phải|nhỏ|Cờ của Hải quân Phổ từ năm 1816
Hải quân Hoàng gia Phổ(Tiếng Đức: Preußische Marine) là một lực lượng Hải quân của Vương quốc Phổ. Nó được thành lập từ năm 1701 dựa trên nền móng của Hải quân Brandenburg trước đó. Brandenburg và Phổ thành lập một liên minh các nhân do nhà Hohenzollern cai trị. Hải quân Phổ vẫn là một lực lượng riêng biệt cho đến khi Liên bang Bắc Đức được thành lập, và nó là nòng cốt chính của Hải quân Liên bang Bắc Đức.
Lịch sử
Hải quân xứ Brandenburg
nhỏ|phải|Hải quân Brandenburg
Từ khi nhà Hohenzollern đang cai trị Brandenburg, họ đã tạo ra một lực lượng hải quân hùng hậu riêng vào thế kỷ 17, nó đã được tạo ra từ dưới thời tuyển hầu tước vĩ đại Friedrich Wilhelm I khoảng năm 1657. Và ngày thành lập chính thức của lực lượng hải quân Phổ-Brandenburg là ngày 1 tháng 10 1684. Các vị tuyển hầu tước đẩy mạnh việc mua lại các thuộc địa ở nước ngoài.
Lực lượng
Thế kỷ 18
Các vị vua Phổ trong thế kỷ 18 đã có ít quan tâm trong việc duy trì lực lượng hải quân của mình. Do vị trí của mình và sự thiếu dễ dàng của việc phòng thủ biên giới tự nhiên, Phổ đã phải tập trung sự chuẩn bị mình vào quân đội. Bên cạnh đó, vương quốc cũng đã có thể dựa vào những kết giao hữu nghị với các cường quốc hải quân nước láng giềng là Đan Mạch và Hà Lan.
Vua Friedrich II Đại Đế đã cho rằng Phổ sẽ không bao giờ tìm cách phát triển đội tàu chiến của riêng mình. Vương quốc sẽ không bao giờ có thể hy vọng phát triển bằng những lực lượng Hải quân hùng hậu như của Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đan Mạch, và Nga, với vài con tàu của họ,Hải quân Phổ vẫn luôn luôn đứng sau những quốc gia hàng hải lớn. Ông tin rằng hải chiến hiếm khi sẽ quyết định một cuộc chiến tranh và ưu tiên có một lực lượng Quân đội tinh nhuệ nhất của châu Âu chứ không phải là lực lượng Thủy binh kém nhất trong số các cường quốc hải quân.
Phổ vẫn xây dựng được một lực lượng nhỏ hải quân với 13 chiến thuyền trong suốt cuộc Chiến tranh bảy năm. Hạm đội này đã bị hải quân Thụy Điển đánh bại trong trận thủy chiến Frisches Haff vào tháng 9 năm 1759. Quân Phổ mất tất cả các chiến thuyền của mình và kết quả là quân Thụy Điển chiếm đóng Usedom và Wollin. Tuy nhiên, hạm đội này đã được thay thế mới vào năm 1760, và các đội tàu mới đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc năm 1763.
Mặc dù vậy, các vị vua Phổ cũng muốn tham gia vào việc thương mại hàng hải quốc tế và do đó đã cho lập các công ty kinh doanh. Một trong số đó, được thành lập vào năm 1772 là Société de Commerce maritime, hiện hữu ngày hôm nay là một nền móng được đặt tên là Seehandlung Preußische (tạm dịch là "Doanh nghiệp hàng hải Phổ").
Sau khi cuộc chiến tranh Napoleon kết thúc, Phổ bắt đầu xây dựng một hạm đội nhỏ bé cho việc quốc phòng ở ven biển. Again, more value was placed on the development of a merchant fleet than on a navy. In this connection, the Prussian Maritime Enterprise played a significant role. Its ships were armed to protect against pirates and flew the Prussian war ensign. This protective fleet existed until around 1850.
One of the first to work for the development of a Prussian Navy was Prince Adalbert of Prussia. He had made a number of journeys abroad and recognized the value of a fleet to support commercial interests and to protect one’s own navigation. During the Revolutionary era of 1848-1852, at the behest of the Frankfurt National Assembly, the prince was given the responsibility of reestablishing an Imperial fleet (Reichsflotte) -- a mission which the revolutionary parliament had undertaken in the face of the war with Denmark.
The German Confederation possessed practically no fleet of its own, but relied upon the allied powers of Great Britain, the Netherlands, and Denmark. During the First War of Schleswig of 1848-1851, the failure of this strategy became clear because Great Britain and the Netherlands remained neutral and Denmark became the enemy. Within a few days, the Danish Navy halted all German maritime trade in the North and Baltic Seas. The Navy of Áo, Prussia’s ally, lay in the Mediterranean and was able to intervene only later in the war.
After the failure of the Revolutions of 1848, Adalbert was able to resume his plans for the establishment of a Prussian Navy. He began with the construction of warships and naval education and training. From the middle of the 1850s, one could find Prussian corvettes and frigates upon all the world’s seas.
Besides Prince Adalbert, other important figures of this early period were Prussian naval officers Karl Rudolf Brommy và Ludwig von Henk, who eventually became an admiral in the Imperial German Navy.
At the same time, the first naval base was established on the North Sea. In the Jade Treaty (Jade-Vertrag) of 1853, the Grand Duchy of Oldenburg ceded to Prussia the so-called Jade District. Here, in the following years, arose the great naval port which received the name Wilhelmshaven in 1869.
By this time, the Prussian Navy had already ceased to exist. After the Austro-Prussian War (the "German War") of 1866, the North German states had allied under Prussian leadership as the North German Confederation. Out of the Prussian Navy grew the Navy of the North German Confederation (Norddeutsche Bundesmarine), which after the Franco-Prussian War changed its name again to became the Imperial Navy (Kaiserliche Marine) of the new German Empire.
phải|nhỏ|Cờ của Hải quân Phổ từ năm 1816 **Hải quân Hoàng gia Phổ** _(Tiếng Đức: Preußische Marine)_ là một lực lượng Hải quân của Vương quốc Phổ. Nó được thành lập từ năm 1701 dựa
**Quân chủng Hải quân**, hay còn gọi là **Hải quân nhân dân Việt Nam**, là một quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hải quân nhân dân Việt Nam có 6 đơn vị:
**Bộ Tư lệnh Vùng 5 Hải quân**** **trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ vùng biển Nam biển Đông và vịnh
**Hải quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Marine Nationale Khmère_ – MNK; tiếng Anh: _Khmer National Navy_ – KNN) là quân chủng hải quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và là lực lượng quân
**Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân** trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ Quần đảo Trường Sa, đảo Phú Quý,
**Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân**** **trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ vùng biển giữa miền Trung, từ Quảng
**Bộ Tư lệnh Vùng 1 Hải quân**** **trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ vùng biển từ Quảng Ninh đến Hà
**Hải quân Đức** (_Deutsche Marine_ () là lực lượng hải quân của Cộng hòa Liên bang Đức và là một bộ phận của _Lực lượng Vũ trang Đức_ (_Bundeswehr_). ## Lịch sử hình thành Lực
phải|nhỏ|300x300px|Trụ sở Vùng Hải quân Sasebo vào khoảng năm 1930 là khu vực thứ ba trong số năm quận hành chính chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh. Lãnh thổ của
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
**Hoàng thân Adalbert của Phổ** (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1811 tại Berlin – mất ngày 6 tháng 6 năm 1873 tại Karlsbad), tên khai sinh là **Heinrich Wilhelm Adalbert** là một hoàng tử
là khu vực thứ hai trong số bốn khu vực hành chính chủ lực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai. Tên thường gọi của nơi này là
**Học viện Hải quân (HQH)** là một học viện quân sự trực thuộc quân chủng Hải quân của Bộ Quốc phòng chuyên đào tạo sĩ quan chỉ huy hải quân & cảnh sát biển cấp
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
Còn được gọi là **Kidō Butai** ("Lực lượng cơ động"), là tên được sử dụng cho một hạm đội tàu sân bay chiến đấu kết hợp bao gồm hầu hết các tàu sân bay và
là một trong bốn khu vực hành chính chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh thế giới. Lãnh thổ của nó bao gồm toàn bộ bờ Biển Nhật Bản từ miền
nhỏ nhỏ **Trường Đại học Hải quân mang tên Nikola Ionkov Vaptsarov** ( - **ВВМУ**), còn được gọi là **Học viện Hải quân Bulgaria, mang tên Nikola Ionkov Vaptsarov**, là một trường đào tạo chuyên
**Bộ Tham mưu** trực thuộc Quân chủng Hải quân thành lập ngày 24 tháng 1 năm 1959 là cơ quan chỉ huy, tham mưu của Quân chủng Hải quân, đặt dưới sự lãnh đạo toàn
**Hải quân Hoa Kỳ** (viết tắt: **USN**) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong tám lực lượng vũ trang chuyên nghiệp của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2018, Hải
**Cục Kỹ thuật** trực thuộc Quân chủng Hải quân thành lập ngày 6 tháng 5 năm 1970 là cơ quan quản lý kỹ thuật của Quân chủng Hải quân có chức năng quản lý, chỉ
**Binh chủng Hải quân Đánh bộ** là một binh chủng thuộc Quân chủng Hải quân Việt Nam có nhiệm vụ đóng quân bảo vệ các đảo, đá hoặc tấn công, đổ bộ bằng đường biển
nhỏ|phải|Lính thủy đánh bộ Nga đang cảnh giới trên xuồng quân sự nhỏ|phải|Lực lượng của Lữ đoàn Cận vệ 155 có nhiều thành viên là người gốc Á do đây là Lữ đoàn đóng chân
**Lữ đoàn 125 Hải quân** là một đơn vị vận tải biển chủ lực của Hải quân Nhân dân Việt Nam, tiền thân là **Đoàn 759**. ## Lịch sử hình thành * Ngày 23 tháng
**Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Hải quân** là sĩ quan cao cấp của Quân chủng Hải quân và là một thành viên trong Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
**Chủ nhiệm tác chiến Hải quân** (tiếng Anh: _Chief of Naval Operations_), một số tài liệu tiếng Việt gọi là **Tham mưu trưởng Hải quân**, là sĩ quan cao cấp nhất của Hải quân Hoa
**Đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản** là các quân hàm cấp tướng trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản từ năm 1872 đến năm 1945. Trên thực tế, các cấp bậc đô đốc
**Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang** (tiếng Anh: _Nha Trang Naval Training Center_, **NTNTC**) là một cơ sở đào tạo thủy binh 3 cấp: sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ của
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
Không ảnh Trạm Hải quân Vịnh Subic (phải) và Trạm Không quân của Hải quân, Mũi Cubi (trái) phải|Không ảnh Mũi Cubi và Trạm Hải quân Vịnh Subic ở hậu cảnh **Căn cứ Hải Quân
nhỏ|311x311px|[[Mitsubishi J2M|Mitsubishi J2M Raiden|thế=]] là một cơ sở sản xuất vũ khí cho máy bay, vũ khí hạng nhẹ và đạn dược cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến thứ 2. Nó
**Văn phòng Tình báo Hải Quân** (**Office of Naval Intelligence - ONI**) là cơ quan tình báo quân sự của Hải quân Mỹ. Được thành lập vào năm 1882 chủ yếu để thúc đẩy các
**Hải quân Liên Xô** () là nhánh hải quân của Lực lượng vũ trang Liên Xô. Thường được gọi là **Hạm đội Đỏ**, Hải quân Liên Xô là lực lượng có số lượng tàu chiến
**Tĩnh Hải** (chữ Hán: 靜海) hay **Tĩnh Hải quân** (chữ Hán: 靜海軍) là một đơn vị phiên trấn do Tiết độ sứ quản lý, được thiết lập từ thời nhà Đường trong lịch sử Trung
phải|thumb|Một bầy sói u-boat Đức dàn ngang để đón tàu của lực lượng Đồng minh. **Bầy sói** là chiến thuật tấn công hàng loạt nhằm đánh chìm các đoàn tàu vận tải Đồng minh được
thuộc Bộ Hải quân Nhật Bản chịu trách nhiệm cho việc phát triển và đào tạo cho lực lượng Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Năm 1941, nó được lãnh đạo bởi Phó
**Lữ đoàn hải quân đánh bộ Cận vệ độc lập 155 "Kursk", Huân chương Zhukov, Huân chương Suvorov** (tiếng Nga: _155-я отдельная гвардейская Курская орденов Жукова и Суворова бригада морской пехоты_) là một đơn vị
**Tổng Tư lệnh Hải quân Nga** là quan chức đứng đầu của lực lượng Hải quân Nga. Vị trí này được thành lập vào năm 1696, trước cả khi Ban Hải quân thành lập. Chức
**Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc** hay **Hải quân Trung Quốc** () là lực lượng hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Quy mô tổ chức của Hải quân
thumb|Một hạm đội đa quốc gia gồm 5 nước trong [[chiến dịch Tự do bền vững trên biển Oman. Năm cột giảm dần, từ trên cùng bên trái xuống dưới cùng bên phải: MM _Maestrale_
phải|nhỏ|300x300px|Bộ tham mưu Hải quân Yokosuka tháng 4 năm 1942 là cơ sở đầu tiên trong bốn quận hành chính chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh. Lãnh thổ của nó