phải|nhỏ|300x300px|Trụ sở Vùng Hải quân Sasebo vào khoảng năm 1930
là khu vực thứ ba trong số năm quận hành chính chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh. Lãnh thổ của nó bao gồm bờ biển phía tây và phía nam của Kyūshū, quần đảo Ryukyu, Đài Loan và Hàn Quốc, cũng như các cuộc tuần tra ở Biển Đông và Thái Bình Dương
Sasebo cũng bao gồm Quân xưởng Hải quân Sasebo, chuyên về sản xuất tàu khu trục và các tàu chiến nhỏ hơn; bãi neo đậu của nó là một trong những nơi neo đậu lớn nhất ở Nhật Bản. Vùng còn bao gồm các bãi neo đậu tại các cảng Imari và Hirado cũng như các cảng hải quân hạngba được chỉ định là tại Takeshiki (Tsushima), Kagoshima, Kuji (Amami-Ōshima) và Wakamatsu (quần đảo Gotō) __
Lịch sử
__
Vị trí của Sasebo tại vị trí đối diện với Trung Quốc và Hàn Quốc, và gần cảng hiệp ước nước ngoài Nagasaki được xác định là có tầm quan trọng chiến lược bởi chính phủ Meiji và Hải quân Đế quốc Nhật Bản sơ khai. Năm 1883, Thiếu tá Tōgō Heihachirō đề cử một làng chài nhỏ là nơi lý tưởng cho căn cứ hải quân. Với sự thành lập chính thức của hải quân vào năm 1886, Nhật Bản được chia thành năm . Mỗi thành phố có một . Sasebo được chỉ định là "Quân khu Hải quân thứ ba" (第三海軍 区, dai-san kaigunku), và cảng của nó được nạo vét, một đê chắn sóng được xây dựng và các cơ bến, chứa than và sửa chữa cho tàu chiến được thành lập, và căn cứ quân sự được chính thức khai trương năm 1889. Để nhấn mạnh tầm quan trọng của căn cứ, Thiên Hoàng Minh Trị đã thực hiện một chuyến thăm cá nhân vào năm 1890.
Căn cứ này được kết nối với toàn bộ nước Nhật bằng đường sắt vào năm 1898, và quân xưởng Hải quân Sasebo mà sau này sẽ mở rộng để trở thành một trong những nhà máy đóng tàu lớn nhất ở Nhật Bản để đóng các tàu chiến nhỏ được đưa vào hoạt động vào năm 1903. Giống các vùng hải quân kia, Sasebo được dự định hoạt động độc lập đến mức có thể, và các cơ sở bao gồm kho vũ khí, nhà máy sản xuất ngư lôi, mìn hải quân và hải pháo (và đạn dược liên quan), cũng như một bệnh viện hải quân và các trung tâm đào tạo. Theo khái niệm, Vùng Hải quân của Nhật tương tự như khái niệm Sea Frontiers của Hải quân Hoa Kỳ. Quân khu duy trì một lực lượng đồn trú nhỏ gồm một số tàu chiến và Lực lượng Lục quân Hải quân báo cáo trực tiếp cho bộ chỉ huy phòng thủ, và chứa đựng các nhóm tách ra của các hạm đội được đánh số trên cơ sở tạm thời.
Sasebo là cơ sở sửa chữa tàu gần nhất các vùng chiến đấu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật nên được sử dụng đáng kể trong cuộc xung đột đó.
Năm 1920, Hải quân Nhật thành lập một không đoàn không quân và một trung tâm truyền thông không dây vào năm 1922.Vào năm 1934, tàu phóng lôi Tomozuru bị lật trong một cơn bão ngoài khơi Sasebo với toàn bộ thủy thủ đoàn hi sinh. Nó đã gây ra nhiều tranh cãi về độ ổn định của thiết kế tàu chiến Nhật dẫn đến một đợt tổng chỉnh sửa gần như toàn bộ các tàu hiện tại của hải quân Nhật.
Năm 1941, cơ sở vật chất được mở rộng đáng kể cho cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Căn cứ này cũng là nơi đóng quân của một phần lớn lực lượng đổ bộ đặc biệt hải quân của Nhật Bản. Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã có khoảng 60.000 nhân công trong khu bến tàu và các trạm hải quân liên quan ở đỉnh cao của Thế Chiến II làm các công việc như trang bị các tàu, tàu ngầm và máy bay.
Hầu hết căn cứ đã bị phá hủy bởi các cuộc không kích của Mỹ vào ngày 28 tháng 6 năm 1945. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, Sasebo bị chiếm đóng bởi Sư Đoàn 5 của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, và Vùng Hải Quân Sasebo chính thức bị bãi bỏ vào ngày 30 tháng 11 năm 1945.
Một phần của các cơ sở của căn cứ cũ vẫn còn được sử dụng bởi Hải quân Hoa Kỳ thuộc hoạt động hạm đội Sasebo và lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản. Một trong những tòa nhà của căn cứ cũ bây giờ là một bảo tàng.
Cơ cấu tổ chức vào ngày tấn công Trân Châu Cảng
- Quân khu Hải quân thứ ba (Đô đốc Tanimoto)
Tàu tiếp tế Sata
Căn cứ hải quân Sasebo
Bộ tham mưu Căn cứ
Cục truyền thông và liên lạc
Cục tiếp tế
Cục kế toán
Cục xây dựng
Cục cảng & bến
Xưởng tàu Hải quân
Bệnh viện Hải quân
Nhà tù hải quân
Kho nhiên liệu hải quân
Đơn vị đồn chú
Lực lượng đổ bộ đặc biệt hải quân
Căn cứ tàu ngầm Sasebo
Kōkūtai (Trung đoàn không quân) Hải quân Sasebo
16 x Mitsubishi A5M
6 x Aichi E13A
* 15 x Kawanishi H6K
* Lực lượng phòng thủ Sasebo
Hạm đội Phòng thủ Sasebo
** Tàu tuần tra chưng dụng Kozan Maru
* Hạm đội Phòng thủ địa phương Sasebo
** Tàu tuần tra Shinkyo Maru (2672 tấn)
*** Tàu tuần tra Shinkyo Maru #5
Đội tàu quét mìn số 42
Tàu chưng dụng Seki Maru (297 tấn)
Tàu chưng dụng Toshi Maru #7 (297 tấn)
Lực lượng phòng thủ Oshima (đóng quân tại Naze, Đảo Oshima)
** Tàu chưng dụng Chuon Maru #8
Tàu chưng dụng Hakata Maru #7 (257 tấn)
Tàu chưng dụng Himejima Maru
Đội tàu quét mìn số 41
Tàu chưng dụng Kyo Maru #1
Tàu chưng dụng Kyo Maru #3
**** Tàu chưng dụng Kyo Maru #5
Danh sách chỉ huy
Sĩ quan chỉ huy
Tham mưu trưởng
- Đại tá Tameo Nakamizo (25 tháng 4 năm 1889 – 15 tháng 5 năm 1890)
- Chuẩn Đô đốc Koreyoshi Ogata (15 tháng 5 năm 1890 – 18 tháng 2 năm 1891)
- Chuẩn Đô đốc Masanaga Matsumura (18 tháng 2 năm 1891 – 23 tháng 7 năm 1891)
- Chuẩn Đô đốc Tadashi Nomura (23 tháng 7 năm 1891 – 20 tháng 5 năm 1893)
- Phó Đô đốc Nagataka Uemura (20 tháng 5 năm 1893 – 5 tháng 12 năm 1894)
- Phó Đô đốc Tomomichi Onomoto (5 tháng 12 năm 1894 – 27 tháng 12 năm 1897)
- Phó Đô đốc Yoshitomo Inoue (27 tháng 12 năm 1897 – 23 tháng 5 năm 1898)
- Captain Masaki Hashimoto (23 tháng 5 năm 1898 – 22 tháng 3 năm 1899)
- Chuẩn Đô đốc Ichiro Nijima (22 tháng 3 năm 1899 – 19 tháng 6 năm 1900)
- Chuẩn Đô đốc Tasuku Serata (9 tháng 6 năm 1900 –4 tháng 7 năm 1900)
- Đô đốc Motaro Yoshimatsu (4 tháng 7 năm 1900 – 6 tháng 7 năm 1901)
- Phó Đô đốc Hikohachi Yamada (6 tháng 7 năm 1901 – 19 tháng 10 năm 1903)
- Chuẩn Đô đốc Shinjiro Uehara (21 tháng 11 năm 1903 – 6 tháng 6 năm 1904)
- Phó Đô đốc Baron Toshiatsu Sakamoto (6 tháng 6 năm 1904 – 2 tháng 11 năm 1905)
- Đô đốc Motaro Yoshimatsu (2 tháng 11 năm 1905 – 2 tháng 2 năm 1906)
- Chuẩn Đô đốc Ichiro Nijima (2 tháng 2 năm 1906 – 7 tháng 4 năm 1906)
- Phó Đô đốc Koshi Saito (7 tháng 4 năm 1906 – 21 tháng 10 năm 1907)
- Chuẩn Đô đốc Genzaburo Ogi (21 tháng 10 năm 1907 – 15 tháng 5 năm 1908)
- Phó Đô đốc Baron Shinrokuro Nishi (15 tháng 5 năm 1908 – 26 tháng 5 năm 1908)
- Phó Đô đốc Tamotsu Tsuchiya (26 tháng 5 năm 1908 – 10 tháng 12 năm 1908)
- Đô đốc Baron Gentaro Yamashita (10 tháng 12 năm 1908 – 4 tháng 3 năm 1909)
- Chuẩn Đô đốc Genzaburo Ogi (4 tháng 3 năm 1909 – 1 tháng 12 năm 1909)
- Phó Đô đốc Yasutaro Egashira (1 tháng 12 năm 1909 – 11 tháng 3 năm 1911)
- Đô đốc Kaneo Nomaguchi (11 tháng 3 năm 1911 – 21 tháng 9 năm 1911)
- Phó Đô đốc Rinroku Eguchi (21 tháng 9 năm 1911 – 20 tháng 4 năm 1912)
- Phó Đô đốc Otojiro Ito (20 tháng 4 năm 1912 – 1 tháng 12 năm 1913)
- Chuẩn Đô đốc Ichitaro Nakajima (1 tháng 12 năm 1913 – 25 tháng 3 năm 1914)
- Phó Đô đốc Tomojiro Chisaka (25 tháng 3 năm 1914 – 1 tháng 12 năm 1914)
- Phó Đô đốc Hiromi Tadakoro (1 tháng 12 năm 1914 – 1 tháng 12 năm 1916)
- Phó Đô đốc Hanroku Saito (1 tháng 12 năm 1916 – 1 tháng 12 năm 1917)
- Phó Đô đốc Nobutaro Shimomura (1 tháng 12 năm 1917 – 10 tháng 11 năm 1918)
- Đô đốc Saburo Hyakutake (10 tháng 11 năm 1918 – 1 tháng 12 năm 1919)
- Phó Đô đốc Kenzo Kobayashi (1 tháng 12 năm 1919 – 1 tháng 5 năm 1922)
- Chuẩn Đô đốc Kametaro Muta (1 tháng 5 năm 1922 – 1 tháng 12 năm 1923)
- Phó Đô đốc Shiro Furukawa (1 tháng 12 năm 1923 – 1 tháng 12 năm 1925)
- Phó Đô đốc Yukichi Shima (1 tháng 12 năm 1925 – 1 tháng 12 năm 1927)
- Phó Đô đốc Togo Kawano (1 tháng 12 năm 1927 – 10 tháng 12 năm 1928)
- Phó Đô đốc Akira Fujiyoshi (10 tháng 12 năm 1928 – 1 tháng 12 năm 1930)
- Phó Đô đốc Giichiro Kawamura (1 tháng 12 năm 1930 – 1 tháng 12 năm 1931)
- Phó Đô đốc Yoshiyuki Niiyama (1 tháng 12 năm 1931 – 15 tháng 11 năm 1933)
- Phó Đô đốc Eikichi Katagiri (15 tháng 11 năm 1933 – 15 tháng 11 năm 1934)
- Chuẩn Đô đốc Hiroyoshi Tabata (15 tháng 11 năm 1934 – 1 tháng 3 năm 1935)
- Phó Đô đốc Ibō Takahashi (1 tháng 3 năm 1935 – 31 tháng 10 năm 1935)
- Phó Đô đốc Mitsumi Shimizu (31 tháng 10 năm 1935 – 16 tháng 11 năm 1936)
- Phó Đô đốc Hidesaburo Koori (16 tháng 11 năm 1936 – 1 tháng 9 năm 1938)
- Phó Đô đốc Masami Kobayashi (1 tháng 9 năm 1938 – 15 tháng 11 năm 1939)
- Phó Đô đốc Kakuji Kakuta (15 tháng 11 năm 1939 – 15 tháng 10 năm 1940)
- Phó Đô đốc Shigenori Horiuchi (15 tháng 10 năm 1940 – 10 tháng 10 năm 1941)
- Phó Đô đốc Gisaburo Yamaguchi (10 tháng 10 năm 1941 – 2 tháng 12 năm 1942)
- Phó Đô đốc Masaki Ogata (2 tháng 12 năm 1942 – 15 tháng 11 năm 1943)
- Phó Đô đốc Shigeji Kaneko (15 tháng 11 năm 1943 – 29 tháng 1 năm 1945)
- Chuẩn Đô đốc Keishi Ishii (29 tháng 1 năm 1945 – 30 tháng 11 năm 1945)
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|300x300px|Trụ sở Vùng Hải quân Sasebo vào khoảng năm 1930 là khu vực thứ ba trong số năm quận hành chính chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh. Lãnh thổ của
thumb|Quân xưởng Hải quân Sasebo (1920-1930) là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính thuộc quyền sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử phải|Quân
là một trong bốn khu vực hành chính chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh thế giới. Lãnh thổ của nó bao gồm toàn bộ bờ Biển Nhật Bản từ miền
**Hải quân Hoa Kỳ** (viết tắt: **USN**) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong tám lực lượng vũ trang chuyên nghiệp của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2018, Hải
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**_Sawakaze_** (tiếng Nhật: 澤風) là một tàu khu trục thuộc lớp _Minekaze_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là
**_Wakaba_** (tiếng Nhật: 若葉) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Wakaba_ đã tham
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_Kitakami_** (tiếng Nhật: 北上) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_Hatsushimo_** (tiếng Nhật: 初霜) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Hatsushimo_ đã tham
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**_Haruna_** (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**_Shikishima_** (tiếng Nhật: 敷島) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm _Shikishima_ vào đầu thế kỷ 20, và
**_Shiratsuyu_** (tiếng Nhật: 白露) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của _lớp tàu khu trục Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Shiratsuyu_ đã từng
**Lớp tàu tuần dương _Nagara**_ (tiếng Nhật: 長良型軽巡洋艦, Nagaragata Keijunyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng tham gia nhiều hoạt động
**_Hatsuharu_** (tiếng Nhật: 初春) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo
**_Abukuma_** (tiếng Nhật: 阿武隈) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Abukuma tại khu vực Tōhoku của Nhật
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**Lớp tàu tuần dương _Kuma**_ (tiếng Nhật: 球磨型軽巡洋艦; Kuma-gata keijunyōkan) bao gồm năm tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Kuma_ được tiếp nối bởi lớp _Nagara_ rất tương
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực
**_Tatsuta_** (tiếng Nhật: 龍田) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tenryū_ bao gồm hai chiếc. Tên _Tatsuta_ của nó được đặt
**_Ariake_** (tiếng Nhật: 有明) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Ariake_ đã tham
**_Yugure_** (tiếng Nhật: 夕暮; Hán Việt: _Tịch mộ_; chiều tà) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong
**_Harukaze_** (tiếng Nhật: 春風) là một tàu khu trục hạng nhất, thuộc lớp _Kamikaze_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản bao gồm chín chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_Mikazuki_** (tiếng Nhật: 三日月) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Mutsuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ
**_Inazuma_** (tiếng Nhật: 電) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc cuối cùng của lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
**_Kako_** (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**_Nenohi_** (tiếng Nhật: 子日) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Nenohi_ đã tham
**_Hyūga_** (tiếng Nhật: 日向), được đặt tên theo tỉnh Hyūga trên đảo Kyūshū, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Ise_. ## Thiết kế và chế tạo _Hyūga_
**Nagumo Chūichi** (, 25 tháng 3 năm 1887 - 6 tháng 7 năm 1944) là đại tướng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tướng tiên phong hàng đầu
**_Oboro_** (tiếng Nhật: 朧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**_Hatsuyuki_** (tiếng Nhật: 初雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_Sakawa_** (tiếng Nhật: 酒匂) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Yahagi_** (tiếng Nhật: 矢矧) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Yahagi_ đã bị máy
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-370_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**USS _Walke_ (DD-723)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**USS _Theodore E. Chandler_ (DD-717)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Taylor_ (DD-468/DDE-468)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ