✨I-121 (tàu ngầm Nhật)

I-121 (tàu ngầm Nhật)

I-121, nguyên là Tàu ngầm số 48 và mang tên I-21 từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm rải mìn I-121 được Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nhập biên chế năm 1927, nó đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, bao gồm các Chiến dịch Mã Lai và Philippines, cuộc ném bom Darwin và trận Midway, cũng như các Chiến dịch Guadalcanal, Đông Solomon và New Guinea. I-121 được rút về đảm nhiêm vai trò huấn luyện từ cuối năm 1943 và đã sống sót qua Thế Chiến II, đầu hàng lực lượng Đồng Minh khi chiến tranh kết thúc, và bị đánh chìm vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Lớp I-121 là lớp tàu ngầm chuyên rải thủy lôi duy nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Hải quân Nhật Bản gọi tên lớp tàu này như là ; là tên rút gọn từ . Thiết kế của chúng dựa trên chiếc tàu ngầm rải mìn , một chiếc Type UE II của Hải quân Đế quốc Đức, là chiếc lớn nhất trong số bảy tàu ngầm Đức mà Nhật Bản nhận được sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất như là chiến lợi phẩm bồi thường chiến tranh. U-125 đã phục vụ cùng Hải quân Nhật Bản như là chiếc O-6 trong những năm 1920-1921.

Giống như U-125, tàu ngầm kiểu Kiraisen có hai động cơ diesel cung cấp tổng công suất , có khả năng mang theo 42 quả thủy lôi, có bốn ống phóng ngư lôi cùng một khẩu hải pháo trên boong tàu với cỡ nòng của Nhật Bản thay cho cỡ trên U-125. So sánh với chiếc tàu ngầm Đức nguyên mẫu, lớp I-125 có kích thước lớn hơn, dài hơn và trọng lượng choán nước nặng hơn 220 tấn khi nổi và 300 tấn khi lặn — và có tầm hoạt động xa hơn ở tốc độ khi nổi và ở tốc độ khi lặn. Tuy nhiên I-125 chậm hơn cả khi nổi và lặn, mang theo ít hơn hai ngư lôi, và chỉ có thể lặn sâu đến khi so với của U-125.

Chế tạo

I-121 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 48 tại xưởng tàu của hãng Kawasaki ớ Kobe vào ngày 20 tháng 10, 1924. Nó được đổi tên thành I-21 vào ngày 1 tháng 11, 1924 Đội tàu ngầm 13 được điều về Hải đội Phòng vệ Kure từ ngày 15 tháng 11, Đến ngày 20 tháng 6, 1938, I-121 được cho xuất biên chế và đưa về thành phần dự bị 2 thuộc Quân khu Hải quân Kure. Chúng xuất phát từ Sasebo vào ngày 16 tháng 5, viếng thăm các vùng biển thuộc các quần đảo Caroline, Marshall và Mariana, trước khi kết thúc chuyến đi tại Yokosuka vào ngày 22 tháng 9, 1940.

Đội tàu ngầm 13 lại được phối thuộc trực tiếp cùng Quân khu Hải quân Kure từ ngày 15 tháng 11, 1940, Tuy nhiên khi I-123 đi đến bãi cạn Frigate Pháp vào cuối tháng 5, nó phát hiện các tàu tiếp liệu thủy phi cơ Hoa Kỳ và đang cho hoạt động thủy phi cơ tại đây, nên Chiến dịch K-2 bị hủy bỏ.

I-121 nhận được báo cáo của I-123 về hoạt động của Hải quân Mỹ tại bãi cạn Frigate Pháp vào ngày 30 tháng 5, rồi việc hủy bỏ Chiến dịch K-2 vào ngày hôm sau, nên được lệnh tiếp tục tuần tra tại khu vực bãi cạn Frigate Pháp. Trận Midway bắt đầu vào ngày 4 tháng 6, khi I-121 cùng I-123 được lệnh di chuyển sang phía Tây đến khu vực tuần tra mới. Trên đường di chuyển, ở vị trí về phía Tây Nam đảo Lisianski vào ngày 5 tháng 6, I-121 trông thấy tàu ngầm đang đi trên mặt nước hướng sang phía Đông Bắc. Đến 14 giờ 59 phút, Dolphin phát hiện kính tiềm vọng của I-121 ở khoảng cách về phía đuôi tàu, nên di chuyển ra xa khỏi tầm bắn trước khi I-121 đến được vị trí thuận lợi để tấn công.

Trận Midway kết thúc vào ngày 7 tháng 6 với một thất bại mang tính quyết định cho phía Nhật Bản, và họ phải hủy bỏ ý định chiếm đóng Midway. I-121 kết thúc chuyến tuần tra khi cùng I-122I-123 đi đến Kwajalein vào ngày 25 tháng 6. Sau đó nó quay trở về Yokosuka để sửa chữa. Trong giai đoạn này Đội tàu ngầm 13 được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 7 trực thuộc Đệ Bát hạm đội vào ngày 14 tháng 7.

Chiến dịch Guadalcanal

Khởi hành từ Yokosuka vào ngày 16 tháng 7, I-121 ghé đến Truk từ ngày 24 đến ngày 31 tháng 7, rồi đi đến căn cứ hoạt động mới tại Rabaul trên đảo New Britain vào ngày 4 tháng 8. Chiến dịch Guadalcanal diễn ra từ ngày 7 tháng 8, khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi, đảo Florida, Gavutu và Tanambogo ở phía Đông Nam quần đảo Solomon. I-121 cùng với I-122 xuất phát từ Rabaul vào ngày này để trinh sát vùng biển ngoài khơi Guadalcanal và Tulagi. Sang ngày hôm sau, tàu ngầm Hoa Kỳ phát hiện I-121 đang đi trên mặt nước ở vị trí về phía Nam mũi St. George trên đảo New Ireland, nhưng không thể tấn công. Từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 8, I-121 hoạt động trinh sát Lungga Roads ngoài khơi Guadalcanal, rồi sang ngày 18 tháng 8 đã di chuyển đến khu vực tuần tra mới về phía Đông Nam đảo San Cristóbal, và Đội tàu ngầm 13 được điều động sang Lực lượng Tiền phương vào ngày 21 tháng 8. Tại đây nó tấn công bất thành Lực lượng Đặc nhiệm 16 Hải quân Mỹ ở vị trí khoảng về phía Đông Nam San Cristóbal vào ngày 22 tháng 8. Một trong các ngư lôi của nó trồi lên mặt nước ở khoảng giữa giữa tàu sân bay và tàu tuần dương hạng nặng .

Trong các ngày 24 và 25 tháng 8, Lực lượng Đặc nhiệm 16 tham gia Trận Đông Solomon, nơi Enterprise bị hư hại. I-121 được điều động đánh chặn Enterprise vào ngày 26 tháng 8, khi chiếc tàu sân bay Hoa Kỳ bị hư hại đang rút lui. Chiếc tàu ngầm đang đi trên mặt nước để nạp lại điện cho ắc-quy vào ngày 27 tháng 8, khi hai máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless xuất phát từ tàu sân bay tấn công nó lúc 06 giờ 30 phút. Trong khi chiếc tàu ngầm lặn khẩn cấp để ẩn nấp, một quả bom đánh trúng khoang chứa thủy lôi rỗng, khiến con tàu bị rò rỉ nước nghiêm trọng, và buộc phải trồi lên mặt nước để sửa chữa khẩn cấp vài giờ sau đó. Không có khả năng lặn mặc dù đã được sửa chữa, nó buộc phải kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Rabaul. Trên đường đi vào ngày 28 tháng 8, ở vị trí khoảng về phía Đông Bắc San Cristóbal, nó bắt gặp một tàu sân bay và nhiều tàu khu trục lúc 04 giờ 30 phút, rồi đến 08 giờ 00 lại trông thấy một tàu sân bay, hai tàu tuần dương và bốn tàu khu trục. Tuy nhiên nó về đến Rabaul lúc 15 giờ 00 ngày 4 tháng 9 mà không gặp thêm sự cố nào.

Sau khi được sửa chữa tạm thời, I-121 rời Rabaul vào ngày 8 tháng 9 để quay trở về Nhật Bản, đi đến Kure vào ngày 20 tháng 9, nơi nó được đại tu. Hoàn tất việc đại tu, I-121 khởi hành từ Kure vào ngày 1 tháng 12, ghé đến căn cứ Truk từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 12, rồi đi đến Rabaul vào ngày 21 tháng 12, nơi nó được điều sang Đội tàu ngầm "B".

1943

Chiến dịch New Guinea

Để hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản đang tham gia Chiến dịch New Guinea, I-121 khởi hành Rabaul vào ngày 23 tháng 12, 1942 để vận chuyển hàng tiếp liệu đến Buna trên bờ biển phía Đông Bắc New Guinea. Nó lại được điều sang Đội tàu ngầm "D", rồi xuất phát từ Rabaul vào ngày 4 tháng 1, 1943 để tuần tra về phía Đông Nam New Guinea, và quay trở về Rabaul vào ngày 25 tháng 1. Đến ngày 29 tháng 1, chiếc tàu ngầm lại rời Rabaul để tiếp nhiên liệu cho các thủy phi cơ trinh sát hoạt động tại vùng đá ngầm Indispensable, rồi quay trở về vào ngày 10 tháng 2. Khởi hành từ Rabaul vào ngày 14 tháng 2, nó ghé qua căn cứ Truk từ ngày 18 đến ngày 23 tháng 2, rồi tiếp tục hành trình quay trở về Nhật Bản, đi đến Kure vào ngày 5 tháng 3, nơi con tàu được đại tu. Trong giai đoạn này, Hải đội Tàu ngầm 7 của nó được điều động sang Hạm đội Khu vực Đông Nam.

Hoàn tất việc sửa chữa, I-121 khởi hành từ Kure vào ngày 25 tháng 4 để đi sang Rabaul, đến nơi vào ngày 7 tháng 5. Từ đây nó thực hiện chuyến đi tiếp liệu đầu tiên sang Lae, New Guinea, khi khởi hành vào ngày 10 tháng 5 và đi đến Lae bốn ngày sau đó. Chiếc tàu ngầm cho chất dỡ 26 tấn lương thực và đạn dược, rồi đón lên tàu 15 binh lính trước khi lên đường ngay ngày hôm đó để quay trở lại Rabaul, đến nơi vào ngày 17 tháng 5. Nó thực hiến chuyến đi tiếp liệu thứ hai sang Lae từ ngày 19 tháng 5, nhưng sự cố về động cơ buộc con tàu phải quay trở lại Rabaul vào ngày 22 tháng 5. Nó thành công hơn trong chuyến tiếp liệu thứ ba, khi rời Rabaul vào ngày 23 tháng 5, chất dỡ 26 tấn lương thực và đạn dược tại Lae vào ngày 26 tháng 5, và quay trở về Rabaul vào ngày 29 tháng 5. Đến ngày 31 tháng 5, Đội tàu ngầm 13 được giải thể, và I-121 cùng I-122 được phối thuộc trực tiếp dưới quyền Bộ tư lệnh Hải đội Tàu ngầm 7.

Trong suốt tháng 6, tháng 7 và đầu tháng 8, I-121 tiếp tục thực hiện các chuyến đi tiếp liệu sang Lae. Nó khởi hành từ Rabaul vào ngày 1 tháng 6 cho chuyến thứ tư, vận chuyển 26,5 tấn lương thực và đạn dược đến Lae vào ngày 3 tháng 6, rồi đón lên tàu 15 binh lính và lên đường ngay trong ngày hôm đó cho chặng quay trở về Rabaul, đến nơi vào ngày 6 tháng 6. Chuyến thứ năm bắt đầu từ ngày 8 tháng 6, đi đến Lae vào ngày 10 tháng 6 với 26,5 tấn lương thực và đạn dược, và cũng đưa trở về Rabaul 15 binh lính vào ngày 13 tháng 6. Chiếc tàu ngầm rời Rabaul vào ngày 20 tháng 6, cho chuyến thứ sáu, chất dỡ 26,5 tấn lương thực và đạn dược tại Lae vào ngày 22 tháng 6, rồi lên đường quay trở lại Rabaul cùng ngày hôm đó. Sau đó I-121 còn thực hiện thêm ba chuyến vận chuyển tiếp liệu đi đến Lae vào các ngày 7 tháng 7, 27 tháng 7 và 3 tháng 8.

Vào ngày 15 tháng 8, I-121 cùng với I-122 được điều động về Hải đội Phòng vệ Kure thuộc trực Quân khu Hải quân Kure. Trước khi quay trở về Nhật Bản, nó thực hiện chuyến đi tiếp liệu cuối cùng sang Lae, là chuyến thứ mười, khi rời Rabaul vào ngày 19 tháng 8 và đến Lae vào ngày 20 tháng 8. Sau đó chiếc tàu ngầm hướng về Nhật Bản, đi đến Kure vào ngày 1 tháng 9.

1944 - 1945

I-121 cùng với I-122, vào lúc đó bị xem là đã lạc hậu, được rút khỏi hoạt động trên tuyến đầu và hoạt động như tàu huấn luyện tại Căn cứ Hải quân Kure. Vào tháng 12, 1943, chúng nằm trong thành phần Đội tàu ngầm 18 cùng với các tàu ngầm I-153, I-154I-155, vốn cũng đảm nhiệm vai trò huấn luyện. Vào ngày 5 tháng 1, 1944, I-121 cùng với tàu ngầm I-159 tham gia giai đoạn đầu của một thử nghiệm sơ đồ ngụy trang do Trường Tàu ngầm Hải quân tiến hành trong biển nội địa Seto. Lườn tàu và hai bên mặt tháp chỉ huy được sơn một sơ đồ xám-xanh lá. Sau đó từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 2, 1945, cả hai chiếc tàu ngầm tiếp tục tham gia giai đoạn hai của thử nghiệm, khi sơ đồ ngụy trang này được áp dụng cho cả sàn tàu.

Vào ngày 20 tháng 4, 1945, I-121 cùng với I-122 được điều sang Đội tàu ngầm 23 trực thuộc Hải đội Tàu ngầm Kure. I-121 được điều sang Căn cứ Hải quân Mazuru vào ngày 12 tháng 6, 1945 và ở lại đây cho đến khi chiến tranh kết thúc.

Cuối chiến tranh - Bị loại bỏ

Thế Chiến II kết thúc vào ngày 15 tháng 8, 1945, khi Thiên hoàng Chiêu Hòa Hirohito công bố qua đài phát thanh mệnh lệnh đình chỉ chiến sự giữa Nhật Bản và Đồng Minh. I-121 đầu hàng lực lượng Đồng Minh tại Căn cứ Hải quân Mazuru trong tháng 9, sau khi văn kiện đầu hàng được ký kết trên thiết giáp hạm neo đậu trong vịnh Tokyo vào ngày 2 tháng 9.

I-121 được cho rút tên khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 30 tháng 11, 1945. Trong khuôn khổ Chiến dịch Road's End, nó cùng các tàu ngầm Ro-68Ro-500 bị đánh chìm trong vịnh Wakasa ngoài khơi đảo Kanmurijima trong biển Nhật Bản vào ngày 30 tháng 4, 1946.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-24_**: * _I-24_ (1927) là một tàu ngầm kiểu _Kiraisen_ (lớp _I-121_) hạ thủy năm 1927, đổi tên thành _I-124_
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-22_**: * _I-22_ (1926) là một tàu ngầm kiểu _Kiraisen_ (lớp _I-121_) hạ thủy năm 1926, đổi tên thành _I-122_
là một lớp tàu ngầm rải mìn của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, phục vụ từ giữa thập niên 1920 cho đến Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hải quân Nhật Bản gọi tên
nhỏ|Tàu ngầm HMS Astute, loại tàu ngầm hạt nhân tấn công tiên tiến. **Tàu ngầm hạt nhân** (tiếng Anh: Nuclear submarine) là một loại tàu ngầm vận hành nhờ năng lượng sinh ra từ phản
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _Montgomery_ (DD–121)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ
nhỏ|Zeppelin và tàu [[USS Los Angeles (CA-135)|USS Los Angeles, 1931]] **Zeppelin** đã từng là những khí cầu khung cứng thành công nhất. Zeppelin được đặt tên theo nhà chế tạo chúng là Ferdinand Graf von
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Trận Balikpapan lần thứ nhất** diễn ra vào ngày 23-25 tháng 1 năm 1942, ngoài khơi thị trấn sản xuất dầu lớn và cảng Balikpapan, trên đảo Borneo, thuộc Đông Ấn Hà Lan. Sau khi
**USS _James E. Kyes_ (DD-787)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Greer_ (DD–145)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**USS _Fiske_ (DD-842/DDR-842)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Chiến dịch Krym** hay theo cách gọi của người Đức là **Trận bán đảo Krym**, là một loạt các cuộc tấn công của Hồng Quân Liên Xô nhằm vào quân đội Đức để giải phóng
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Boeing B-17 Flying Fortress** **(Pháo đài bay)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Hoa Kỳ (USAAF) và được đưa vào sử dụng vào cuối
**Danh sách các nhà phát minh** được ghi nhận. ## Danh sách theo bảng chữ cái ### A * Vitaly Abalakov (1906–1986), Nga – các thiết bị cam, móng neo leo băng không răng ren
**Khánh Hòa** là một tỉnh ven biển thuộc duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Khánh Hòa có diện tích: 8.556 km², xếp thứ 17;
phải|Trụ sở Tupolev **Tupolev** (tiếng Nga: **Туполев**) là một công ty hàng không và quốc phòng Nga. Tên chính thức của Tupolev là **Công ty cổ phần công cộng Tupolev**. Đây là công ty kế
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Thảm họa đập Brumadinho** xảy ra vào ngày 25 tháng 1 năm 2019, khi một đập chất thải tại mỏ quặng sắt ở Brumadinho, Minas Gerais, Brazil, đã vỡ. Con đập thuộc sở hữu của
**McDonnell Douglas F/A-18 Hornet** **(Ong vò vẽ)** là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết,
**Tiger II** là tên thường gọi của một loại xe tăng hạng nặng Đức trong Thế chiến II. Tên định danh chính thức của Đức là **_Panzerkampfwagen Tiger Ausf. B_** , thường được gọi tắt
**Lockheed Corporation** là một công ty hàng không vũ trụ của Hoa Kỳ. Lockheed được thành lập vào năm 1926 và sau này sáp nhập với Martin Marietta trở thành Lockheed Martin vào năm 1995.
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
thế=Một biển báo hiệu lệnh và một biển báo chỉ đường ở Đà Lạt, chụp năm 2011|nhỏ|Một biển báo hiệu lệnh và một biển báo chỉ đường ở [[Đà Lạt, chụp năm 2011]] Hệ thống
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**S-300** là một loạt các hệ thống Tên lửa đất đối không tầm xa Nga do Tổng công ty khoa học công nghiệp Almaz sản xuất dựa trên phiên bản S-300P đầu tiên. Hệ thống
**Thủ Đức** là một thành phố cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Tiền thân của thành phố Thủ Đức là huyện Thủ Đức cũ trước khi bị chia tách thành ba quận
**Thế vận hội Mùa hè 201**6 (, ), tên chính thức là **Thế vận hội** **Mùa hè lần thứ XXXI** () và được chính thức quảng bá với tên gọi **_Rio 2016_**, là một sự
**Tupolev Tu-160**, biệt danh "Thiên Nga Trắng" là một máy bay ném bom chiến lược hạng nặng, siêu thanh với thiết kế cánh cụp-cánh xòe, được thiết kế bởi Liên bang Xô viết. Nó là
nhỏ|Bức Tranh _Die Tafelrunde_ của họa sĩ [[Adolph von Menzel. Bữa ăn của Voltaire, cùng vua Phổ Friedrich II Đại Đế và các viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Berlin.]] **Phong trào Khai sáng**,
**Đồng Tháp** là một tỉnh mới thành lập thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Vùng đất Đồng Tháp đã được Chúa Nguyễn khai phá vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII. Tỉnh Đồng
**Augsburg** (phiên âm tiếng Việt: **Au-xbuốc**; , , ; ) là một thành phố nằm tại Schwaben, bang Bayern, miền nam Đức. Đây là thành phố lớn thứ ba ở bang sau Munich và Nuremberg
**Gloster Meteor** là loại máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên của Anh, và cũng là máy bay phản lực đầu tiên và duy nhất của quân Đồng minh hoạt động trong Chiến tranh
**Vĩnh Phúc** là một tỉnh cũ thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam, nằm ở chính giữa trung tâm hình học trên bản đồ miền Bắc. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng