✨I-122 (tàu ngầm Nhật)

I-122 (tàu ngầm Nhật)

I-122, nguyên là Tàu ngầm số 49 và mang tên I-22 từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp I-121 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nhập biên chế năm 1928, nó đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, bao gồm các Chiến dịch Mã Lai và Philippines, cuộc ném bom Darwin và trận Midway, cũng như các Chiến dịch Guadalcanal, Đông Solomon và New Guinea. I-121 được rút về đảm nhiệm vai trò huấn luyện từ cuối năm 1943 cho đến khi bị tàu ngầm Hoa Kỳ đánh chìm trong biển Nhật Bản vào ngày 10 tháng 6, 1945.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Lớp I-121 là lớp tàu ngầm chuyên rải thủy lôi duy nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Hải quân Nhật Bản gọi tên lớp tàu này như là ; là tên rút gọn từ . Thiết kế của chúng dựa trên chiếc tàu ngầm rải mìn , một chiếc Type UE II của Hải quân Đế quốc Đức, là chiếc lớn nhất trong số bảy tàu ngầm Đức mà Nhật Bản nhận được sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất như là chiến lợi phẩm bồi thường chiến tranh. U-125 đã phục vụ cùng Hải quân Nhật Bản như là chiếc O-6 trong những năm 1920-1921.

Giống như U-125, tàu ngầm kiểu Kiraisen có hai động cơ diesel cung cấp tổng công suất , có khả năng mang theo 42 quả thủy lôi, có bốn ống phóng ngư lôi cùng một khẩu hải pháo trên boong tàu với cỡ nòng của Nhật Bản thay cho cỡ trên U-125. So sánh với chiếc tàu ngầm Đức nguyên mẫu, lớp I-125 có kích thước lớn hơn, dài hơn và trọng lượng choán nước nặng hơn 220 tấn khi nổi và 300 tấn khi lặn — và có tầm hoạt động xa hơn ở tốc độ khi nổi và ở tốc độ khi lặn. Tuy nhiên I-125 chậm hơn cả khi nổi và lặn, mang theo ít hơn hai ngư lôi, và chỉ có thể lặn sâu đến khi so với của U-125.

Chế tạo

I-122 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 49 tại xưởng tàu của hãng Kawasaki ớ Kobe vào ngày 20 tháng 10, 1924. Nó được đổi tên thành I-22 Đội tàu ngầm 13 được điều về Hải đội Phòng vệ Kure từ ngày 15 tháng 11, Đến ngày 20 tháng 6, 1938, I-122 được cho xuất biên chế và đưa về thành phần dự bị 2 thuộc Quân khu Hải quân Kure. Chúng xuất phát từ Sasebo vào ngày 16 tháng 5, viếng thăm các vùng biển thuộc các quần đảo Caroline, Marshall và Mariana, trước khi kết thúc chuyến đi tại Yokosuka vào ngày 22 tháng 9, 1940. Tuy nhiên khi I-123 đi đến bãi cạn Frigate Pháp vào cuối tháng 5, nó phát hiện các tàu tiếp liệu thủy phi cơ Hoa Kỳ và đang cho hoạt động thủy phi cơ tại đây, nên Chiến dịch K-2 bị hủy bỏ.

Trận Midway diễn ra từ ngày 4 tháng 6, và sang ngày hôm sau I-122 đi đến một khu vực tuần tra mới để hỗ trợ cho các lực lượng Nhật Bản khác tham gia chiến dịch. Trận chiến kết thúc vào ngày 7 tháng 6 với một thất bại mang tính quyết định cho phía Nhật Bản, và họ phải hủy bỏ ý định chiếm đóng Midway. I-122 kết thúc chuyến tuần tra khi cùng I-121I-123 đi đến Kwajalein vào ngày 25 tháng 6. Sau đó nó quay trở về Yokosuka để sửa chữa vào khoảng cuối tháng 6 đến đầu tháng 7. Trong giai đoạn này Đội tàu ngầm 13 được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 7 trực thuộc Đệ Bát hạm đội vào ngày 14 tháng 7.

Chiến dịch Guadalcanal

Khởi hành từ Yokosuka vào ngày 16 tháng 7, I-122 ghé đến Truk từ ngày 24 đến ngày 31 tháng 7, rồi đi đến căn cứ hoạt động mới tại Rabaul trên đảo New Britain vào ngày 4 tháng 8. Chiến dịch Guadalcanal diễn ra từ ngày 7 tháng 8, khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi, đảo Florida, Gavutu và Tanambogo ở phía Đông Nam quần đảo Solomon. I-122 cùng với I-121 xuất phát từ Rabaul vào ngày này để trinh sát vùng biển ngoài khơi Guadalcanal và Tulagi. Vào ngày 9 tháng 8, nó bắt đầu trinh sát ngầm qua kính tiềm vọng Lungga Point tại bờ biển phía Bắc Guadalcanal và điểm neo đậu Lungga Roads ngoài khơi. Đến 17 giờ 30 phút ngày 13 tháng 8, nó trồi lên mặt nước cách Tulagi về phía Tây Nam và giương cao cờ Nhật Bản để cổ vũ tinh thần binh lính Nhật đang chiến đấu tại đây, nhưng bị hỏa lực đối phương từ phía hòn đảo, nên phải lặn xuống né tránh. Đến ngày 15 tháng 8, nó trinh sát Vanikoro thuộc quần đảo Santa Cruz, rồi tiếp tục hoạt động tại khu vực Đông Nam quần đảo Solomon cho đến sau Trận Đông Solomon vào các ngày 24 và 25 tháng 8. Chiếc tàu ngầm quay trở về Rabaul vào ngày 7 tháng 9.

Một thủy phi cơ trinh sát Aichi E13A xuất phát từ tàu tiếp liệu thủy phi cơ Chitose đã chuyển giao đến Rabaul những thiết bị cho hoạt động tiếp nhiên liệu trên biển, và I-122 đã tiếp nhận những thiết bị này. Nó khởi hành từ Rabaul vào ngày 9 tháng 9 để tiếp nhiên liệu cho các thủy phi cơ trong eo biển Indispensable. Chiếc tàu ngầm đã hoạt động ngoài khơi vùng đá ngầm Indispensable từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 20 tháng 9, bắn rơi một máy bay Đồng Minh trong eo biển Indispensable vào ngày [[15 tháng 9, trước khi được gọi quay trở lại Rabaul. Động cơ diesel của I-122 bị trục trặc bộ ly hợp lúc nó trên đường đi, nhưng con tàu về đến được Rabaul vào ngày 25 tháng 9, và nó được sửa chữa tại đây.

Sau khi hoàn tất việc sửa chữa động cơ, I-122 xuất phát từ Rabaul vào ngày 21 tháng 10 để tiếp tục tiếp nhiên liệu cho các thủy phi cơ tại vùng đá ngầm Indispensable. Nó hoạt động tại đây trong các ngày 26 và 27 tháng 10, rồi di chuyển đến khu vực tuần tra phía Tây Guadalcanal. Lúc 06 giờ 15 phút ngày 6 tháng 11, nó phát hiện một đoàn ba tàu vận tải Đồng Minh được một tàu tuần dương và năm tàu khu trục hộ tống về phía Tây Nam Malaita. Chiếc tàu ngầm tìm cách tấn công, nhưng bị các tàu hộ tống phát hiện và đánh đuổi. I-122 quay trở lại khu vực đá ngầm Indispensable vào ngày 8 tháng 11, và hoạt động tại đây từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 11. Nó quay trở về Rabaul vào ngày 16 tháng 11, nhưng lên đường ngay hôm đó để quay trở về Nhật Bản với một chặng dừng tại Truk từ ngày 20 đến ngày 27 tháng 11. Khi về đến Kure vào ngày 5 tháng 12, con tàu được đại tu.

1943

Chiến dịch New Guinea

Hoàn tất việc đại tu, I-122 di chuyển từ Kure đến Saeki, Hiroshima, trước khi khởi hành từ đây vào ngày 14 tháng 3, 1943, đi đến Rabaul vào ngày 25 tháng 3. Nó được phân công hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản đang tham gia Chiến dịch New Guinea, và đã thực hiện chuyến đi vận chuyển tiếp liệu đầu tiên đến Lae trên bờ biển phía Đông Bắc New Guinea, khi xuất phát từ Rabaul vào ngày 27 tháng 3. Khi đi đến Lae vào ngày 30 tháng 3, nó cho chất dỡ hàng tiếp liệu lên lên đường ngay ngày hôm đó cho chặng quay trở về, đến Rabaul vào ngày 31 tháng 3 hoặc 2 tháng 4. Chuyến đi thứ hai bắt đầu vào ngày 15 tháng 4, đúng vào ngày Hải đội Tàu ngầm 7 của nó được điều động trực thuộc Hạm đội Khu vực Đông Nam. Khi đi đến Lae vào ngày 18 tháng 4, nó chất dỡ 23 hoặc 23,5 tấn thực phẩm và đạn dược và đón lên tàu 15 thương binh và bệnh binh để đưa trở về Rabaul, đến nơi vào ngày 20 tháng 4.

Trong chuyến đi tiếp theo, I-122 rời Rabaul vào ngày 24 tháng 4, đi đến Lae vào ngày 26 tháng 4, nơi chất dỡ 23,5 tấn thực phẩm và đạn dược, rồi quay trở về Rabaul vào ngày 28 tháng 4. Nó lại xuất phát từ Rabaul vào ngày 2 tháng 5 và đi đến Lae vào ngày 4 tháng 5, vận chuyển được 23,5 tấn thực phẩm và đạn dược và di tản thêm 15 binh lính nữa khi về đến Rabaul vào ngày 8 tháng 5. Chuyến đi tiếp liệu thứ năm xuất phát từ Rabaul vào ngày 10 tháng 5, đi đến Lae vào ngày 12 tháng 5 và quay trở về Rabaul vào ngày 14 tháng 5. Chuyến thứ sáu bắt đầu từ Rabaul vào ngày 23 tháng 5, đi đến Lae vào ngày 25 tháng 5 và kết thúc tại Rabaul vào ngày 27 tháng 5. Vào ngày 31 tháng 5, Đội tàu ngầm 13 được giải thể, và I-122 cùng với I-121 được phối thuộc trực tiếp dưới quyền Bộ tư lệnh Hải đội Tàu ngầm 7.

Trong suốt tháng 6 và đầu tháng 7, I-122 tiếp tục thực hiện các chuyến đi tiếp liệu sang Lae. Nó rời Rabaul vào ngày 3 tháng 6, đi đến Lae vào ngày 5 tháng 6 và quay trở lại Rabaul vào ngày 7 tháng 6. Chuyến thứ tám xuất phát từ Rabaul 10 tháng 6, đi đến Lae vào ngày 12 tháng 6 và quay trở lại Rabaul vào ngày 14 tháng 6. Nó lại rời Rabaul vào ngày 21 tháng 6, đi đến Lae vào ngày 23 tháng 6 và quay trở lại Rabaul vào ngày 25 tháng 6. Chuyến thứ mười bắt đầu từ Rabaul 30 tháng 6, đi đến Lae vào ngày 2 tháng 7 và quay trở lại Rabaul vào ngày 4 tháng 7. Trong chuyến thứ mười một, cũng là chuyến cuối cùng, nó rời Rabaul vào ngày 7 tháng 7, đi đến Lae vào ngày 9 tháng 7 và quay trở lại Rabaul vào ngày 11 tháng 7.

Vào ngày 15 tháng 8, I-122 cùng với I-121 được điều động về Hải đội Phòng vệ Kure thuộc trực Quân khu Hải quân Kure. Nó rời Rabaul lần cuối cùng vào ngày 19 tháng 8 để hướng về Nhật Bản, đi đến Kure vào ngày 1 tháng 9.

1944 - 1945

I-122 cùng với I-121, vào lúc đó bị xem là đã lạc hậu, được rút khỏi hoạt động trên tuyến đầu và hoạt động như tàu huấn luyện tại Căn cứ Hải quân Kure. Vào ngày 1 tháng 12, 1943, cả hai được đưa vào thành phần Đội tàu ngầm 18 cùng với các tàu ngầm I-153, I-154I-155, vốn cũng đảm nhiệm vai trò huấn luyện. Vào ngày 5 tháng 1, 1944, I-122 tham gia một thử nghiệm sơ đồ ngụy trang do Trường Tàu ngầm Hải quân tiến hành trong biển nội địa Seto, nhằm xác định hiệu quả của sợ đồ ngụy trang khi quan sát ngang và từ trên không, hiệu quả của màu sắc nên nền biển, và khả năng đánh lừa một trinh sát viên đối phương về tốc độ và hướng đi của chiếc tàu ngầm. Nó cũng được đánh giá độ bền của loại sơn được sử dụng.

Vào ngày 31 tháng 1, 1944, I-122 cùng với I-121 được điều động sang Đội tàu ngầm 19 thuộc Hải đội Phòng vệ Kure hoặc Hải đội Tàu ngầm Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure, nhưng vẫn tiếp tục đảm nhiệm vai trò huấn luyện. Vào ngày 1 tháng 1, 1945, các tàu ngầm I-155, I-156, I-157, I-158, I-159, I-162, và I-165 cũng được đưa vào Đội tàu ngầm 19. Vào ngày 20 tháng 4, 1945, I-122 cùng với I-121 được điều sang Đội tàu ngầm 23 trực thuộc Hải đội Tàu ngầm Kure thuộc Quân khu Hải quân Kure. I-122 được đưa vào ụ tàu tại Căn cứ Hải quân Mazuru để sửa chữa từ ngày 28 tháng 5.

Bị mất

Lúc 11 giờ 45 phút ngày 9 tháng 6, dưới quyền chỉ huy của Đại úy Hải quân Mihara Sosaku, I-122 xuất phát từ Maizuru cho một chuyến đi huấn luyện trong vịnh Nanao trong biển Nhật Bản. Sang ngày hôm sau 10 tháng 6, nó quay trở lại căn cứ tại Nanao, và đang chạy zig-zag trên mặt nước trong vịnh Nanao với tốc độ , khi bị tàu ngầm Hoa Kỳ phát hiện lúc 11 giờ 20 phút. Đến 11 giờ 44 phút, Skate phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công từ khoảng cách , và hai quả trúng đích phía giữa tàu đã khiến I-122 chìm nhanh chóng ở vị trí về phía Đông Nam hải đăng Rokugo Misaki, tại tọa độ . Năm phút sau đó, Skate nghe thấy âm thanh chiếc tàu ngầm bị ép vỡ và một bọt nước lớn trồi lên mặt nước, tiếp nối bởi một lượng lớn dầu.

Trinh sát viên từ hải đăng chứng kiến I-122 bị đắm, nhưng phía Nhật Bản không nhận thức rằng tàu ngầm Hoa Kỳ đã xâm nhập được qua hàng phòng thủ biển Nhật Bản, nên cho rằng chiếc tàu ngầm bị đắm bởi ngư lôi của chính nó. Sau khi sự kiện được báo cáo, một thủy phi cơ Aichi M6A1 Seiran Hải quân được phái đến hiện trường để tìm kiếm những người sống sót, nhưng đã không tìm thấy ai. Skate đã nhìn thấy chiếc Aichi M6A1, nhưng chiếc thủy phi cơ đã không nhìn thấy đối phương.

I-122 bị mất với tổn thất toàn bộ thành viên thủy thủ đoàn. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 15 tháng 9, 1945.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
, nguyên là **_Tàu ngầm số 78_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-22_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-22_**: * _I-22_ (1926) là một tàu ngầm kiểu _Kiraisen_ (lớp _I-121_) hạ thủy năm 1926, đổi tên thành _I-122_
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-122_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1917, phục vụ trong Thế Chiến I và đầu hàng năm 1918
là một lớp tàu ngầm rải mìn của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, phục vụ từ giữa thập niên 1920 cho đến Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hải quân Nhật Bản gọi tên
**Tàu ngầm lớp Echo** là lớp tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình của Hải quân Liên Xô những năm 1960. Định danh của Liên Xô cho tàu ngầm đầu tiên thuộc loại
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _Breese_ (DD–122)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
Chiếc **Douglas B-18 Bolo** là một máy bay ném bom của Không lực Lục quân Hoa Kỳ và Không quân Hoàng gia Canada vào cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940. Chiếc **Bolo**
**Vũng Tàu** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa, du lịch, và là một
**USS _Leary_ (DD-158)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nhập biên chế vào năm 1919, nó tham
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**HMS _Electra_ (H27)** là một tàu khu trục lớp E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã chứng kiến
**HMHS _Britannic**_ là chiếc tàu thứ ba và cũng là lớn nhất trong ba con tàu hạng _Olympic_ của hãng tàu White Star Line, cùng hai chiếc tàu trước nó: RMS _Olympic_ và RMS _Titanic_.
**USS _Blakeley_ (DD–150)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**USS _Fiske_ (DD-842/DDR-842)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**BGM-109 Tomahawk** là loại tên lửa hành trình với nhiều biến thể, có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, được phóng đi từ các hệ thống phóng mặt đất, chiến hạm hoặc tàu ngầm
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Quảng Bình** là một tỉnh ven biển cũ nằm ở phía nam vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Đồng Hới. Nơi đây cũng là nơi
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Boeing B-17 Flying Fortress** **(Pháo đài bay)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Hoa Kỳ (USAAF) và được đưa vào sử dụng vào cuối
**Hải quân Cách mạng Cuba** () là lực lượng hải quân của Cuba. ## Lịch sử Hải quân Lập hiến Cuba là lực lượng hải quân của Cộng hòa Cuba tồn tại từ trước năm
là một trận động đất mạnh 9,0 MW ngoài khơi Nhật Bản xảy ra lúc 05:46 UTC (14:46 giờ địa phương) vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có vị trí chấn
phải|Trụ sở Tupolev **Tupolev** (tiếng Nga: **Туполев**) là một công ty hàng không và quốc phòng Nga. Tên chính thức của Tupolev là **Công ty cổ phần công cộng Tupolev**. Đây là công ty kế
**Chiến dịch Krym** hay theo cách gọi của người Đức là **Trận bán đảo Krym**, là một loạt các cuộc tấn công của Hồng Quân Liên Xô nhằm vào quân đội Đức để giải phóng
**Máy bay quân sự giữa hai cuộc chiến tranh thế giới** là các máy bay quân sự được phát triển và sử dụng trong khoảng thời gian giữa Chiến tranh thế giới I và Chiến
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**McDonnell Douglas F/A-18 Hornet** **(Ong vò vẽ)** là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết,
**Indonesia chiếm đóng Đông Timor** từ tháng 12 năm 1975 đến tháng 10 năm 1999. Sau thế kỷ cai trị của thực dân Bồ Đào Nha ở Đông Timor, một cuộc đảo chính năm 1974
Chiếc **Il-18** (Tên hiệu NATO: _Coot_) thứ hai là một máy bay chở khách động cơ tua bin cánh quạt tương tự chiếc Lockheed L-188 Electra. Là một trong những máy bay nổi tiếng nhất
phải|Đạn pháo 380mm trong [[Musée national de la Marine|Bảo tàng Hàng hải Quốc gia Pháp. Dùng cho 380mm/45 Modèle 1935 (Pháo bắn đạn xuyên phá 380mm tỉ lệ chiều dài nòng CaL 45)]] Ngày nay,
**Luân Đôn** (; ) là thủ đô kiêm thành phố lớn nhất của Anh (England) và của cả Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (UK). Luân Đôn được người La Mã lập ra
**Xe tăng T–34** là một xe tăng hạng trung sản xuất bởi Liên Xô từ năm 1940 đến năm 1958, chủ yếu được sử dụng trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (1941-1945). T-34 đã
thế=Một biển báo hiệu lệnh và một biển báo chỉ đường ở Đà Lạt, chụp năm 2011|nhỏ|Một biển báo hiệu lệnh và một biển báo chỉ đường ở [[Đà Lạt, chụp năm 2011]] Hệ thống
**Na Uy** (Bokmål: _Norge_; Nynorsk: _Noreg_), tên chính thức là **Vương quốc Na Uy**, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây
**Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh** còn được gọi là **"Chiến dịch Đường 9"** hay **"Trận Khe Sanh"**, là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam. Các tài
**Đại học George Mason** (tiếng Anh: _George Mason University_; gọi tắt: _Mason_ hoặc _GMU_) là một trường đại học nghiên cứu công lập nằm tại quận Fairfax, bang Virginia, Hoa Kỳ. Trường nằm ở phía
**Niue** (, ; tiếng Niue: _Niuē_) là một quốc đảo tự trị có liên kết tự do với New Zealand. Nó nằm ở Nam Thái Bình Dương và là một phần của Polynesia, và cư
**Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc** là chiến dịch giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước cửa ngõ Sài Gòn trong Cuộc tổng tấn công