✨Chiến dịch Kavkaz
Chiến dịch Kavkaz là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức. Chiến dịch gồm hai giai đoạn: giai đoạn quân đội Đức Quốc xã tấn công (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 31 tháng 12 năm 1942) và giai đoạn quân đội Liên Xô phản công (từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 9 tháng 10 năm 1943).
Sau những thành công trong giai đoạn đầu của chiến dịch Blau ở thượng lưu và trung lưu sông Đông, ngày 25 tháng 7 năm 1942, quân đội Đức Quốc xã phát động chiến dịch Hoa nhung tuyết (tiếng Đức: "Operation Edelweiß") với mục tiêu kiểm soát các mỏ dầu tại khu vực Kavkaz, đặc biệt là khu công nghiệp hóa dầu Baku tại Azerbaijan. Trong mùa thu và đầu mùa đông năm 1942, Cụm tập đoàn quân A (Đức) do thống chế Wilhelm List chỉ huy đã lần lượt đánh chiếm các vị trí quan trọng trên thảo nguyên Kuban, đồng bằng sông Sal, tiến đến sườn phía Bắc của dãy núi Kavkaz. Quân đội Liên Xô tại Kavkaz với hai cụm tác chiến Bắc Kavkaz và Biển Đen ban đầu có quân số và trang bị kém hơn đã tiến hành hàng chục trận đánh phòng thủ để làm tiêu hao sinh lực của Cụm tập đoàn quân A. Đến giữa mùa đông, cánh trái của Cụm tập đoàn quân A (Đức) vẫn không kiểm soát được phần phía Đông của thảo nguyên Kuban và cánh quân chủ lực (Tập đoàn quân xe tăng 1) bị chặn đứng trước khu vực Grozny - Ordzhonikidze (Vladikavkaz); cánh phải của Cụm tập đoàn quân này cũng phải dừng bước trước mạch núi Kavkaz ven Biển Đen. Bị tiêu hao sinh lực, phương tiện và không có biện pháp hiệu quả để vượt qua dãy Kavkaz, đồng thời, những thất bại của Cụm tập đoàn quân B tại Stalingrad và trung lưu sông Đông cũng tạo ra mối đe dọa phía sau lưng cánh quân của Wilhelm List lúc này đã do Adolf Hitler trực tiếp nắm quyền chỉ huy; tháng 12 năm 1942, Cụm tập đoàn quân A buộc phải chuyển sang phòng ngự với tuyến mặt trận kéo dài trên 1.500 km thành một hình cánh cung nhô về hướng biển Caspi.
Chiến dịch phản công đầu tiên của quân đội Liên Xô do Phương diện quân Nam thực hiện từ ngày 1 tháng 1, sau 2 ngày, Cụm tác chiến Bắc Kavkaz cũng phản công. Cụm tác chiến Biển Đen dự định phản công ngày 8 tháng 1 năm 1943 nhưng đã phải hoãn lại đến ngày 12 tháng 1 vì các đơn vị chưa tập trung đủ binh lực và phương tiện do thời tiết xấu, trên biển có bão lớn, tàu vận tải không thể cập bờ để đổ quân. Trong khi cuộc phản công của Phương diện quân Nam bị chặn lại ở tuyến sông Manych và Cụm Biển Đen tiến triển chậm thì Cụm Bắc Kavkaz của quân đội Liên Xô đã tiến nhanh qua thảo nguyên về hướng Bataysk, phía Nam Rostov. Tại trung lưu sông Đông, Chiến dịch Sao Thổ do Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) tiến hành đang hướng đòn tấn công về Rostov. Hai mối đe dọa trên buộc Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) phải bỏ thảo nguyên Kuban, nhanh chóng rút về xung quanh Rostov, chia quân đóng giữ các đầu mối giao thông quan trọng dọc con đường chiến lược từ Georgiyevsk đi Rostov. Tập đoàn quân 17 được lệnh chốt chặt sườn Tây Bắc dãy Kavkaz dọc theo Biển Đen.
Cuộc phản công của quân đội Liên Xô tại Bắc Kavkaz chỉ mới đạt được mục tiêu trục xuất quân Đức khỏi khu vực này chứ không thể bao vây, tiêu diệt được Cụm tập đoàn quân A (Đức) như ý đồ ban đầu của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô do không đủ lực lượng và phương tiện. Quân đội Đức Quốc xã đã rút được đa số lực lượng khỏi khu vực này để sau đó, nhập vào Cụm tập đoàn quân Sông Đông thành Cụm tập đoàn quân Nam và tiếp tục gây khó khăn cho Các Phương diện quân Voronezh, Tây Nam và Nam (Liên Xô) trong mùa hè năm 1943. Ngoài ra, Quân đoàn bộ binh 14 (từ ngày 13 tháng 2 trực thuộc Tập đoàn quân 17 - Đức) vẫn giữ được căn cứ bàn đạp tại bán đảo Taman. Vì địa bàn này không còn là hướng chủ yếu chiến lược và cánh quân này hầu như bị cô lập nên sau chiến dịch Kavkaz, từ tháng 5 đến cuối tháng 9 năm 1943, các tập đoàn quân 9 và 56 của quân đội Liên Xô phải tiến hành hai chiến dịch mới phá được "Phòng tuyến xanh" của quân Đức và đẩy được Quân đoàn 14 (Đức) khỏi bán đảo Taman về Krym.
Chiến dịch Kavkaz đánh dấu thất bại cuối cùng của Kế hoạch Blau nhằm bóp chết quân đội Liên Xô trong tình trạng bị cô lập trên bộ với bên ngoài và lâm vào tình trạng thiếu hụt dầu mỏ. Nó cũng kết thúc luôn những tham vọng của nước Đức Quốc xã trong ý đồ mở một con đường trên bộ để tiến ra Trung Đông và Ấn Độ, đồng thời cũng làm cho Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ phải thay đổi thái độ, đi đến hạn chế dần những quan hệ với nước Đức Quốc xã nói riêng và các nước trong phe Trục nói chung. Quân đội Liên Xô không những đã bảo vệ được nguồn dầu mỏ tối quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đạt được kết quả quan trọng về chính trị. Chiến dịch Kavkaz cũng làm thất bại cả những mưu tính của nước Đức Quốc xã định dựng lên ở khu vực Kavkaz một chế độ li khai thân Đức do cựu trung tướng quân đội Nga hoàng, bá tước Pyotr Nikolayevich Krasnov và cựu trung tướng Bạch vệ Andrei Grigoriyevich Shkuro tự phong là Sultan vùng Krym và Sultan vùng Gəray - Azerbaijan, đứng đầu. Những vương hầu tự phong này đều phải trốn chạy theo đoàn quân Đức đang rút khỏi Kavkaz và đến ngày 9 tháng 5 năm 1945, họ đều bị bắt tại phía Tây Plezen (Tiệp Khắc) và bị Tòa án quân sự Liên Xô xử tử bằng giảo hình ngày 17 tháng 1 năm 1947.
Bối cảnh
Ảnh chụp địa hình khu vực Kavkaz từ vệ tinh
Khu vực tác chiến của hai bên là vùng Bắc Kavkaz với hai mảng địa hình rõ rệt. Ở phía Tây Nam và phía Nam là dãy núi Kavkaz không cao lắm nhưng hiểm trở, có đỉnh Elbrush cao 5.642 m. Phía Tây Bắc là bán đảo Taman, một vùng ven biển thấp và lầy lội quanh năm, trải dài từ biển Caspi ở phía Đông đến giữa mặt trận là thảo nguyên Kuban rộng lớn giáp với đồng bằng hạ lưu sông Volga-Đông qua sông Sal, một trong các vựa lúa mỳ quan trọng của Liên Xô. Đây là vùng có địa hình lý tưởng cho các hoạt động tác chiến binh chủng hợp thành. Trên đồng bằng Kuban phẳng lỳ như mặt bàn, các vũ khí hạng nặng như xe tăng, xe cơ giới, pháo tự hành rất dễ cơ động trong tấn công và rút lui, pháo binh và không quân cũng có điều kiện phát huy hỏa lực vì không có nhiều vật cản. Các con sông trong vùng đều là sông nhỏ, không sâu và không đóng băng về mùa đông. Ngược lại, ở phía Tây Nam và phía Nam thảo nguyên Kuban lại là những dãy núi khá hiểm trở, rất khó cơ động tấn công và dễ bố trí các trận địa phòng thủ. Trong lịch sử, đây là nơi thường xảy ra tranh chấp giữa các đế quốc Nga và Ottoman cũng như tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn sắc tộc do nằm ở vùng giao thoa giữa các nền văn minh lớn.
Khu vực Kavkaz là nơi có nguồn cung cấp dầu mỏ lớn của Liên Xô trước và trong chiến tranh thế giới thứ hai. Nguồn dầu mỏ ở vùng Siberia và Arkhangelsk vẫn đang còn trong giai đoạn thăm dò, đánh giá trữ lượng và khai thác thử nghiệm. Tại vùng Kavkaz, khu khai thác Baku cung cấp 71% sản lượng, khu Maikop cung cấp 24%, 5% sản lượng còn lại từ Trung Á (chủ yếu là Turkmenistan). Kết quả cuộc chiến tranh xâm lược nước Nga của Napoléon Bonaparte năm 1812 cũng như cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất cho thấy chỉ có thể đánh sập nước Nga khi đánh tan quân đội của họ chứ không thể bằng việc đánh chiếm các mục tiêu có tính chất chính trị, kể cả thủ đô Moskva. Chiếm đoạt nguồn dầu mỏ tại Kavkaz, quân đội Đức Quốc xã không những có thể gây ngưng trệ hầu hết bộ máy chiến tranh của Liên Xô mà còn có thêm nguồn dầu mỏ để tiếp tục chiến tranh trong khi hai khu vực khai thác dầu chính ở trung lưu sông Danube (Áo-Hung) và Ploesti (Romania) không đủ cung cấp cho bộ máy chiến tranh khổng lồ ấy. Đối với chính quyền Đức Quốc xã, mục tiêu này tỏ ra thực tế hơn nhiều so với các mục tiêu của Kế hoạch Barbarossa. Vì vậy, ngoài các mỏ dầu, đây còn là vùng công nghiệp quan trọng thứ hai của Liên Xô từ Donbass rút về (vùng còn lại là Tây Sibir).
Binh lực và ý đồ tác chiến
Quân đội Đức Quốc xã
Diễn biến cuộc tấn công mùa hè năm 1942 của Quân đội Đức Quốc xã tại cánh Nam mặt trận Xô-Đức
Cụm tập đoàn quân A (Đức) do thống chế Wilhelm List và từ ngày 10 tháng 9 năm 1942 do đích thân Adolf Hitler chỉ huy là một trong các cụm tập đoàn quân mạnh của quân đội Đức Quốc xã, biên chế của nó bao gồm một tập đoàn quân xe tăng, hai tập đoàn quân binh chủng hợp thành, một quân đoàn sơn chiến Italia, một quân đoàn kỵ binh Romania. Từ ngày 20 tháng 10 năm 1942, Cụm tập đoàn quân này bổ sung thêm Sư đoàn "F" là đơn vị đặc chủng chuyên tác chiến trên thảo nguyên và sa mạc: *Tập đoàn quân xe tăng 1 do tướng Paul Kleist chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng 3 của tướng Eberhard von Mackensen, gồm các sư đoàn xe tăng 13, 19 và sư đoàn cơ giới SS "Wiking". Quân đoàn xe tăng 40 của tướng Leo Freiherr Geyr von Schweppenburg gồm các sư đoàn xe tăng 3, 11, sư đoàn cơ giới 16 và sư đoàn pháo chống tăng tự hành 670. Quân đoàn bộ binh 52 của tướng Albert Zehler gồm các sư đoàn bộ binh 50, 111 và 370. *Quân đoàn bộ binh sơn chiến 49 của tướng Rudolf Konrad gồm các sư đoàn bộ binh sơn chiến 1, 4 (Đức) và sư đoàn bộ binh sơn chiến 2 (Romania). Tập đoàn quân 17 do tướng Richard Ruoff chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh 5 của tướng Wilhelm Wetzel gồm các sư đoàn bộ binh 9, 35, 73 (Đức), sư đoàn bộ binh 10 và sư đoàn kỵ binh 3 (Romania). Quân đoàn bộ binh 42 của tướng Franz Mattenklott gồm các sư đoàn bộ binh 132, 153, sư đoàn xe tăng 22 và sư đoàn đổ bộ đường không 5. Quân đoàn bộ binh 44 của tướng Maximilian de Angelis gồm các sư đoàn bộ binh 97, 101 và 257. *Tập đoàn quân 11* phòng thủ Krym, có Quân đoàn bộ binh 14 của tướng Erik Hansen tham gia chiến dịch, gồm các sư đoàn bộ binh 22, 46, 170 và sư đoàn kỵ binh 5 (Romania). Sư đoàn đặc nhiệm F** gồm các lực lượng chuyên tác chiến trên sa mạc do tướng Hellmuth Felmy đề xướng thành lập từ tháng 5 năm 1941 và do tướng Otto Deßloch chỉ huy, tổng quân số khoảng 6.000 người; gồm hai lữ đoàn người Đức, một lữ đoàn người Arab; quân số mỗi lữ đoàn khỏng 1.000 người, một tiểu đoàn xe tăng dùng động cơ làm mát bằng quạt gió gồm 25 chiếc, một phi đội máy bay trinh sát và cường kích chuyên dùng trên sa mạc có 25 máy bay, một tiểu đoàn kỵ binh cưỡi lạc đà, một trung đoàn hỗn hợp pháo xe kéo và pháo mang vác gồm 120 khẩu cỡ nòng từ 105 mm trở xuống, một trung đoàn công binh và một đại đội thông tin. Sau khi được đưa từ Hi Lạp đến Stavropol, sư đoàn này được bổ sung thêm một trung đoàn kỵ binh và tiểu đoàn xe tăng 201. *Quân đoàn sơn chiến Alpino thuộc Tập đoàn quân 8 Italia (phối thuộc cho Tập đoàn quân xe tăng 1, được rút đi ngày 25 tháng 11).
Ngày 5 tháng 4 năm 1942, Adolf Hitler ký ban hành Chỉ thị 41 về nhiệm vụ của quân đội Đức Quốc xã trong chiến cục hè-thu năm 1942 trên mặt trận Xô-Đức trong đó đề cập đến việc đánh chiếm Kavkaz của Liên Xô trong bước cuối cùng của chiến dịch. Ngày 23 tháng 7, sau khi chia tách Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) thành Cụm tập đoàn quân A và Cụm tập đoàn quân B, Hitler đã vạch ra những mục tiêu chi tiết của các hành động quân sự tại Kavkaz cho Cụm tập đoàn quân A trong Chỉ thị số 45. Trong chỉ thị này có những mục tiêu cơ bản như sau:
Tại thời điểm bắt đầu Chiến dịch Kavkaz, quân đội Đức Quốc xã đã hồi phục nhờ các hoạt động tăng viện từ Tây Âu và nước Đức cũng như sự tham gia đầy đủ hơn của các chư hầu Italia, Romania, Hungary và Kroatia. Thực hiện Kế hoạch Blau, họ đã đồng loạt tấn công với binh lực có ưu thế tương đối trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận Xô-Đức. Ở thượng lưu và trung lưu sông Đông, quân Đức đã đẩy quân đội Liên Xô sang bờ đông con sông này và vượt sông tấn công Stalingrad. Quân đội Liên Xô liên tiếp thua trận và phải rút lui sau các trận đánh phòng ngự - phản công đẫm máu và chịu nhiều tổn thất lớn. Ở hạ lưu sông Đông, Cụm tập đoàn quân A (Đức) còn có binh lực áp đảo hơn so với Phương diện quân Nam (Liên Xô) đã tiêu hao một phần đáng kể lực lượng của họ trong Trận Rostov (1941) mà vẫn chưa được bổ sung, củng cố về người và vũ khí, khí tài. Những lực lượng dự bị mà quân đội Liên Xô tích lũy một cách chật vật đã được sử dụng hết trong chiến cục mùa đông 1941-1942, đặc biệt là tại Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya. Thế chủ động trên chiến trường từ tháng 5 năm 1942 đã thuộc về Quân đội Đức Quốc xã.
Trên giấy tờ và bản đồ thì mọi việc đều có vẻ như ổn thỏa. Nhưng thực tế, việc tấn công vào Kavkaz đã biến thành một cuộc phiêu lưu quân sự lớn do đích thân Hitler tự mình quyết định, bất chấp sự can ngăn của nhiều tướng lĩnh Đức trong Bộ Tổng tham mưu quan đội Đức và các thống chế chỉ huy chiến trường. Không chịu nổi sự phê phán của họ, ngày 9 tháng 9, Hitler cách chức thống chế Wilhelm von List và đích thân nắm quyền chỉ huy trực tiếp Cụm tập đoàn quân A. Việc đưa một binh lực lớn đến hơn 30 sư đoàn vào một vùng tác chiến xa xôi với hai mặt là biển, phía trước là núi cao và giao thông kém phát triển như ở Kavkaz chứa đựng những hiểm họa bị cắt đứt tuyến tiếp tế qua đường sắt duy nhất từ Rostov qua Grozny đến Makhachlala. Trong khi đó, Cụm tập đoàn quân B (Đức) vẫn chưa thể chế ngự được sự uy hiếp đánh đòn từ phía sau của ba Phương diện quân Liên Xô trên vùng đất hẹp nằm giữa hai khúc cong lớn của sông Đông và Sông Volga. Sự uy hiếp đó nghiêm trọng đến mức ngày 29 tháng 7 năm 1942, Bộ Chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã phải điều Tập đoàn quân xe tăng 4 đã chiếm giữ căn cứ bàn đạp quân sự Tsimlianskaya ở bờ nam sông Tsimla và chuẩn bị nhằm hướng Kavkaz phải đổi hướng tấn công về Stalingrad để hỗ trợ cho Tập đoàn quân 6 (Đức).
Quân đội Liên Xô
Chính ủy lữ đoàn [[Leonid Brezhnev tại Tập đoàn quân 18, năm 1942]] Vì phải liên tục rút lui và chống đỡ các đòn tấn công của quân đội Đức Quốc xã trong mùa hè năm 1942 nên biên chế và phân bố lực lượng của quân đội Liên Xô tại khu vực Bắc Kavkaz không ổn định. Ban đầu, Phương diện quân Bắc Kavkaz được thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1942 đóng vai trò của một lực lượng dự bị, hướng phòng thủ chủ yếu là bán đảo Taman đối diện với bán đảo Kerch của lãnh thổ Krym mà quân đội Liên Xô vừa phải rút bỏ và đề phòng quân đội Thổ Nhĩ Kỳ tấn công từ phía Nam Kavkaz. Phía Bắc phương diện quân này là Phương diện quân Nam đang phòng thủ tuyến sông Mius và hạ lưu sông Đông. Hai tuần sau khi quân đội Đức Quốc xã đánh bại Phương diện quân Nam và xâm nhập Kuban, Phương diện quân Nam bị giải thể. Các tập đoàn quân của nó được nhập vào Phương diện quân Ngoại Kavkaz. Ba ngày sau khi Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đột kích bổ đôi mặt trận của Phương diện quân Bắc Kavkaz và đánh chiếm Salsk, Phương diện quân Bắc Kavkaz bị giải thể. Phương diện quân Ngoại Kavkaz gồm các tập đoàn quân 46, 47 được điều từ biên giới Thổ Nhĩ Kỳ về, chỉ để lại Tập đoàn quân 45 phòng thủ biên giới phía Nam Kavkaz. Trên cơ sở các lực lượng của cả hai phương diện quân Bắc Kavkaz và Ngoại Kavkaz, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô thành lập hai cụm tác chiến Biển Đen và Bắc Kavkaz. Đại tướng Tyulenev, nguyên tư lệnh Phương diện quân Ngoại Kavkaz được bổ nhiệm làm đại diện thường trực của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô tại cả hai cụm tác chiến này. Mặc dù quân đội Liên Xô đã rút các tập đoàn quân 44, 46 và 47 từ Iran về nhưng sau khi thua trận ở bán đảo Kerch, Tập đoàn quân 44 đã kiệt quệ đến mức phải rút ra làm lực lượng dự bị chờ bổ sung quân số và được giao trấn giữ cửa ngõ vào Makhachkala, phía sau Tập đoàn quân 9 có thực lực mạnh hơn. Sau trận tấn công vượt sông Tsimla của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức), Tập đoàn quân 51 đã bị cắt rời khỏi Phương diện quân Bắc Kavkaz và được nhập vào đội hình Phương diện quân Đông Nam để trấn giữ hướng Nam Stalingrad. Trong tháng 6, đã có một kế hoạch của Bộ Tư lệnh công binh đề nghị thiết lập những tuyến hàng rào dây théo gai nhiều lớp tại các vị trí phòng thủ giữa sông Đông, sông Kuban và sông Terek, ở các khu vực phòng thủ Taman và dọc theo bờ vịnh Azov với tổng chiều dài khoảng 2.000 km. Dự kiến sử dụng khoảng 1.000.000 quả mìn chống tăng và mìn chống kỵ binh, 700 tấn thuốc nổ và 600 tấn dây thép gai. Nhưng kế hoạch này đã không được triển khai sớm.
Chỉ đến đầu năm 1943, khi đã có trong tay những lực lượng dự bị mạnh, quân đội Liên Xô mới có thể tăng cường thêm nhiều sinh lực và phương tiện cho hướng Kavkaz nhưng không phải với ý định tấn công vỗ mặt mà sử dụng đòn vu hồi từ Cụm tác chiến Biển Đen để cắt đường giao thông của Cụm tập đoàn quân A (Đức) về Rostov và hạ lưu sông Đông. Tuy nhiên, do sự thiếu phối hợp giữa Cụm Biển Đen và Cụm Bắc Kavkaz, kế hoạch này đã không đạt được kết quả cuối cùng.
Diễn biến chiến dịch
Pháo binh Đức bắn phá các vị trí của quân đội Liên Xô trên dãy Kavkaz
Quân đội Đức Quốc xã tấn công
Tại hướng Tikhoretsk-Stavropol
Ngày 25 tháng 7 năm 1942, Cụm tập đoàn quân A (Đức) bắt đầu mở Chiến dịch Hoa nhung tuyết (Operation Edelweiß) với mục tiêu chọc thủng tuyến phòng ngự của quân đội Liên Xô ở bờ Nam sông Đông. Ngay trong ngày đầu, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) vượt sông Đông ở phía Bắc Veselyy, đánh vào hai bên sườn đội hình phòng ngự mỏng yếu của Tập đoàn quân 12 (Liên Xô) do thiếu tướng A. A. Grechko chỉ huy. Sư đoàn xe tăng 11 (Liên Xô) chỉ còn 30 xe tăng hầu như bị tiêu diệt trong các trận đánh giữa sông Đông và sông Manych.
Đến đây Quân đoàn sơn chiến Alpino (Italia) phải chuyển sang phòng thủ dưới chân núi Kavkaz. Quân đoàn sơn chiến 49 (Đức) chuyển các nỗ lực tấn công sang hướng Armavir - Maikop để phối hợp với Tập đoàn quân 17 cố chiếm được Tuapse, một đầu mối đường sắt quan trọng trên con đường chiến lược chạy dọc bờ Biển Đen.
Trên hướng Armavir-Maikop
Bộ binh Đức tấn công lên các sườn núi Kavkaz
Maikop là mục tiêu đầu tiên tại Bắc Kavkaz mà quân đội Đức Quốc xã muốn đánh chiếm do đây là khu mỏ dầu lớn thứ hai sau Baku, cung cấp 24% sản lượng dầu của toàn Liên Xô khi đó. Chiếm được nó, quân đội Đức Quốc xã có thêm một nguồn "vàng đen" quan trọng để tiếp tục nuôi dưỡng bộ máy chiến tranh. Song song các đợt tấn công nhằm cắt đứt con đường sắt phía Tây Kavkaz ven Biển Đen, Cụm tập đoàn quân "A" (Đức) đã triển khai Quân đoàn xe tăng 3 (Tập đoàn quân xe tăng 1) phối hợp với Quân đoàn bộ binh 44 tấn công Armavir, các Quân đoàn bộ binh 5 và 42 của Tập đoàn quân 17 tấn công Krasnodar để mở cánh cửa vào Maikop từ hai hướng Đông và Bắc.
Ngày 6 tháng 8, Quân đoàn xe tăng 3 bắt đầu vượt sông công kích khu phòng thủ Armavir. Bảo vệ cây cầu bắc qua sông Kuban tại Armavir, Tiểu đoàn pháo chống tăng 2 thuộc trung đoàn pháo chống tăng 29 đã chống đỡ suốt ba ngày với trung đoàn đoàn xe tăng 800 "Brandenburg" thuộc sư đoàn xe tăng 13. Tuy nhiên, đây chỉ là mũi kỳ binh. Hướng tấn công chính của quân Đức gồm sư đoàn xe tăng 19 và sư đoàn cơ giới SS "Wiking" đột phá vào tuyến phòng thủ rất mỏng của Tập đoàn quân 12 (Liên Xô) vốn đã quá suy yếu sau Chiến dịch phòng thủ Tikhoretsk-Stavropol. Ngay trong ngày 6 tháng 8, Quân đoàn bộ binh 44 của Tập đoàn quân 17 từ Tikhoretsk đột kích qua Gulkevichi, đánh vào sau lưng chủ lực Tập đoàn quân 12 (Liên Xô). Sư đoàn xe tăng 19 và sư đoàn cơ giới SS "Wiking" vượt sông Kuban tại phía Nam Kropotkin. Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) được điều ra tuyến sông Laba để phòng thủ Maikop từ hướng Đông Bắc trong khi Trung đoàn pháo chống tăng 29 và lữ đoàn bộ binh 107 của Tập đoàn quân 12 vẫn cố gắng ngăn chặn Sư đoàn xe tăng 13 (Đức) tại phía cây cầu Armavir.
Quân cảng Novorossiysk bị quân Đức đánh chiếm
Các đoàn xe quân sự Đức chìm ngập trong tuyết trên dãy Kavkaz
Cuối năm 1942, Novorossisk là hải cảng lớn nhất còn lại của Hải quân Liên Xô tại Biển Đen trong khi các căn cứ hải quân quan trọng như Odessa, Sevastopol đã lần lượt bị quân Đức đánh chiếm. Mặc dù Liên Xô còn có một số cảng ở phía Nam như Batumi và Poti nhưng tại các cảng này không có đủ các công trình kỹ thuật để bảo dưỡng, sửa chữa tàu chiến, đặc biệt là tàu ngầm. Mực nước nông của các cảng này cũng không cho phép các thiết giáp hạm hạng nặng có thể cập bến. Nếu để mất Novorossisk, Hạm đội Biển Đen của Hải quân Liên Xô có thể bị tê liệt. Do đó mà Novorossisk đã trở thành một trong các mục tiêu quan trọng của Chiến dịch Hoa nhung tuyết. Và cũng chính vì vậy mà Novorossisk trở thành một chiến trường khốc liệt, tuy chật hẹp nhưng lại thu hút nhiều sinh lực và phương tiện của Quân đội, Hải quân Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã tham chiến.
Cuộc phòng thủ Novorossiysk diễn ra hơn một tháng. Bằng các đòn đánh liên tục của các sư đoàn bộ binh, kỵ binh và xe tăng thay phiên nhau tấn công, Tập đoàn quân 17 (Đức) do tướng Richard Ruoff đã phải lần lượt bóc gỡ từng tuyến phòng thủ, từ cụm chốt của bộ binh và hải quân đánh bộ Liên Xô. Sau 22 ngày tấn công, ngày 10 tháng 9, quân Đức đã chiếm được quân cảng Novorossiysk nhưng không thể tiến xa hơn với những thiệt hại đáng kể. Hải quân Đức cũng không thể sử dụng được căn cứ hải quân này do nó luôn nằm trong tầm bắn của pháo binh hạng nặng và không quân ném bom của Liên Xô; đồng thời, các luồng lạch ra vào cảng đều rải thủy lôi hoặc bị tàu ngầm Liên Xô phong tỏa. Mặc dù bị mất căn cứ hải quân Novorossisk nhưng Hạm đội Biển Đen của Liên Xô vẫn cố gắng sử dụng hai hải cảng nhỏ hơn tại Sukhumi và Poti để trú đậu, vẫn thực hiện đều đặn các nhiệm vụ vận tải, tiếp tế và yểm hộ cho các lực lượng trên bộ dọc bờ Tây Biển Đen. Cuối cùng, cuộc phản công ngày 25 tháng 9 của Tập đoàn quân 47 (Liên Xô) đã buộc các lực lượng Đức ở Novorossiysk phải chuyển sang phòng ngự và không thể đột phá về phía Tuapse.
Trước cửa ngõ Grozny - Odzhonikidze
Một đơn vị xe tăng Liên Xô tại Makhachkala
Những trận đánh trước cửa ngõ Grozny - Odzhonikidze (nay là thành phố Vladikavkaz) thường được gọi là Chiến dịch phòng thủ Mozdok-Malgobek. Chiến dịch này là hoạt động quân sự lớn của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz (Liên Xô) chống lại cuộc tấn công của Cụm tập đoàn quân A (Đức) qua Mozdok và Grozny về hướng Makhachkala nhằm mở đường vượt sông Terek để tiến về Baku. Từ ngày 1 tháng 9, các quân đoàn xe tăng 3, 40 và quân đoàn bộ binh 52 của tướng Paul Ludwig Ewald von Kleist sau khi đánh chiếm khu công nghiệp lọc hóa dầu Maikop đã cơ động qua Nevinnomyssk tấn công các khu vực phòng thủ của quân đội Liên Xô tại các thành phố Kislovodsk, Piatigorsk, Georgiyevsk nằm trên tuyến phòng thủ từ xa bảo vệ hướng Makhachkala-Baku. Ngày 5 tháng 9, các quân đoàn xe tăng 3 và 40 (Đức) đột phá qua các cụm phòng thủ Kislovodsk, Piatigorsk, Georgiyevsk của quân đội Liên Xô, đẩy Tập đoàn quân 37 (Liên Xô) về tuyến Nalchik - Mozdok. Ngày 6 tháng 9, Tập đoàn quân 9 (Liên Xô) và Tập đoàn quân 44 đã thiết lập xong trận địa phòng thủ phía Tây Grozny gồm 4 tuyến, khóa chặt hai tuyến đường sắt qua Naurskaya và Grozny đi Makhachkala. Mặc dù phải bỏ Nalchik nhưng Tập đoàn quân 37 cũng chặn được Quân đoàn xe tăng 40 (Đức) trước của ngõ Ordzhonikidze. Ở cánh phải, mọi cố gắng của Quân đoàn bộ binh 52 (Đức) đột phá từ Mozdok theo nhánh phía Bắc tuyến đường sắt từ Prokhladny qua Mozdok đi Makhachkala đều bị cánh phải của Tập đoàn quân 9 (Liên Xô) và Tập đoàn quân 44 chặn đứng. Ngày 25 tháng 9, tại cửa ngõ Ordzhonikidze đã diễn ra các trận đột kích của Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) và các cuộc phản đột kích của cánh trái Tập đoàn quân 9 và Tập đoàn quân 37 (Liên Xô). Trong một trận phục kích xe tăng từ ngày 13 đến 14 tháng 9 diễn ra tại "cửa ngõ" Elkhotovsky, Quân đội Liên Xô đã chặn được các sư đoàn xe tăng Đức ngay ở ngoại ô phía Tây Ordzhonnikidze. Ngày 15 tháng 9, tướng Paul Kleist phải ra lệnh cho các quân đoàn xe tăng Đức ngừng công kích và chuyển sang phòng ngự. Ngày 25 tháng 9, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) mở một trận phản kích, chiếm lại "cửa ngõ" Elkhotovo, ngăn cản thành công các đòn phát triển tấn công tiếp theo của quân đội Liên Xô. Không kể một số trận đánh nhỏ có tính thăm dò, trinh sát, hai bên giữ thế phòng ngự tại khu vực này trong suốt hơn hai tháng trước khi diễn ra cuộc tổng phản công mùa đông của quân đội Liên Xô.
Quân đội Liên Xô phòng thủ ở ngoại vị Ordzhonikidzhe
Chiến dịch phòng thủ Mozdok-Malgobek đã gây cho Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) những tổn thất nặng nề hơn cả Trận Rostov (1941). Các số liệu thống kê thiệt hại ít nhất cũng cho thấy có đến gần 10.000 sĩ quan và binh lính chết và bị thương, khoảng 140 đến 150 xe tăng bị phá hủy. Cụm tập đoàn quân A đã không đạt được mục tiêu nhiệm vụ bao vây và tiêu diệt các tập đoàn quân Liên Xô tại khúc cong của sông Terek như Hitler đã hoạch định. Nhiều nhà phân tích quân sự cho rằng thất bại của Tập đoàn quân xe tăng 1 tại Bắc Kavkaz là do nó phải tác chiến đơn độc trên một hướng chiến lược riêng và cách xa hậu cứ, hầu như không nhận được sự chi viện nào đáng kể của Tập đoàn quân 17 đang sa vào các trận đánh có tính địa phương trên các triền núi phía Tây Bắc dãy Kavkaz. Trong giai đoạn đầu của chiến dịch, không quân Đức phát huy được vai trò yểm hộ tích cực và có hiệu quả cho xe tăng trên mặt đất khi chiến sự chủ yếu đang diễn ra ở phía Nam đồng bằng Kuban và hạ lưu sông Terek. Nhưng đến khi Tập đoàn quân xe tăng 1 chuyển hướng tấn công chủ yếu sang phía Tây khu vực Grozny - Ordzhonikidze, nơi có nhiều đồi núi và rừng cây thì hiệu quả đó bị giảm nhiều. Ngoài ra, một lực lượng đáng kể không quân ném bom và cường kích bị hút về hướng Stalingrad cũng làm giảm đánh kể sự yểm hộ từ trên không đối với lực lượng xe tăng. Mặt khác, một tập đoàn quân đông đảo như Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) cần được bảo đảm một khối lượng hậu cần, tiếp tế lớn hơn rất nhiều so với một tập đoàn quân bộ binh. Trong đó, việc tiếp tế xăng dầu, đạn dược (chủ yếu là đạn pháo tăng), các thiết bị kỹ thuật hỗ trợ, các phụ tùng thay thế trở thành một hoạt động sống còn. Nhưng với chỉ duy nhất một con đường sắt có chất lượng kỹ thuật thấp và năng lực lưu thông hạn chế như tuyến đường Rostov - Makhachkala thì không thể đảm bảo cho tập đoàn quân ấy có đủ khí tài và đạn dược để duy trì sức chiến đấu trong một chiến dịch kéo dài. Tướng F. V. Kamkov, tư lệnh tập đoàn quân 18 rút các lực lượng còn lại tuyến một (gồm sư đoàn bộ binh cận vệ 32 và lữ đoàn bộ binh 68 về, cùng với các sư đoàn bộ binh 236, 383, 395 và lữ đoàn bộ binh 40 thiết lập tuyến phòng thủ chính trên các triền núi phía Tây và Tây Bắc Tuapse. Ngày 27 tháng 9, xe tăng Đức đánh chiếm thị trấn Goryachi-Ylyuch. Ngày 28 tháng 9, Sư đoàn bộ binh 97 (Đức) đánh chiếm thị trấn Neftegorsk. Từ ngày 28 tháng 9 đến ngày 8 tháng 10, các sư đoàn thuộc hai quân đoàn bộ binh 42 và 44 (Đức) thay nhau đột kích vào tuyến phòng ngự của quân đội Liên Xô và đã tiến đến ngoại vi thị trấn Shaumian, cách Tuapse 35 km về phía Đông. Ở phía Nam cánh quân này, các sư đoàn sơn chiến 4 (Đức) và 2 (Romania) cũng mở các đợt tấn công vào Belorechensky nhằm kéo giãn đội hình của Tập đoàn quân 18 (Liên Xô), buộc tướng F. V. Kamkov phải điều đến đây sư đoàn bộ binh 338, các lữ đoàn bộ binh 40 và 68 để bảo vệ hướng Sochi. Ngày 9 tháng 10, tướng F. V. Kamkov sử dụng các sư đoàn bộ binh 383, 295 phối hợp với sư đoàn bộ binh 339 và sư đoàn bộ binh sơn chiến 69 của Tập đoàn quân 56 mở cuộc phản kích từ hai bên sườn vào đội hình các sư đoàn bộ binh 132 và 101 (Đức) đang đột phá về hướng Shaumian. Mặc dù buộc quân Đức phải dừng lại khi chỉ còn cách Shaumian 5 đến 8 km nhưng Tập đoàn quân 18 và Tập đoàn quân 56 không còn đủ sức để tiếp tục phản công. Ngày 17 tháng 10, tướng Richard Rouff tung sư đoàn xe tăng 22 vào trận, tiếp tục đột kích đánh chiếm thị trấn Shaumian và đẩy lùi các sư đoàn bộ binh 31, 259 và 383 thêm 10 km về hướng Tuapse. Quân Đức chỉ còn cách Tuapse 8 km về phía Đông. Từ trên các đỉnh núi, bằng ống nhòm, sĩ quan và binh lính Đức có thể nhìn thấy Biển Đen hiện ra ở chân trời phía Tây nhưng đó là cự ly gần nhất giữa Biển Đen với quân Đức mà họ đạt được trên hướng Tuapse. Ngày 26 tháng 11, tướng A. A. Grechko, tư lệnh mới của Tập đoàn quân 18 (thay tướng F. V. Kamkov được điều đến chỉ huy Tập đoàn quân 47) đã điều các đơn vị mới được tăng cường và sư đoàn bộ binh 408 (thiếu trung đoàn 672), trung đoàn hải quân đánh bộ 145, các tiểu đoàn hải quân đánh bộ 143, 324 và tiểu đoàn đặc biệt Spetnaz mở cuộc phản công vào sườn phía Nam cánh quân Đức đang phòng thủ Shaumian. Tập đoàn quân 56 cũng phản công vào Quân đoàn 42 (Đức) đang đóng tại phía Tây thị trấn Goryachi-Ylyukh. Đến ngày 17 tháng 12, các quân đoàn 42 và 44 (Đức) buộc phải lùi về tuyến xuất phát mà trước đó, ngày 25 tháng 9 họ đã dùng làm bàn đạp đột kích về Shaumian. Sau khi chịu những tổn thất lớn và buộc phải dừng lại khi còn cách Biển Đen khoảng 10 km, Tập đoàn quân 17 phải chuyển sang phòng thủ và đến hết năm 1942, đã không còn đủ sức để mở thêm bất kỳ một trận tấn công nào nữa. Thất bại này cũng làm cho Hitler phải gánh lấy trách nhiệm vì đích thân ông ta đã ra lệnh đưa quân vào Kavkaz. Ngoài thống chế Wilhelm von List bị cách chức tư lệnh Cụm tập đoàn quân A từ ngày 10 tháng 9, không một tướng Đức chỉ huy các tập đoàn quân và quân đoàn nào bị cách chức nữa. Thậm chí, ngày 22 tháng 11 năm 1942, tướng Ewald von Kleist còn được Hitler tin cẩn giao chức vụ tư lệnh Cụm tập đoàn quân A. Tướng Eberhard von Mackensen thay ông này chỉ huy Tập đoàn quân xe tăng 1. Ngày 3 tháng 11, Sư đoàn xe tăng 23 (Đức) đã có mặt trước khu vực Gisel, ngoại ô Ordzhonikidze. Trong các ngày 4 và 5 tháng 11, khoảng 150 xe tăng Đức cố gắng đột phá vào Ordzhonikidze nhưng đã vấp phải đòn phản kích của Tập đoàn quân 9 (Liên Xô) được tăng cường 3 lữ đoàn xe tăng đã bố trí xong trận địa phòng thủ ở khu vực khu vực Gisel. Ngày 6 tháng 11, Sư đoàn xe tăng 13 (Đức) với binh lực đã bị tiêu hao trong các trận đánh hồi tháng 9 được tung vào trận để hỗ trợ cho sư đoàn xe tăng 23 nhưng cũng không xoay chuyển được tình thế.
Quân đội Liên Xô phản công
Diễn biến cuộc phản công mùa Đông 1942-1943 của Quân dội Liên Xô tại cánh Nam mặt trận Xô-Đức
Kế hoạch "Núi" và kế hoạch "Biển"
Thất bại của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực Stalingrad đã làm cho quân Đức mất quyền chủ động chiến lược. Không những thế, chiến trường Stalingrad còn thu hút vào đó nhiều lực lượng của cả lục quân và không quân Đức để cố gắng giải vây cho Tập đoàn quân 6 và một phần Tập đoàn quân xe tăng 4. Sau các chiến dịch Bão Mùa đông và Sao Thổ, số phận của cụm quân Đức do tướng Friedrich Paulus chỉ còn có thể tình bằng tháng, bằng ngày. Trên toàn bộ mặt trận Xô-Đức, quân Đức đều phải chuyển sang phòng ngự. Đó là những điều kiện thuận lợi để quân đội Liên Xô tại mặt trận Kavkaz chuyển sang phản công cùng với các phương diện quân khác.
Trong khi từ ngày 1 tháng 1 năm 1943, Cụm tác chiến Bắc Kavkaz đã bắt đầu thực hiện các cuộc truy kích và cản đường Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) tại một vòng cung lớn từ chikola qua Elkhotovo, Malgobek, Mozdok, Sunzhenskiy, Sogulyakin đến Achikulak đều hướng về khu vực Georgiyevsk - Piatigorsk thì ngày 8 tháng 1 Cụm tác chiến Biển Đen mới trình lên Đại bản doanh hai kế hoạch tác chiến mới lấy tên là "Biển" và "Núi":
Kế hoạch "Biển" dự kiến ba giai đoạn phản công trên hướng biển. Giai đoạn I từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 1 năm 1943, Tập đoàn quân 47 phối hợp hành động với Hạm đội Biển Đen chọc thủng tuyến phòng ngự của quân Đức ở Abinsk, chiếm thị trấn Krymsk, tạo bàn đạp tấn công cánh quân Đức ở Novorossiysk từ phía đất liền, sau đó, phát triển tấn công vào bán đảo Taman. Giai đoạn II dự kiến từ ngày 16 tháng 1 đến 25 tháng 1. Nhiệm vụ đánh chiếm cảng Novorossiysk sẽ do sự phối hợp hành động giữa Hạm đội Biển Đen và Tập đoàn quân 18 từ đất liền đánh vào và đội quân đổ bộ từ phía biển đánh lên. Giai đoạn III dự tính sẽ tổng tiến công bằng hai tập đoàn quân phối hợp với Hạm đội Biển Đen giải phóng bán đảo Taman sau khi hoàn thành hai giai đoạn trước. Bản kế hoạch này đã được Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô phê chuẩn mà không cần phải góp ý nhiều.
Sau trận phản công nhưng không đạt được kết quả mong đợi giữa tháng 12 năm 1942, tướng I. I. Maslennikov, tư lệnh Cụm tác chiến Bắc Kavkaz (Liên Xô) quyết định thành lập tại sườn phải của cụm quân một lực lượng xung kích tấn công, bao gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 9, 10 và chọn ngày 29 tháng 12 để bắt đầu cuộc tấn công bao vây và tiêu diệt quân Đức ở khu vực Mozdok, và sau đó phát triển đến Prokhladny. Nhưng trên thực tế thì trọng tâm tác chiến của toàn bộ Mặt trận Kavkaz chuyển sang hướng Biển Đen, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô điều Quân đoàn bộ binh cận vệ 10 đến triển khai tại khu vực Tuapse, trên chính diện của các sư đoàn bộ binh 271 và 347 và lệnh cho tướng I. I. Maslennikov hoãn cuộc tấn công. Ban đầu, tướng I. I. Maslennikov không muốn chuyển giao Quân đoàn bộ binh cận vệ 10 nhưng trước nhận xét nặng nề của I. V. Stalin: "Đồng chí ấy (chỉ Maslennikov) đang xa rời bộ đội của mình, không chỉ huy được họ và đang bơi trong cảnh mất trật tự"; I. I. Maslennikov buộc phải chấp thuận.
Quân đội Liên Xô đánh chiếm nhà ga Mozdok, tháng 1-1943
Bốn tập đoàn quân 9, 37, 44, 58, các quân đoàn kỵ binh cận vệ 4, 5 và quân đoàn cơ giới 5 (Liên Xô) lần lượt chiếm lại các thành phố Mozdok và Nalchik (ngày 4 tháng 1), Kislovodsk, Pyatigorsk và Georgiyevsk (ngày 15 tháng 1), Cherkessk và Nevinnomyssk (ngày 18 tháng 1) và Stavropol (ngày 21 tháng 1). Ngày 24 tháng 1 năm 1934, Cụm tác chiến Bắc Kavkaz được nâng cấp thành Phương diện quân Bắc Kavkaz và vẫn không ngừng cuộc tấn công lên phía Bắc. Ngày 24 tháng 1, Tập đoàn quân 9 đánh chiếm Armavir. Ngày 25 tháng 1, Tập đoàn quân 44 và Quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 Kuban gặp Tập đoàn quân 28 của Phương diện quân Nam tại Bogoroditskoye. Ngày 26 tháng 1, Tập đoàn quân 37 đánh chiếm thành phố Kropotkin. Ngày 28 tháng 1, Tập đoàn quân 58 đánh chiếm Tikhoretsk và phát triển tấn công dọc theo con đường sắt Tikhoretsk - Eysk, lần lượt đánh chiếm các điểm dân cư Kanevskaya, Pavlovskaya, Kushchevsky và ngày 31 tháng 1 đã có mặt tại bờ vịnh Azov trên khu vực Novobataysk - Eisk - Yasenki.
Sau khi hội quân với Tập đoàn quân 28 tại Bogoroditskoye, Tập đoàn quân 44, các quân đoàn kỵ binh 4, 5 và quân đoàn có giới 5 phát triển tấn công về phía Bắc. Tập đoàn quân 58 cũng tham gia cuộc tấn công này. Vấp phải đòn phản kích của Quân đoàn xe tăng 3 (Đức), ngày 4 tháng 2, quân đội Liên Xô phải dừng bước trước cửa ngõ phía Nam Rostov trên tuyến Krugloye, Samarskoye, Manychskaya sát phía Nam Azov và Bataisk. Ở cánh trái, các tập đoàn quân 9 và 37 sau khi chiếm Armavir và Kropotkin đã lật cánh sang hướng Biển Đen, trợ giúp cho Cụm tác chiến Biển Đen công kích khu phòng thủ hạ lưu Kuban của Tập đoàn quân 17 (Đức).
Xe tăng T-26 và bộ binh Liên Xô phản công trên hướng Rostov
Ở phía Tây, cuộc tấn công của các Tập đoàn quân 28 và 51 (Phương diện quân Nam) tiến triển thuận lợi trong tuần thứ hai. Các tập đoàn quân này đã tiến một cự ly dài hơn 250 km từ phía Nam sông Sal - Elista đến khu vực hồ chứa nước Malnyk - Salsk. Tập đoàn quân cận vệ 2 (Liên Xô) được tung vào trận cũng tiến quân một mạch từ Zhukovskaya (phía Tây Kotennikovo) đến Bagaevskaya (phía Đông Novocherkassk) trong tuần thứ ba của chiến dịch mà không gặp phải sức kháng cự đáng kể của quân Đức. Tuy nhiên, cuộc tấn công này không đạt được mục đích quan trọng cuối cùng. Dựng lên một lá chắn thép trước của ngõ phía Tây Rostov - Novocherkassk, sư đoàn xe tăng 23 (được trả về Tập đoàn quân xe tăng 4 sau Chiến dịch Bão Mùa đông) đã chặn đứng các cuộc tấn công của Tập đoàn quân cận vệ 2 (Liên Xô) trên khu vực hợp lưu giữa sông Đông và sông Malnyk. Chếch về phía Nam, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) cũng dùng Sư đoàn xe tăng 11 và Sư đoàn cơ giới 16 lập thành một lá chắn thép từ Malnychskaya đến Egorlykskaya. Do không có sự phối hợp của các đòn đánh bổ trợ từ hướng Tây Nam theo kế hoạch "Núi", các tập đoàn quân cận vệ 2, 28 và 51 của quân đội Liên Xô đã phải dừng lại trên tuyến này ngày 24 tháng 1 năm 1943.
Quân đội Liên Xô giải phóng nhà ga đầu mối Krasnodar
Trong tuần đầu tháng 2 năm 1943, tướng Richard Ruoff, Tư lệnh tập đoàn quân 17 (Đức) cố gắng giữ tuyến Kropotkin - Tikhoretsk nhưng không đủ lực lượng. Ngày 4 tháng 2, Tập đoàn quân 58 (Liên Xô) đánh chiếm Tikhoretsk và phát triển đến Eisk trên bờ biển Azov. Tập đoàn quân 9 (Liên Xô) tiến dọc theo sông Beysue đánh chiếm thị trấn Bryukhovetskaya. Phần lớn Tập đoàn quân 17 (Đức) bị dồn về phía bán đảo Taman, khu vực Krasnodar và khu tam giác đồng lầy Petrovskaya - Timashevsky - Grivenskaya ở Đông Bắc Taman. Ở phía Tây, Tập đoàn quân 47 không đột phá được tuyến phòng thủ của Quân đoàn bộ binh xung kích 5 (Đức). Cuộc tấn công của Tập đoàn quân này vào quân cảng Novorossiysk cũng không thu được kết quả. Trung đoàn xe tăng còn lại của Sư đoàn xe tăng 22 thuộc Quân đoàn bộ binh 42 (Đức) đã chặn được các mũi tấn công yếu hơn của Tập đoàn quân 47 trước cửa ngõ các thị trấn Abinsk và Krymsk. Dựa vào các tuyến phòng thủ trước đây của quân đội Liên Xô, Tập đoàn quân 17 (Đức) mặc dù bị chia cắt khỏi Tập đoàn quân xe tăng 1 nhưng đã thiết lập được tuyến phòng thủ vững chắc phía ở Đông bán đảo Taman, bao gồm cả thành phố Krasnodar.
Chiến dịch Taman lần thứ nhất
Bán đảo Taman
Sau những thất bại ở đồng bằng trung lưu sông Kuban và buộc phải bỏ thành phố Krasnodar cùng với hầu hết đồng bằng Kuban rút về cố thủ tại bán đảo Taman, Tập đoàn quân 17 (Đức) đã dựng lên ở đây một tuyến phòng thủ vững chắc có tên là "Phòng tuyến xanh" gồm hai lớp. Lớp ngoài gồm hai tuyến phòng thủ không liên tục. Tuyến thứ nhất từ Cheburgolskaya dọc theo sông Protoka (phân lưu của sông Kuban) qua Petrovskaya đến Slavianskaya (Slaviansk on Kuban) trên hữu ngạn sông Kuban, tuyến thứ hai từ tả ngạn sông Kuban (đối diện với Slavianskaya) dọc theo sông Abin đến phía trước thị trấn Abinsk và bao gồm cả cụm cứ điểm Abinsk. Lớp phòng thủ thứ hai liên tục từ phía Đông căn cứ không quân Temryuk qua Kievskoye, Moldavanskoye đến Krymsk, được cấu trúc kiên cố bằng đá do sư đoàn tù nhân khai thác từ mỏ đá Verkhnerbakansky đem về cùng với bê tông cốt thép làm bằng xi măng lấy từ nhà máy xi măng Tháng Mười Đỏ tại Novorossiysk. Trên chiều dài 128 km từ khu vực đầm lầy Kurchanskaya đến Novorossiysk, công binh Đức đã bố trí 577 hỏa điểm với mật độ 3 điểm/km trên 71 km cánh trái phòng tuyến, 8 điểm/km trên 32 km ở khu trung tâm và 6 điểm/km ở cánh phải. 37,5 km trên phòng tuyến được bố trí các bãi mìn. 87 km được ngăn bằng rào thép gai nhiều lớp. 11,75 km phòng tuyến được bố trí các vật cản bằng sắt, bê tông và gỗ. Toàn bộ các bãi mìn có 142.370 quả mìn chống tăng, 155.848 mìn chống bộ binh, 3.032 bom điều khiển nổ bằng điện, 144 quả bom vướng nổ. Trên ba lớp rào thép gai có 142 cụm rào cũi lợn, 120 cụm rào thép gai kết hợp hào chống tăng. Tổng chiều dài của loại rào thép gai vòng xoắn lên đến 266,4 km.
Từ ngày 15 tháng 4 năm 1943, khi Quân đoàn xung kích 5 thuộc Tập đoàn quân 17 (Đức) bị hút vào các trận đánh giằng co ác liệt trên bán đảo Myskhako, ngày 18 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô đã trù tính đến một kế hoạch tấn công có tính tổng lực hơn của Tập đoàn quân 18 và Tập đoàn quân 56 vào cánh Nam của Tập đoàn quân 47 với chủ lực là Quân đoàn xung kích 5 (Đức) lúc này đang bị phân tán trên hai hướng Novorossiysk và Abinsk. Mục tiêu của cuộc tấn công này không chỉ là đánh sập cánh Nam của Tập đoàn quân 17 Đức mà còn không cho Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) có thể sử dụng Tập đoàn quân này trên một hướng chiến lược khác mà hướng đó hoàn toàn có thể là khu vực Belgorod - Kursk theo phán đoán của nguyên soái G. K. Zhukov. Kế hoạch dự định sử dụng chi viện tối đa của Không quân của hạm đội Biển Đen và không quân của Tập đoàn quân không quân 5 (Cụm không quân Kuban). Khi cuộc phản công của Quân đoàn xung kích 5 (Đức) vào cụm quân Myskhako tại phía Nam Novorossiysk và Quân đoàn 49 (Đức) vào Tập đoàn quân 56 (Liên Xô) trên hướng Krymsk đã bị bẻ gãy, ngày 29 tháng 4 năm 1943, các Tập đoàn quân 18 và 56 (Liên Xô) bắt đầu tấn công. Trong 5 ngày đầu của chiến dịch, quân đội Liên Xô thu được một số kết quả hạn chế, đánh chiếm được một số điểm dân cư như Krymsk, Abinsk, Slavianskaya, Petrovskaya. Ngày 5 tháng 4, Bộ Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) điều Quân đoàn bộ binh 49 (nguyên là Quân đoàn sơn chiến 49) vượt eo biển Kerch trở lại tham chiến. Cả bốn tập đoàn quân Liên Xô đều bị Tập đoàn quân 17 (Đức) chặn lại trên "Phòng tuyến xanh" từ sông Kurka, dọc theo một đoạn sông Kuban qua Kievskoye, Moldavanskoye đến Neberzhayevskaya ở phía Bắc Novorossiysk. Các nỗ lực tiếp theo của quân đội Liên Xô nhằm tiếp tục đột phá vào "Phòng tuyến xanh" của Tập đoàn quân 17 (Đức) đều thất bại. Quân đoàn 44 (Đức) đã giữ vững các cụm cứ điểm Kievskoye, Moldavanskoye. Ngày 15 tháng 5, Quân đội Liên Xô buộc phải ngừng tấn công.
Ngày 21 tháng 5 năm 1943, Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô I. V. Stalin cách chức Tư lệnh Phương diện quân Bắc Kavkaz của trung tướng I. I. Maslenikov và cử thiếu tướng I. E. Petrov thay thế với nhiệm vụ "phải quét sạch quân Đức khỏi bán đảo Taman trong thời hạn 4 tháng".
Đất nhỏ và Chiến dịch Novorossiysk
Thiết giáp hạm Krasnyy Krym, con tàu tham gia yểm hộ cho cuộc đổ bộ của quân đội Liên Xô lên bán đảo Myskhako, tháng 2 năm 1943
Ngay sau Chiến dịch Mozdok-Stavropol, cùng với việc triển khai các chiến dịch Salsk-Rostov và Maikop-Krasnodar, Cụm tác chiến Biển Đen và Hạm đội Biển Đen của quân đội Liên Xô đã có một kế hoạch thu hồi cảng Novorossiysk làm bàn đạp tiến ra bán đảo Taman trong tháng 2 và tháng 3 năm 1943. Tuy nhiên, do sự phối hợp không tốt giữa các lực lượng trên bộ và trên biển, chiến dịch đã bị chia cắt làm hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, quân đội Liên Xô chỉ giành được một thắng lợi nhỏ là thiết lập được một căn cứ đầu cầu tại bán đảo Myskhako. Trong nhiều tháng tiếp theo, Quân đội Đức Quốc xã đã nhiều lần tổ chức tấn công để xóa căn cứ đầu cầu này nhưng không thành công. Trong 227 ngày đó, đội quân đồn trú đã đánh nhiều trận phòng ngự chống lại các cuộc tập kích của Quân đoàn bộ binh 5 thuộc Tập đoàn quân 17 (Đức), trấn giữ được căn cứ đầu cầu cho đến khi Cụm tác chiến Biển Đen và Hạm đội Biển Đen phối hợp tổ chức lại Chiến dịch đánh chiếm Novorossiysk.
Đến cuối tháng 8 năm 1943, khi kết cục trận Kursk đã được định đoạt với thất bại nặng nề của các quân đoàn xe tăng chủ lực của quân đội Đức Quốc xã, Bộ Tư lệnh Phương diện quân Bắc Kavkaz (tái lập bằng sự sáp nhập hai cụm tác chiến Bắc Kavkaz và Biển Đen) đã mở lại chiến dịch Novorossiysk và đặt nó trong tổng thể chiến dịch giải phóng Novorossiysk và Taman. Theo kế hoạch được Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô phê duyệt ngày 20 tháng 8 năm 1943, việc tái chiếm Novorossiysk được giao cho hai cánh quân gồm Tập đoàn quân 18 tấn công từ con đường bộ Tuapse - Novorossiysk dọc theo bờ Biển Đen từ Gelendzhik tiến quân qua Grushovaya balka và đánh bọc Novorossiysk từ phía Bắc. Cánh quân thứ hai gồm các đội quân hỗn hợp hải quân đánh bộ Hạm đội Biển Đen và bộ binh Tập đoàn quân 18 đổ bộ lên bán đảo Myskhako, cùng với các lực lượng đã có tại đây tấn công từ phía Nam lên.
Sau một năm bị quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng, thành phố và quân cảng Novorossiysk đã trở về tay quân đội Liên Xô. Hạm đội Biển Đen có thêm một căn cứ hải quân quan trọng để tiếp cận và thực hiện các chiến dịch giành lại quyền khống chế hải phận của Liên Xô trên Biển Đen. Đây cũng là căn cứ hậu cần quan trọng cho chiến dịch giải phóng Krym của quân đội Liên Xô dự định thực hiện vào cuối năm 1943, đầu năm 1944. Mặc dù các lực lượng trên bộ đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.000 quân Đức, đánh quỵ Quân đoàn bộ binh xung kích 5 (Đức), Lữ đoàn tàu phóng lôi số 2 và không quân hạm đội Biển Đen đã đánh chìm 16 tàu chiến Đức nhưng Hạm đội Biển Đen cũng bị tổn thất do hỏa lực của pháo binh và không quân Đức. Tổng cộng có 20 tàu thuyền Liên Xô bị đánh đắm và đánh hỏng. Trong đó có 4 tàu tuần duyên, 8 tàu phóng ngư lôi, 5 tàu quét mìn, 3 thuyền chở quân.
Giải phóng Taman
Đài kỷ niệm Chiến dịch giải phóng Taman tại Temryuk
Sau trận Kursk, quân đội Đức Quốc xã đã để mất quyền chủ động chiến lược ra đòn tấn công trước và bắt đầu xuống dốc. Những thiệt hại của quân đội Đức trong trận Kursk và ngay sau đó là chiến dịch Kutuzov và chiến dịch Nguyên soái Rumyantsev là không thể bù đắp được. Hầu như những phương tiện chiến tranh trên bộ và trên không mới nhất, hiện đại nhất của quân đội Đức Quốc xã khi đó đều đã được đem ra thử thách tại trận Kursk và kết quả là quân đội đó vẫn phải rút lui sau gần hai tuần tấn công rồi bị phản công quyết liệt. Trên mặt trận Xô-Đức dài hơn 4.500 km từ biển Barents đến biển Đen, các Cụm tập đoàn quân Bắc, Trung tâm và Nam của quân đội Đức Quốc xã đều phải chuyển sang phòng ngự trước các đòn tấn công của quân đội Liên Xô diễn ra liên tục từ Narva qua hữu ngạn Ukraina đến cửa sông Mius. Tình thế chiến lược có quá nhiều thuận lợi cho Phương diện quân Bắc Kavkaz (Liên Xô) giải quyết dứt điểm cuộc chiến tại bán đảo Taman, căn cứ cuối cùng của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) tại Kavkaz. Chiến dịch giải phóng Taman là hoạt động quân sự lớn cuối cùng của quân đội Liên Xô trong toàn bộ chiến dịch Kavkaz diễn ra từ ngày 10 tháng 9 đến ngày 9 tháng 10 năm 1943, bao gồm cả Chiến dịch giải phóng Novorossiysk. Trong chiến dịch này, các tập đoàn quân 9, 18, 56 và lực lượng hải quân đánh bộ của Hạm đội Biển Đen đã đánh bật Tập đoàn quân 17 (Đức) khỏi bán đảo Taman sang bán đảo Krym, thu hồi toàn bộ bán đảo Taman, hoàn thành chuỗi chiến dịch phản công tại khu vực Bắc Kavkaz.
Mở đầu bằng cuộc đột kích của hải quân đánh bộ hạm đội Biển Đen phối hợp với Tập đoàn quân 18 đánh chiếm thành phố và quân cảng Novorossiysk cùng các vùng phụ cận, quân đội Liên Xô đã vô hiệu hóa hệ thống phòng thủ ở Taman do quân đội Đức Quốc xã dày công xây dựng có tên gọi "Phòng tuyến xanh" với ba tuyến phòng thủ khá hoàn hảo. Do sự kiên cố của phòng tuyến này cộng với sự phức tạp của địa hình, cuộc tấn công của quân đội Liên Xô buộc phải được chia làm hai đợt. Đợt thứ nhất từ ngày 10 đến ngày 25 tháng 9, đợt thứ hai từ ngày 27 tháng 9 đến ngày 9 tháng 10. Các đòn vu hồi của các lữ đoàn hải quân đánh bộ và Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) khi phát triển kết quả của Chiến dịch giải phóng Novorossiysk vào phía sau phòng tuyến này đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch và phương án phòng thủ của tướng Erwin Jaenecke, buộc Tập đoàn quân 17 (Đức) và quân đoàn kỵ binh 5 (Romania) phải lùi dần về khu vực Temryuk với thương vong ngày một lớn chỉ trong vòng một tháng. Trên đường biển rút lui sang bán đảo Krym, các tàu vận tải Đức cũng bị các pháo hạm, các tàu phóng ngư lôi và không quân của Hạm đội Biển Đen tấn công, làm tăng thêm thương vong. Đóng quân trên bán đảo Krym, các lực lượng còn lại của Tập đoàn quân 17 (Đức) đã lâm vào tình trạng bị nửa cô lập với Cụm tập đoàn quân Nam (Đức), bị kiệt quệ về binh lực và hỏa lực do con đường tiếp tế qua Biển Đen từ các cảng Konstantsa (Romania) Varna (Bulgari) đã bị Hạm đội Biển Đen khống chế. Tập đoàn quân này chỉ còn có thể lợi dụng địa hình hiểm trở để cố trấn giữ bán đảo Krym và cũng chỉ giữ được không quá 6 tháng.
Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng
[[Tập tin:Medal defense of Caucasus.jpg|nhỏ|Được thiết lập ngày 1 tháng 5 năm 1944, 583.045 binh sĩ Hồng quân đã được tặng thưởng huy chương này vì công lao bảo vệ khu vực Kavkaz.
Đánh giá
Sai lầm chết người của Adolf Hitler và các tướng lĩnh Đức Quốc xã là đã đánh giá thấp tiềm lực quốc phòng của Liên Xô và kết quả tất yếu của sự "coi thường đối thủ" đó đã dẫn đến việc lựa chọn một "giải pháp cân bằng", chia đều Cụm tập đoàn quân Nam và tấn công vào Kavkaz trong khi các diễn biến ở khu vực Stalingrad chưa thể hứa hẹn một chuyển biến có tính bước ngoặt có lợi cho quân đội Đức Quốc xã. Cả hai Cụm tập đoàn quân A và B đều không đủ lực lượng để tác chiến lâu dài trên hai hướng chiến lược có trung tâm mặt trận cách xa nhau từ 800 đến trên 1.000 km, nghĩa là bằng hơn 1/3 chiều dài toàn bộ mặt trận Xô-Đức sau tháng 10 năm 1942. Với việc đưa quân vào Kavkaz, mật độ tác chiến trung bình của quân đội Đức Quốc xã giảm đi 1/3 trong đó, mật độ xe tăng trên 1 km chính diện giảm chỉ còn một nửa so với thời điểm tháng 6 năm 1942. Mật độ tác chiến của không quân cũng thưa mỏng hơn trên một vùng trời có diện tích gấp đôi so với tháng 6 năm 1942. Ngoài những đòn phản công quyết liệt của quân đội Liên Xô đã chặn đứng hai đạo quân Đức Quốc xã khổng lồ có tổng quân số cộng lại lên đến 2 triệu người ở cánh Nam mặt trận Xô-Đức thì những toan tính tham vọng quá mức của Adolf Hitler và những người ủng hộ ông ta đã làm suy yếu sức chiến đấu của quân đội Đức Quốc xã trên thực tế. Và kết cục của nó là đến tháng 10 năm 1943, quân đội Đức Quốc xã đã mất toàn bộ những kết quả mà họ đã giành được một năm trước đó. Không những thế, họ còn mất đi vĩnh viễn quyền chủ động chiến lược với những tổn thất không gì có thể bù đắp được.
Cũng như toàn bộ giai đoạn phòng thủ Stalingrad, ban đầu, quân đội Liên Xô lâm vào thế bị động, lúng túng nên chỉ sau ba tháng, quân đội Đức Quốc xã đã chiếm được nhiều mục tiêu quan trọng gồm toàn bộ dải đồng bằng màu mỡ ở Kuban và bờ Bắc sông Terek. Việc tổ chức phòng thủ ngày càng chặt chẽ hơn và việc lợi dụng tính phức tạp của địa hình ven các triền núi Bắc Kavkaz đã giúp quân đội Liên Xô chặn đứng đòn tấn công vũ bão của Cụm tập đoàn quân A. Từ cuối tháng 9 đến cuối tháng 12, Cụm tập đoàn quân này hầu như dẫm chân tại chỗ và bị tiêu hao sau những trận tấn công thất bại nhằm vượt qua dãy núi Kavkaz và sông Terek, các điểm xa nhất trong cuộc viễn chinh về phía Đông của quân đội Đức Quốc xã. Cùng với thất bại nặng nề trong trận Stalingrad, Cụm tập đoàn quân A (Đức) đứng trước nguy cơ bị cô lập. Trong hoàn cảnh đó, quân đội Đức Quốc xã phải lựa chọn một trong hai đáp số: cố cứu Tập đoàn quân 6 ở Stalingrad khỏi bị bao vây và tiêu diệt hay yểm hộ cho Cụm tập đoàn quân A rút quân. Cuối cùng, Hitler đã chọn giải pháp thứ hai vì nếu cố cứu Tập đoàn quân 6 một lần nữa, quân đội Đức Quốc xã có thể để mất cả hai đạo quân này. Và điều đó đồng nghĩa với sự sụp đổ của lục quân Đức trên toàn bộ cánh Nam mặt trận Xô-Đức. Trong tình thế của quân Đức lúc đó thì đây là một giải pháp hợp lý hơn cả.
Cơ hội ngàn vàng để quân đội Liên Xô có thể cô lập được Cụm tập đoàn quân A (Đức) tại Bắc Kavkaz đã trôi qua trong mười ngày đầu tháng 1 năm 1943 khi các cụm tác chiến Bắc Kavkaz và Biển Đen đều chậm chạp trong việc triển khai các đòn phản công. Đặc biệt, việc sửa chữa, điều chỉnh lại mục tiêu của Kế hoạch Núi của Cụm Biển Đen đã làm mất đi năm ngày quý giá. Không những cuộc tấn công vào Maikop có thể hợp vây được một nửa lực lượng Đức ở Bắc Kavkaz bị hủy bỏ mà cuộc tấn công theo hướng Rostov cũng chậm chạp và không đạt kết quả cuối cùng.
Ảnh hưởng
Bị các ánh hào quang lớn của Trận Stalingrad và Trận El Alamein thứ hai cùng với các trận đánh ở trung lưu và thượng lưu sông Đông che lấp, cho đến trước năm 1967, các hoạt động quân sự ở Bắc Kavkaz ít được đề cập đến trong sử sách Liên Xô và không được quan tâm nghiên cứu một cách tương xứng với tầm quan trọng của nó. Trong bộ sách Lịch sử cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại gồm 6 tập, các chiến dịch và trận đán