✨SMS Brandenburg
SMS _Brandenburg_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought Brandenburg, vốn còn bao gồm các chiếc Kurfürst Friedrich Wilhelm, Weißenburg và Wörth, được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) vào đầu thập niên 1890. Nó là chiếc tàu chiến chủ lực đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Đức; trước đó họ chỉ có những hải phòng hạm và tàu frigate bọc thép. Nó được đặt lườn tại xưởng đóng tàu của hãng Germaniawerft ở Kiel vào năm 1890; lườn tàu được hoàn tất vào tháng 9 năm 1891 và được hạ thủy vào ngày 21 tháng 9. Công việc trang bị cho nó hoàn tất vào cuối năm 1893, và con tàu được đưa ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày 19 tháng 11, trễ hơn gần bốn tuần so với con tàu chị em Wörth, chiếc đầu tiên gia nhập hạm đội.
Brandenburg dài , mạn thuyền rộng vốn tăng lên đến nếu bổ sung thêm lưới chống ngư lôi, và độ sâu của mớn nước là phía trước và phía sau. Con tàu có trọng lượng choán nước thiết kế là , và lên đến khi đầy tải chiến đấu. Nó được trang bị hai bộ động cơ hơi nước ba buồng bành trướng 3 xy-lanh tạo ra một công suất và đạt được tốc độ tối đa khi chạy thử máy. Hơi nước được cung cấp bởi mười hai nồi hơi hình trụ đặt ngang. Nó có tầm hoạt động tối đa khi đi đường trường với tốc độ . Các tháp pháo phía trước và phía sau trang bị pháo K L/40, trong khi các khẩu pháo giữa tàu thuộc kiểu ngắn hơn L/35, một điều cần thiết để tháp pháo có thể xoay qua cả hai bên mạn. Dàn pháo hạng hai bao gồm bảy khẩu SK L/35 bố trí trong các tháp pháo ụ, nhưng được bổ sung thêm một khẩu trong đợt hiện đại hóa năm 1901. Nó cũng được trang bị tám khẩu SK L/30 cùng trong các tháp pháo ụ. Brandenburg còn có sáu ống phóng ngư lôi , tất cả đều đặt trên các bệ xoay bên trên mực nước. Chúng được tháp tùng bởi bốn chiếc thuộc tàu frigate bọc sắt cũ hơn thuộc lớp Sachsen của Đội 2, cho dù đến năm 1901-1902, những chiếc lớp Sachsen được thay thế bởi những thiết giáp hạm mới lớp Kaiser Friedrich III. Vào ngày 16 tháng 2 năm 1894, nhiều ống dẫn hơi nước đã phát nổ trên tàu; cửa giữa các phòng động cơ đang để mở, khiến hơi nước lan tràn cả hai phòng động cơ. Có 39 người thiệt mạng và chín người khác bị thương nặng, và trong số đó sáu người sau đó qua đời do vết thương quá nặng. Vào tháng 6 năm 1896, kênh đào Kaiser Wilhelm được hoàn tất. Trong buổi lễ khánh thành, tàu chiến của 14 nước đã tập trung tại Kiel cho một lễ hội do Hoàng đế Wilhelm II chủ trì, bao gồm cả Brandenburg và ba chiếc tàu chị em.
Trấn áp cuộc nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn
nhỏ|trái|Brandenburg trên đường đi Trong cuộc Nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900, người Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc bất bình đã bao vây các sứ quán nước ngoài tại Bắc Kinh và giết hại Công sứ Đức, Nam tước Clemens von Ketteler. Sự bạo loạn chống đối người phương Tây tại Trung Quốc lan rộng dẫn đến việc hình thành một liên minh giữa Đức và bảy cường quốc: Anh Quốc, Ý, Nga, Áo-Hung, Hoa Kỳ, Pháp và Nhật Bản. Số binh sĩ thuộc liên minh có mặt tại Trung Quốc vào lúc đó quá ít không đủ để kháng cự những người nổi dậy: tại Bắc Kinh chỉ có một lực lượng hơn 400 sĩ quan và binh sĩ thuộc quân đội của tám nước; vào lúc đó lực lượng chính của Đức tại Trung Quốc là Hải đội Đông Á, bao gồm các tàu tuần dương bảo vệ Kaiserin Augusta, Hansa và Hertha, các tàu tuần dương nhỏ Irene và Gefion cùng các pháo hạm Jaguar và Iltis. Ngoài ra còn có một phân đội 500 người trú đóng tại Taku; họ kết hợp với các đơn vị thuộc các nước khác hình thành nên một lực lượng với quân số khoảng 2.100 người.
Lực lượng hỗn hợp này, được đặt dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Anh Edward Hobart Seymour, tìm cách đến được Bắc Kinh vốn đang bị bao vây, nhưng do bị kháng cự ráo riết nên bị buộc phải dừng lại tại Thiên Tân. Kết quả là Kaiser Wilhelm II quyết định gửi một lực lượng viễn chinh sang Trung Quốc tăng cường cho Hải đội Đông Á. Lực lượng đặt dưới quyền chỉ huy của Thống chế Alfred von Waldersee bao gồm bốn chiếc lớp Brandenburg, sáu tàu tuần dương, mười tàu chở hàng, ba tàu phóng lôi và sáu tiểu đoàn thủy binh. Đô đốc Alfred von Tirpitz đã phản đối kế hoạch này vì ông cho rằng nó không cần thiết và tốn kém, Kết quả là lực lượng Đức chỉ tham gia trấn áp các vụ nổi dậy lẻ tẻ trong khu vực phụ cận Giao Châu. Cuối cùng, chiến dịch đã làm tiêu tốn chính phủ Đức hơn 100 triệu Mác. Lực lượng quay trở về Đức vào năm tiếp theo, 1901.
Tái cấu trúc và các phục vụ tiếp theo
nhỏ|phải|Lớp Brandenburg như được mô tả trong Niên giám Hải quân Brassey 1902|alt=Line drawing for this type of ship; the vessel had three large gun turrets on the centerline and two thin smoke stacks. Sau khi quay về từ Trung Quốc vào năm 1901, bốn chiếc thuộc lớp Brandenburg lần lượt được đưa vào ụ tàu của Xưởng tàu Đế chế ở Wilhelmshaven cho một đợt tái cấu trúc rộng rãi; Brandenburg được nâng cấp vào năm 1903. Các nồi hơi của Brandenburg được thay thế bằng kiểu mới hơn, và các khoang giữa tàu được giảm bớt. Khi lớp thiết giáp hạm mới Deutschland được đưa ra hoạt động vào năm 1906, chúng thay thế cho Brandenburg và những chiếc chị em trong hạm đội chiến trận. Brandenburg và Wörth được đưa về hạm đội dự bị, gia nhập cùng những chiếc lớp Siegfried; trong khi hai chiếc còn lại Kurfürst Friedrich Wilhelm và Weißenburg được bán cho Đế quốc Ottoman vào năm 1910. Nó phục vụ cùng với chiếc tàu chị em duy nhất còn lại Wörth; nhưng vì các con tàu đã quá cũ, việc này chỉ kéo dài cho đến năm 1915 khi chúng được rút ra khỏi hoạt động thường trực trở thành những tàu trại lính Brandenburg được bố trí ở Libau trong khi Wörth đặt căn cứ ở Danzig. Cả hai được rút khỏi danh sách đăng bạ hải quân vào ngày 13 tháng 5 năm 1919 và được bán để tháo dỡ. Cả hai được Norddeutsche Tiefbauges, một hãng tháo dỡ tàu đặt trụ sở tại Berlin mua lại; sau đó được tháo dỡ tại Danzig.