tiếp nhận mũi tàu được cải tiến và các tháp pháo 38 cm, nhưng điều này đã không được thực hiện. Sự thất bại của các đơn vị hạm tàu nổi trong việc ngăn chặn và tiêu diệt một đoàn tàu vận tải tại Bắc Cực vào ngày 31 tháng 12 năm 1942 đã khiến Hitler ra lệnh tháo dỡ mọi tàu chiến chủ yếu. Công việc trên chiếc Gneisenau bị dừng lại, các vật liệu dành cho việc sửa chữa nó được chuyển cho các dự án khác.
Con tàu được tháo dỡ mọi vũ khí và bị bỏ xó tại cảng. Các khẩu pháo 15 cm của nó được đặt làm pháo phòng duyên tại Đan Mạch. Khi quân đội Xô-Viết tiến đến gần vào năm 1945, con tàu được kéo ra phía ngoài cảng và bị đánh chìm như một tàu ụ cản vào ngày 23 tháng 3 năm 1945. Sau chiến tranh, một hãng trục vớt Ba Lan đã cho nổi lại xác tàu vào ngày 12 tháng 9 năm 1951 rồi sau đó cho tháo dỡ lấy sắt vụn. Tháp pháo"C"tiếp tục ở lại Trondheim, Na Uy; chính phủ Na Uy đã không thành công trong dự định hoàn trả tháp pháo về Đức để trưng bày trong một bảo tàng. Các khẩu pháo 15 cm tại Đan Mạch được chuyển cho quân đội nước này; hai tháp pháo được chuyển đến pháo đài Stevnsfort vào năm 1952. Các khẩu pháo được đưa về lực lượng dự bị vào năm 1984, mặc dù chúng được tiếp tục bắn trong các đợt huấn luyện hàng năm. Chúng bắn những phát đạn pháo sau cùng vào năm 2000, trước khi pháo đài được chuyển thành một bảo tàng.