là khu vực thứ hai trong số bốn khu vực hành chính chủ lực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai. Tên thường gọi của nơi này là . Phân vùng của nó bao gồm vùng biển nội địa của Nhật Bản và bờ biển Thái Bình Dương của miền nam Honshū từ Wakayama đến tỉnh Yamaguchi, phía đông và phía bắc Kyūshū và Shikoku.
Khu vực của Vùng Hải quân Kure bao gồm Khu neo thuyền Hashirajima nằm ở phía nam của Vịnh Hiroshima, cách Kure 30–40 km về phía tây nam. Khi không cần sửa chữa, tàu thường neo trong khu vực này để giải phóng không gian bến tàu tại Kure. Hashirajima cũng là một khu vực dàn dựng lớn cho các hoạt động của hạm đội.
Cảng Tokuyama, cũng là một phần của Vùng Hải quân Kure, và là kho nhiên liệu lớn nhất của Hải quân Nhật Bản.
Lịch sử
Vị trí của Kure trong vùng biển nội địa được che chở của Nhật Bản được xác định là có tầm quan trọng chiến lược trong việc kiểm soát các tuyến đường biển quanh miền tây Nhật Bản bởi chính phủ Meiji và Hải quân Đế quốc Nhật Bản sơ khai. Với sự hình thành của hải quân vào năm 1886, Nhật Bản được chia thành năm vùng hải quân để tuyển dụng và cung cấp yếu phẩm cho hải quân. Trong quá trình tái tổ chức hành chính của Hải quân Nhật Bản năm 1889, Kure được chỉ định là , và cảng của nó được nạo vét, một đê chắn sóng được xây dựng và cơ sở đậu cho các tàu chiến thành lập. Năm sau, thi công bắt đầu tại Quân xưởng Hải quân Kure, mà sau đo sẽ mở rộng để trở thành một trong những nhà máy đóng tàu lớn nhất ở Nhật Bản để xây dựng những kì hạm lớn. Các cơ sở của Quân xưởng Kure bao gồm các kho vũ khí, nhà máy sản xuất ngư lôi, mìn hải quân và hải pháo (và đạn dược liên quan), cũng như một bệnh viện hải quân và các trung tâm đào tạo.
Học viện Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Đại học hải quân Nhật đã được di dời từ Tokyo đến Etajima gần đó, và do đó cũng nằm trong biên giới của Vùng Hải quân Kure, nhưng không phải dưới sự chỉ huy trực tiếp của Vùng Hải quân Kure.
Năm 1920, hải quân Nhật Bản thành lập căn cứ tàu ngầm chính và trường huấn luyện chiến tranh tàu ngầm ở Kure. Một không đoàn không quân được thành lập vào năm 1932, và một trung tâm viễn thông vào năm 1937.
Tại thời điểm tấn cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào năm 1941, Vùng Hải quân Kure bao gồm những cơ sở sau
- Tổng tham mưu Vùng Hải quân Kure
Căn cứ hải quân Kure
* Đơn vị bảo vệ hải quân Kure
** Khu trục Yakaze
Tàu ngầm I-52, Ro-30, Ro-31, Ro-32
Tàu rải mìn Katsuriki
*** Kaibokan Yakumo
Quân xưởng Hải quân Kure
Bệnh viện Hải quân Kure
Nhà tù hải quân Kure
Kho nhiên liệu hải quân Kure
Lực lượng đổ bộ đặc biệt Kure
Căn cứ tàu ngầm Kure
Doanh trại Bộ binh Hải quân Otake
Kho nhiên liệu hải quân Tokuyama
Hạm đội An ninh Kure
Tuần dương thương mại Saigon Maru, Bangkok Maru
Pháo hạm thương mại Hong Kong Maru
Hạm đội phòng thủ địa phương Kure
* Hạm đội khu trục số 13
**Tàu khu trục Wakatake, Kuretake và Sanae
* Tàu đuổi tàu ngầm Số 19, Số 20, Số 21
Tuần dương thương mại Kinjōsan Maru
Hạm đội quét mìn số 31
** Tàu quét mìn thương mại Takunan Maru No. 3, Takunan Maru No. 8, Tama Maru, Tama Maru No. 6, Tama Maru No. 7, Ōi Maru
* Hạm đội quét mìn số 33
** Tàu quét mìn thương mại Bizan Maru, Meshima Maru, Tokuhō Maru No. 5, Dai-2-Gō Asahi Maru, Kiri Maru No. 5, Miyo Maru
* Lực lượng phòng thủ Saeki
* Lực lượng phòng thủ Shimonoseki
* Kōkūtai (trung đoàn không quân) kết hợp số 12 (Huấn luyện)
Kōkūtai Ōita
Kōkūtai Usa
Kōkūtai Hakata
* Kōkūtai Ōmura
Kōkūtai Kure
Kōkūtai Saeki
* Hạm đội tàu ngầm số sáu (Huấn luyện)
Tàu ngầm Ro-57
Tàu ngầm Ro-58
Tàu ngầm Ro-59
Kure đã bị đánh bom nặng nề bởi máy bay ném bom của Hải quân Hoa Kỳ và Không quân Lục quân Hoa Kỳ trong các giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Thái Bình Dương, và nhiều cơ sở của nó đã bị phá hủy. Khu vực Kure bị các lực lượng Úc và Anh chiếm đóng trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, và phần lớn là cơ sở bị phi quân sự hóa. Một phần nhỏ của khu vực được sau này giao lại cho Lực lượng Phòng vệ bờ biển Nhật. Họ đã bảo tồn một phần của các cổng gạch đỏ nguyên bản vài tòa nhà làm các bảo tàng kỷ niệm.
Danh sách chỉ huy
Sĩ quan chỉ huy
Tham mưu trưởng
- Chuẩn Đô đốc Shizuo Sato (1 Tháng 4 năm 1889 – 13 Tháng 5 năm 1890)
- Nguyên soái Đô đốc Bá tước Heihachiro Togo (13 Tháng 5 năm 1890 – 14 Tháng 12 năm 1891)
- Chuẩn Đô đốc Tokiyasu Yoshijima (14 Tháng 12 năm 1891 – 20 Tháng 5 năm 1893)
- Chuẩn Đô đốc Fukusaburo Hirao (20 Tháng 5 năm 1893 – 11 Tháng 5 năm 1895)
- Chuẩn Đô đốc Katsumi Miyoshi (11 Tháng 5 năm 1895 – 27 Tháng 12 năm 1897)
- Phó Đô đốc Baron Masamichi Togo (27 Tháng 12 năm 1897 – 23 Tháng 3 năm 1899)
- Đại tá Isamu Yajima (23 Tháng 3 năm 1899 – 6 Tháng 12 năm 1900)
- Chuẩn Đô đốc Hisamaro Oinoue (6 Tháng 12 năm 1900 – 3 Tháng 2 năm 1904)
- Phó Đô đốc Baron Tokutaro Nakamizo (3 Tháng 2 năm 1904 – 10 Tháng 5 năm 1905)
- Chuẩn Đô đốc Ichiro Nijima (10 Tháng 5 năm 1905 – 2 Tháng 2 năm 1906)
- Đô đốc Motaro Yoshimatsu (2 Tháng 2 năm 1906 – 22 Tháng 11 năm 1906)
- Chuẩn Đô đốc Shinjiro Uehara (22 Tháng 11 năm 1906 – 27 Tháng 12 năm 1907)
- Chuẩn Đô đốc Heitaro Takeuchi (27 Tháng 12 năm 1907 – 22 Tháng 5 năm 1910)
- Đô đốc Matahichiro Nawa (22 Tháng 5 năm 1910 – 20 Tháng 4 năm 1912)
- Đô đốc Kaneo Nomaguchi (20 Tháng 4 năm 1912 – 10 Tháng 1 năm 1913)
- Chuẩn Đô đốc Kishichiro Osawa (10 Tháng 1 năm 1913 – 1 Tháng 12 năm 1913)
- Phó Đô đốc Naoe Nakano (1 Tháng 12 năm 1913 – 17 Tháng 4 năm 1914)
- Đô đốc Kenji Ide (17 Tháng 4 năm 1914 – 13 Tháng 12 năm 1915)
- Phó Đô đốc Shibakichi Yamanaka (13 Tháng 12 năm 1915 – 13 Tháng 7 năm 1917)
- Phó Đô đốc Junichi Matsumura (18 Tháng 7 năm 1917 – 1 Tháng 12 năm 1918)
- Phó Đô đốc Shichigoro Saito (1 Tháng 12 năm 1918 – 1 Tháng 12 năm 1920)
- Phó Đô đốc Yoshimoto Masaki (1 Tháng 12 năm 1920 – 1 Tháng 12 năm 1922)
- Phó Đô đốc Naomoto Komatsu (1 Tháng 12 năm 1922 – 6 Tháng 11 năm 1923)
- Phó Đô đốc Naotaro Nagasawa (6 Tháng 11 năm 1923 – 1 Tháng 12 năm 1924)
- Chuẩn Đô đốc Bekinari Kabayama (1 Tháng 12 năm 1924 – 16 Tháng 12 năm 1924)
- Phó Đô đốc Tokujiro Tateno (16 Tháng 12 năm 1924 – 1 Tháng 12 năm 1926)
- Phó Đô đốc Kiyohiro Ijichi (1 Tháng 12 năm 1926 – 10 Tháng 12 năm 1928)
- Đô đốc Koshirō Oikawa (10 Tháng 12 năm 1928 – 10 Tháng 6 năm 1930)
- Phó Đô đốc Giichi Suzuki (10 Tháng 6 năm 1930 – 1 Tháng 12 năm 1931)
- Phó Đô đốc Choji Inoue (1 Tháng 12 năm 1931 – 15 Tháng 11 năm 1932)
- Phó Đô đốc Tokutaro Sumiyama (15 Tháng 11 năm 1932 – 15 Tháng 11 năm 1934)
- Phó Đô đốc Umataro Tanimoto (15 Tháng 11 năm 1934 – 15 Tháng 11 năm 1935)
- Phó Đô đốc Masaichi Niimi (15 Tháng 11 năm 1935 – 1 Tháng 4 năm 1936)
- Phó Đô đốc Ichiro Sato (1 Tháng 4 năm 1936 – 1 Tháng 12 năm 1936)
- Phó Đô đốc Takamoto Togari (1 Tháng 12 năm 1936 – 15 Tháng 12 năm 1938)
- Phó Đô đốc Toshihisa Nakamura (15 Tháng 12 năm 1938 – 10 Tháng 10 năm 1939)
- Phó Đô đốc Matome Ugaki (10 Tháng 10 năm 1939 – 20 Tháng 8 năm 1941)
- Phó Đô đốc Torahiko Nakajima (20 Tháng 8 năm 1941 – 6 Tháng 1 năm 1943)
- Phó Đô đốc Kengo Kobayashi (6 Tháng 1 năm 1943 – 11 Tháng 6 năm 1943)
- Phó Đô đốc Shinzo Onishi (11 Tháng 6 năm 1943 – 9 Tháng 9 năm 1944)
- Phó Đô đốc Shozo Hashimoto (10 Tháng 9 năm 1944 – 15 Tháng 10 năm 1945)
- Chuẩn Đô đốc Tametsugu Okada (15 Tháng 10 năm 1945 – 30 Tháng 11 năm 1945)
Ngoài ra
- Học viện Hải quân Etajima
- Etajima
- Cuộc công kích Kure (Tháng 7 năm 1945)
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là khu vực thứ hai trong số bốn khu vực hành chính chủ lực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai. Tên thường gọi của nơi này là
là một trong bốn khu vực hành chính chính của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh thế giới. Lãnh thổ của nó bao gồm toàn bộ bờ Biển Nhật Bản từ miền
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
Tử tước là đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản thời kỳ ban đầu. ## Tiểu sử Nakamuta quê quán phiên Saga (nay là tỉnh Saga). Ông là một thủy binh samurai trong hải
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_Haruna_** (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến
**_Ōyodo_** (tiếng Nhật: 大淀), là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo sông Ōyodo tại
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_Kashima_** (tiếng Nhật: 鹿島) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai được hoàn tất trong lớp _Katori_ gồm ba chiếc. Tên của nó được
**USS _Stewart_ (DD-224)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**Tàu ngầm lớp I-201** là một loại tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai. Loại tàu ngầm được thiết kế nâng cao để có thể di
**_Hatsushimo_** (tiếng Nhật: 初霜) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Hatsushimo_ đã tham
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
, nguyên là **_Tàu ngầm số 78_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-57_**, sau đổi tên thành **_I-157_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_Amagiri_** (tiếng Nhật: 天霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Hatsuyuki_** (tiếng Nhật: 初雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-366_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
là một tàu buôn tuần dương có vũ trang của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Con tàu đi vào hoạt động từ năm 1940, sau đó được
**_Atago_** (tiếng Nhật: 愛宕) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước
**_Isonami_** (tiếng Nhật: 磯波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Inazuma_** (tiếng Nhật: 電) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc cuối cùng của lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
nhỏ|phải|Một tấm ảnh khác về tàu khu trục _Shirakumo_. **_Shirakumo_** (tiếng Nhật: 白雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn
**_Usugumo_** (tiếng Nhật: 薄雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Nagato_** (tiếng Nhật: 長門, **_Trường Môn_**), được đặt theo tên tỉnh Nagato, là một thiết giáp hạm siêu-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. _Nagato_ là chiếc thiết giáp hạm đầu
**_Kitakami_** (tiếng Nhật: 北上) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Harukaze_** (tiếng Nhật: 春風) là một tàu khu trục hạng nhất, thuộc lớp _Kamikaze_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản bao gồm chín chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
, nguyên là **_Tàu ngầm số 64_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-176_** (nguyên là **_tàu ngầm số 154_**, rồi **_I-76_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-181_** (nguyên là **_Tàu ngầm số 159_** và **_I-81_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**USS _Monssen_ (DD-798)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**_Hibiki_** (tiếng Nhật: 響) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc thứ hai trong lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
**_Namikaze_** (tiếng Nhật: 波風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ
**Tượng đài hải dương quốc gia Papahānaumokuākea** (tên tiếng Anh: _Papahānaumokuākea Marine National Monument_, ), còn được gọi theo tên cũ là **Khu bảo tồn hải dương quốc gia quần đảo Tây bắc Hawaii** (tiếng
**_Kako_** (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**_Akebono_** (tiếng Nhật: 曙) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế