✨I-156 (tàu ngầm Nhật)

I-156 (tàu ngầm Nhật)

I-56, sau đổi tên thành I-156, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã hỗ trợ cho các chiến dịch xâm chiếm Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942, rồi trong trận Midway vào tháng 6, 1942. Con tàu sau đó chủ yếu phục vụ cho việc huấn luyện, ngoại trừ một giai đoạn tham gia Chiến dịch quần đảo Aleut vào năm 1943, và đến năm 1945 được cải biến thành tàu chở ngư lôi tự sát Kaiten trước khi đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào cuối chiến tranh. Nó bị đánh chìm vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Phân lớp tàu ngầm Kaidai IIIB là sự lặp lại thiết kế của phân lớp Kaidai IIIA dẫn trước, chỉ có những cải tiến nhỏ để giúp đi biển tốt hơn. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài , mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Con tàu có thể lặn sâu và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 60 sĩ quan và thủy thủ.

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện . Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa khi nổi và khi lặn. Khi Kaidai IIIB di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .

Lớp Kaidai IIIA có tám ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và hai ống phía đuôi; mỗi ống mang theo một quả ngư lôi nạp lại, nên mang tổng cộng 16 ngư lôi. Chúng cũng trang bị một /45 caliber trên boong tàu.

Chế tạo

I-56 được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân Kure ở Kure, Hiroshima vào ngày 3 tháng 11, 1926. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 3, 1928, Đến ngày 1 tháng 12, 1931, Đội tàu ngầm 19 được điều động về Hải đội Phòng vệ Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure. Họ rời Cao Hùng vào ngày 13 tháng 7 để tiếp tục huấn luyện tại vùng biển Trung Quốc rồi quay trở lại vịnh Tokyo vào ngày 21 tháng 8. Đội tàu ngầm 19 lại được điều động về Hải đội Phòng vệ Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure từ ngày 15 tháng 11, 1934. Sau chuyến tuần tra mà không bắt gặp mục tiêu nào, I-56 quay về căn cứ tại vịnh Cam Ranh, Đông Dương thuộc Pháp vào ngày 20 tháng 12. Có nguồn cho rằng I-56 đã húc vào bè cứu sinh của Kwangtung và xả súng máy vào những bè khác, nên trong số 98 thủy thủ và 35 quân nhân trên tàu chỉ có 35 người sống sót được cứu vớt vào ngày hôm sau. I-156 hoạt động trên một tuyến tuần tra giữa và , vốn còn bao gồm các tàu ngầm I-157, I-158, I-159, I-162, I-165I-166. nó là tàu ngầm duy nhất bắt gặp đối phương trong trận chiến này.

1942 – 1943

Sau khi quay trở về Kwajalein vào ngày 20 tháng 6, I-156 lên đường hai ngày sau đó để quay trở về Kure, đến nơi vào ngày 30 tháng 6. Đến ngày 10 tháng 7, Hải đội Tàu ngầm 5 được giải thể và Đội tàu ngầm 19, bao gồm I-156, I-157, I-158I-159, được điều động sang Quân khu Hải quân Kure. I-156, I-157I-158 bắt đầu đảm nhiệm vài trò tàu huấn luyện cho Trường Tàu ngầm Kure.

Chiến dịch quần đảo Aleut

Vào ngày 21 tháng 5, 1943, Đại bản doanh Nhật Bản quyết định kết thúc Chiến dịch quần đảo Aleut và triệt thoái lực lượng khỏi đảo Kiska thuộc quần đảo Aleut. I-156 được huy động vào nhiệm vụ này, và tạm thời phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 1 cùng với các tàu ngầm I-2, I-7, I-21, I-24, I-34, I-36, I-155, I-157, I-168, I-169I-171. I-156 khởi hành từ Kure vào ngày 22 tháng 5, ghé đến Yokosuka từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 5, và tiếp tục đi đến Paramushiro ở phía Bắc quần đảo Kuril. Lúc đang trên đường đi, nó được điều động về Lực lượng Triệt thoái Kiska thuộc Lực lượng Quân khu Bắc của Đệ Ngũ hạm đội vào ngày 29 tháng 5.

I-156 đi đến Paramushiro vào ngày 1 tháng 6, và sau khi cùng với I-7, I-21, I-155I-157 được tiếp nhiên liệu từ tàu chở dầu Teiyō Maru, nó lên đường ba ngày sau đó để vận chuyển ba tấn đạn dược và hai tấn lương thực cho lực lượng đồn trú tại Kiska. Đi đến Kiska vào ngày 15 tháng 6, chiếc tàu ngầm ngay lập tức buộc phải lặn xuống né tránh một đợt không kích của máy bay Đồng Minh. Nó nổi trở lên mặt nước, chất dỡ hàng hóa và tiếp nhận 60 hành khách để đưa trở lại Paramushiro, đến nơi vào ngày 20 tháng 6. Nó lên đường vào ngày hôm sau để quay trở về Kure, đến nơi vào ngày 26 tháng 6. Hoàn thành nhiệm vụ triệt thoái Kiska, chiếc tàu ngầm được điều trở lại Quân khu Hải quân Kure vào ngày 28 tháng 6.

1943 – 1945

Tàu ngầm mang ngư lôi Kaiten

Đội tàu ngầm 19, bao gồm I-156, I-157, I-158I-159, quay trở lai vai trò huấn luyện tại Kure. Đến ngày 1 tháng 4, 1945, I-156 được điều sang Đội tàu ngầm 34 để hoạt động như một tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten. Con tàu được cải biến, tháo dỡ khẩu hải pháo trên boong tàu, và thay thế bằng các bộ gá để vận chuyển hai ngư lôi Kaiten. I-156 được sử dụng để vận chuyển ngư lôi Kaiten từ căn cứ hải quân Ōzushima trong biển nội địa Seto đến các căn cứ dọc bờ biển Kyūshū, và đã thực hiện ba chuyến đi trong giai đoạn từ tháng 5 đến tháng 8, 1945.

Trong tháng 7, 1945, thủy thủ đoàn của I-156, cùng với các chiếc I-157, I-158, I-159I-162, được huấn luyện để phóng ngư lôi Kaiten tấn công trong trường hợp lực lượng Đồng Minh tiến hành đổ bộ trực tiếp lên chính quốc Nhật Bản. Cho dù Thiên hoàng Hirohito đã công bố Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vô điều kiện vào ngày 15 tháng 8, I-155I-156 vẫn xuất phát từ Hirao vào ngày 25 tháng 8 trong thành phần Đội Kaiten Shinshu-tai để tấn công tàu bè Đồng Minh như kế hoạch ban đầu. Nhiệm vụ tự sát bị hủy bỏ và các tàu ngầm được gọi quay trở lại cảng. I-156 đầu hàng lực lượng Đồng Minh tại Kure vào ngày 2 tháng 9, và nó được rút tên khỏi đăng bạ vào ngày 30 tháng 11, 1945.

I-156 được kéo đến Sasebo để tháo dỡ mọi thiết bị hữu ích. Đến ngày 1 tháng 4, 1946, tàu tiếp liệu tàu ngầm Hoa Kỳ đã kéo nó từ Sasebo đến khu vực ngoài khơi quần đảo Gotō, nơi chiếc tàu ngầm bị đánh đắm bằng thuốc nổ trong khuôn khổ Chiến dịch Road's End. I-156 đắm tại tọa độ .

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-178_** (nguyên là **_tàu ngầm số 156_**, rồi **_I-78_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-57_**, sau đổi tên thành **_I-157_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-58_**, sau đổi tên thành **_I-158_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-56_**: * _I-56_ (1926) là một IIIA hạ thủy năm 1926, đổi tên thành _I-156_ năm 1942 và bị đánh
**Tàu ngầm Kiểu _Kaidai**_ (海大型潜水艦, _Kaidai-gata sensuikan_) là một lớp tàu ngầm hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tên lớp tàu
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
**Lớp tàu khu trục _Wickes**_ (từ DD-75 đến DD-185) là một nhóm 111 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong những năm 1917-1919. Cùng với 6 chiếc lớp _Caldwell_ dẫn trước
**Lớp tàu khu trục _Clemson**_ là một nhóm 156 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã phục vụ cho đến hết Chiến
**USS _Blakeley_ (DD–150)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**Lớp tàu frigate Captain** bao gồm 78 tàu frigate của Hải quân Hoàng gia Anh được chế tạo tại Hoa Kỳ và hạ thủy vào các năm 1942–1943. Chúng được chuyển giao cho Anh Quốc
Chiếc Douglas **A-1** (trước đây là **AD**) **Skyraider** (Kẻ cướp trời) là một máy bay ném bom cường kích một chỗ ngồi của Hoa Kỳ trong những năm 1950, 1960 và đầu những năm 1970.
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Trận bán đảo Kerch (1942)** là tổ hợp ba chiến dịch quân sự lớn của Hồng Quân Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã và quân chư hầu România tại bán đảo Kerch
Chiếc **Consolidated B-24 Liberator** **(Người giải phóng)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ Hoa Kỳ do hãng Consolidated Aircraft chế tạo. Nó được sản xuất với số lượng nhiều hơn
phải|Trụ sở Tupolev **Tupolev** (tiếng Nga: **Туполев**) là một công ty hàng không và quốc phòng Nga. Tên chính thức của Tupolev là **Công ty cổ phần công cộng Tupolev**. Đây là công ty kế
**Adelaide** () là thủ phủ và thành phố lớn nhất bang Nam Úc, và là thành phố lớn thứ 5 ở Úc. Vào tháng 6/2017, Adelaide có dân số ước tính là 1.333.927 người. Adelaide
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Máy bay quân sự giữa hai cuộc chiến tranh thế giới** là các máy bay quân sự được phát triển và sử dụng trong khoảng thời gian giữa Chiến tranh thế giới I và Chiến
**Chiến dịch Sa mạc Tây** hay **Chiến tranh Sa mạc** diễn ra tại Sa mạc Tây thuộc Ai Cập và Libya là giai đoạn đầu của Mặt trận Bắc Phi thuộc Chiến tranh thế giới
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
Ngày **4 tháng 6** là ngày thứ 155 (156 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 210 ngày trong năm. ## Sự kiện * 781 Trước Công nguyên – Vụ Nhật thực đầu tiên trong
**Hệ thống chiến đấu Aegis** do Hải quân Mỹ triển khai, được mệnh danh là hệ thống chiến đấu tiên tiến và phức tạp nhất thế giới. Aegis là sự kết hợp các thiết bị
**Đại học Công nghệ Quốc phòng Trung Quốc** (tên tiếng Anh: **National University of Defense Technology** (**NUDT**; ) trực thuộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc, là một trường đại học trọng điểm quốc gia
thumb|Mô phỏng máy tính của từ trường Trái Đất trong thời gian phân cực bình thường giữa các lần [[đảo cực địa từ . Các biểu diễn đường sức màu xanh lam ứng với trường
**Thảm họa đập Brumadinho** xảy ra vào ngày 25 tháng 1 năm 2019, khi một đập chất thải tại mỏ quặng sắt ở Brumadinho, Minas Gerais, Brazil, đã vỡ. Con đập thuộc sở hữu của
**Tam Sa** (, âm Hán Việt: Tam Sa thị) là một thành phố được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vào ngày 24 tháng 7 năm 2012 để quản lý một khu vực
Tháp nước Mannheim, biểu tượng của thành phố **Mannheim**, với dân số vào khoảng 320.000 người, là thành phố lớn thứ hai của bang Baden-Württemberg sau Stuttgart, nằm ở phía Tây nước Cộng hòa Liên
**Trận Caen** là một trận đánh trong trận Normandie lớn hơn giữa quân đội Vương quốc Anh mà ở đây cụ thể là Tập đoàn quân số 2 và Cụm Tập đoàn quân Tây (Tiếng
**Convair B-36 "Peacemaker"** là một kiểu máy bay ném bom chiến lược được chế tạo bởi hãng Convair cho Không quân Hoa Kỳ. B-36 là máy bay gắn động cơ piston lớn nhất từng được
**Sword**, hay **Bãi Sword**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune, mật danh của chiến dịch đổ bộ trong giai đoạn đầu của
**Lào Cai** trước đây là một thành phố biên giới phía bắc và là tỉnh lỵ của tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Từ 01/07/2025, thành phố chính thức kết thúc hoạt động và được tổ
**Vàng** hay **kim** là nguyên tố hóa học có ký hiệu **Au** (lấy từ hai tự mẫu đầu tiên của từ tiếng La-tinh _aurum_, có nghĩa là vàng) và số nguyên tử 79, một trong
**Heinkel He 162 _Volksjäger**_ (tiếng Đức, "Chiến binh của nhân dân") là một mẫu máy bay tiêm kích trang bị một động cơ phản lực của Đức Quốc Xã, được không quân Đức Quốc Xã
thumb|Bản đồ xuất khẩu của Qatar thumb|Bản đồ biểu diễn tài nguyên [[khoáng sản của Qatar.]] **Nền kinh tế Qatar** là một trong những nền kinh tế giàu nhất trên thế giới về GDP bình
là tiểu thuyết của nữ tác giả Kyoko Mizuki. Sau này, Yumiko Iragashi dựng nó thành bộ manga gồm 9 tập. Tác phẩm đã đoạt giải nhất của nhà xuất bản Kodansha về truyện tranh
nhỏ|[[Đại lộ Champs-Élysées]] **Du lịch Paris** là một trong những ngành kinh tế quan trọng không chỉ của thành phố Paris mà còn cả nước Pháp vì Paris được mệnh danh là trung tâm châu
**Chiến dịch Sao Hỏa** (_Oперация «Марс»_) là mật danh của **Chiến dịch phản công chiến lược Rzhev-Sychyovka lần thứ hai** do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm vào quân đội phát xít Đức trong
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam