✨Mặt trận Balkan (Thế chiến thứ nhất)

Mặt trận Balkan (Thế chiến thứ nhất)

Mặt trận Balkan (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay Chiến trường Balkan là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán đảo Balkan.

Lực lượng tham chiến gồm Serbia, Montenegro, Hy Lạp, Pháp, Anh, Ý, và Nga, (Entente - Hiệp ước) chống lại Áo-Hung, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgaria (Liên minh Trung tâm).

Diễn biến mặt trận Balkan chủ yếu qua một số chiến dịch: Chiến dịch Serbia (tháng 7 năm 1914 - tháng 11 năm 1915), Chiến dịch Thessaloniki (tháng 11 năm 1915 - tháng 9 năm 1918) và Chiến dịch România (tháng 8 năm 1916 - tháng 12 năm 1917).

Mặt trận Balkan bao phủ các vùng lãnh thổ rộng lớn của Balkan. Các trận chiến diễn ra trên lãnh thổ Serbia, Montenegro, Hy Lạp, Albania, Bulgaria và România. Chiến sự Balkan khởi đầu khi quân đội Áo-Hung giao tranh với quân đội Serbia và quân đội Montenegro. Quân Áo thất bại trong Chiến dịch năm 1914, không thể phá vỡ sự kháng cự của quân đội Serbia và hoàn thành mục tiêu đề ra. Cuối năm 1914, ở Balkan hình thành thế trận chiến hào. Mùa thu năm 1915, chỉ huy Áo-Đức lập nhóm quân xung kích ở Mặt trận Balkan và tấn công quân Serbia đang suy yếu. Bên phe Đức Áo-Hung, Bulgaria tham chiến tấn công Serbia từ phía đông. Tuy nhiên, khi đó, quân Anh-Pháp Entente đổ bộ vào Thessaloniki, (Hy Lạp), quân Serbia chạy tới Albania rồi di tản tiếp đến Corfu. Sau đó, lực lượng Serbia gia nhập phe Đồng minh ở Thessaloniki. Serbia và Montenegro bị chiếm đóng hoàn toàn. Montenegro rút khỏi chiến tranh. Mặt trận mới Thessaloniki ở Balkan được thành lập. Tháng 8 năm 1916, România đứng về phía Đồng minh nhưng bị quân Áo-Đức-Bulgaria đánh bại và chiếm đóng gần như toàn bộ lãnh thổ. Cho đến tháng 9 năm 1918, không có chiến sự đáng kể nào trên mặt trận Thessaloniki. Tháng 9 năm 1918, quân Entente - Anh, Serbia, Pháp và Hy Lạp (Hy Lạp tham chiến bên phe Hiệp ước từ năm 1917) tấn công quy mô lớn khiến Bulgaria hứng chịu thất bại quyết định. Ngày 29 tháng 9, Bulgaria ký hiệp định đình chiến với các cường quốc Entente. Chiến tranh thế giới thứ nhất ở Balkan chấm dứt.

Trước chiến tranh

Bối cảnh

Balkan thường được coi là "thùng thuốc súng" của châu Âu. Vào thế kỷ 15, bán đảo Balkan bị chiếm và sáp nhập vào Đế quốc Ottoman. Thổ Nhĩ Kỳ thiết lập nền thống trị trên các dân tộc bản địa trong nhiều thế kỷ. Các cuộc nổi dậy giải phóng dân tộc đã nổ ra trên lãnh thổ châu Âu của Đế quốc Ottoman.

Đến giữa thế kỷ 19, vùng Balkan bắt đầu hình thành các quốc gia độc lập như Serbia, Hy Lạp, România và Bulgaria. Sau khi giành được quyền tự chủ và độc lập, các nước Balkan non trẻ có kẻ thù chung mới. Đế quốc Áo-Hung, vốn đang tìm cách thiết lập quyền bá chủ ở vùng Balkan, là mối đe dọa đối với các quốc gia non trẻ này. Đế quốc Nga ủng hộ nền độc lập các quốc gia này, và Liên minh Balkan được thành lập để đối trọng với Áo. Liên minh bao gồm Bulgaria, Hy Lạp, Serbia và Montenegro. Tuy nhiên, Liên minh Balkan bắt đầu xung đột với Thổ Nhĩ Kỳ, nơi có nhiều người Serb, Bulgaria và Hy Lạp cùng sinh sống. Cuối cùng, Liên minh đã tìm cách "trục xuất" được Thổ Nhĩ Kỳ khỏi bán đảo Balkan.

phải|nhỏ| Bản đồ xuất bản năm 1914 cho thấy các vùng lãnh thổ tranh chấp trên [[Bán đảo Balkan - "thùng bột của châu Âu". Sự phân định biên giới theo Hội nghị Luân Đôn trước chiến tranh (trên) và biên giới cuối cùng sau Chiến tranh Balkan lần thứ hai theo Hòa ước Bucharest (dưới)]]

Ngoài ra, các nước Balkan muốn mở rộng lãnh thổ khi Đế quốc Ottoman bị suy yếu. Bulgaria thâu tóm toàn bộ phía đông bán đảo Balkan. Serbia muốn tiếp cận biển Adriatic để sáp nhập Macedonia và Albania. Montenegro cố gắng chiếm các cảng lớn của Thổ Nhĩ Kỳ ở Adriatic và sanjak Novopazarskiy. Hy Lạp cũng tìm cách mở rộng biên giới.

Những mâu thuẫn này dẫn đến Chiến tranh Balkan lần thứ nhất, trong đó Liên minh Balkan có thắng lợi quyết định trước Đế quốc Ottoman. Tất cả vùng lãnh thổ châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ, ngoại trừ Istanbul và vùng phụ cận, đều bị Liên minh Balkan kiểm soát.

Tuy nhiên lại xảy ra tranh chấp giữa các nước thành viên về những vùng lãnh thổ được giải phóng. Serbia và Bulgaria đồng thời tuyên bố chủ quyền trên Macedonia, Hy Lạp và Bulgaria lần lượt tranh cãi về Thracia, România ra yêu sách lãnh thổ với Bulgaria. Những mâu thuẫn giữa các nước chiến thắng nhanh chóng leo thang thành Chiến tranh Balkan lần thứ hai, trong đó Serbia, Hy Lạp, Montenegro rồi sau đó là România và Đế quốc Ottoman nhanh chóng đánh bại Bulgaria. Kết quả của Chiến tranh Balkan lần thứ hai là Macedonia bị Hy Lạp và Serbia chia cắt, Thổ Nhĩ Kỳ giành lại phần nhỏ lãnh thổ Châu Âu, còn România chiếm được Nam Dobrudja.

Năm 1908 - 1909 xảy ra cuộc khủng hoảng Bosnia. Trong bối cảnh đó, Đế quốc Áo-Hung, vốn đang cố gắng khẳng định bá quyền tại Balkan, với sự hỗ trợ của Đế quốc Đức, đánh chiếm rồi sáp nhập Bosnia và Hercegovina. Serbia cũng tuyên bố chủ quyền với Bosnia để tìm cách tiếp cận biển Adriatic và thâu tóm các vùng có người Serb sinh sống (một số lượng lớn người Serb sống ở Bosnia). Ngoài ra, Beograd e ngại rằng sau Bosnia, Áo-Hung sẽ sáp nhập cả Serbia.

Tuy nhiên, Áo-Hung cố gắng để được quốc tế công nhận việc sáp nhập Bosnia là hợp pháp. Đế quốc Nga bị cô lập giữa Áo và Đức hiếu chiến nên buộc phải công nhận điều này và Serbia cũng vậy. Nỗi phẫn uất vì thất bại ngoại giao tiếp tục âm ỉ trong một thời gian dài ở cả Beograd và Sankt-Peterburg. Serbia không chịu nổi việc sáp nhập này, tổ chức khủng bố Bàn tay đen xuất hiện ở Serbia nhằm mục đích "thống nhất" Bosnia với Serbia.

Đồng thời, Áo-Hung lo sợ mất Vojvodina, Bosnia và các vùng lãnh thổ khác, nơi có nhiều người Serb sinh sống. Ở Serbia, sau hai cuộc chiến tranh Balkan thành công, vị trí của nhóm cấp tiến được củng cố. Các sĩ quan cấp tiến từ tổ chức Bàn tay đen đã thực sự nắm quyền. Serbia ủng hộ các tổ chức bí mật hoạt động ở Áo, gây bất ổn tình hình ở các vùng Slav thuộc Áo. Ngoài ra, vào năm 1913, bất chấp tình hình quốc tế khó khăn, quân Serbia tiến vào lãnh thổ Albania. Trong cuộc khủng hoảng Albania, Serbia rút quân dưới áp lực của cộng đồng quốc tế. Trước những hành động gây hấn này, Áo-Hung muốn lấy cớ tuyên chiến với Serbia.

Vì vậy, nguyên nhân chiến tranh là sự cạnh tranh giữa Serbia và Áo-Hung nhằm giành quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ Nam Slav.

Vụ ám sát tại Sarajevo

Serbia không đồng ý với việc Áo sáp nhập Bosnia. Các tổ chức chủ nghĩa dân tộc bí mật bắt đầu xuất hiện ở Serbia với nhiệm vụ giải phóng Bosnia, nơi có đông đảo người Serb sinh sống, khỏi "ách thống trị của Áo". Trong số các tổ chức này nổi bật nhất là Bàn tay đen. Tổ chức "Mlada Bosna" (Млада Босна - Bosnia trẻ) hoạt động trên lãnh thổ Bosnia cũng đặt nhiệm vụ thống nhất Bosnia với Serbia.

phải|nhỏ| [[Gavrilo Princip]] trái|nhỏ| [[Franz Ferdinand của Áo|Thái tử Franz Ferdinand]]

Cuối tháng 6 năm 1914, người thừa kế ngai vàng Áo-Hung, Thái tử Ferdinand cùng với vợ là Sofia đến Sarajevo, thủ phủ Bosnia, để thị sát tập trận và mở một viện bảo tàng. Ferdinand được coi là người ủng hộ chủ thuyết Liên bang Đại Áo - ý tưởng biến chế độ quân chủ kép Áo-Hung thành tam chế Áo-Hung-Slav. Một vương quốc Slav thứ ba sẽ là mối đe dọa nghiêm trọng đối với Serbia. Mlada Bosna đề ra nhiệm vụ ám sát Ferdinand trong chuyến thăm Sarajevo. Có sáu người lên kế hoạch thực hiện vụ ám sát này.

Ngày 28 tháng 6 năm 1914, Franz Ferdinand đến Sarajevo bằng tàu hỏa theo lời mời của Toàn quyền Bosnia Oskar Potiorek. Đoàn xe gồm sáu chiếc rời ga hướng về trung tâm thành phố. Một thành viên đội ám sát Nedelko Chabrinovich ném trượt lựu đạn vào xe thái tử và bị cảnh sát bắt. Âm mưu ám sát dường như đã thất bại. Sau bài phát biểu tại tòa thị chính, Franz Ferdinand bày tỏ mong muốn đến bệnh viện thăm những người bị thương trong vụ ám sát bất thành. Tài xế đi nhầm đường, khi được thông báo đã từ từ quay đầu xe. Đúng lúc ấy, một thành viên đội ám sát khác là Gavrilo Princip phát hiện ra chiếc xe chở thái tử và vương phi, chạy đến và dùng súng lục bắn vào ô tô: phát đầu tiên trúng vương phi, phát tiếp theo trúng Ferdinand. Princip bị đám đông vây bắt và đánh đập dã man (sau này phải cắt cụt tay).

Ngay sau vụ ám sát, Sarajevo nổ ra cuộc thanh trừng người Serb. Tất cả sáu người chủ mưu bị bắt. Trong quá trình thẩm vấn, một thành viên khai rằng chính phủ Serbia cung cấp vũ khí cho vụ ám sát. Điều này đã dẫn đến việc nhà chức trách Áo buộc tội Serbia giúp đỡ và hỗ trợ những kẻ khủng bố.

Khủng hoảng tháng bảy

Quay trở lại năm 1913, Áo-Hung cố gắng tiến hành chiến tranh chống lại Serbia nhằm loại bỏ kẻ thù chính đe dọa sự thống trị của Áo ở Balkan, nhưng lại không đủ lý do để tuyên chiến. Vụ ám sát Thái tử Ferdinand là cơ sở cho Áo thực hiện điều này. Một ngày sau vụ ám sát, Ngoại trưởng Áo Berchtold viết thư cho Thủ tướng Hungary Bá tước Tisza về ý định "dùng tội ác Sarajevo để xử lý Serbia". Hoàng đế Áo Franz Joseph I tranh thủ sự ủng hộ từ đồng minh chính của mình là Đức. Ngày 5 tháng 7, hoàng đế Đức Wilhelm II đảm bảo rằng Berlin sẽ ủng hộ Vienna. Ngày 19 tháng 7, chính phủ Áo cuối cùng đã quyết định chiến tranh với Serbia.

Ngày 23 tháng 7, Áo-Hung đưa ra tối hậu thư 10 điểm yêu cầu Serbia phản hồi trong 48 giờ. Các điểm tối hậu thư hoàn toàn không thực tế và được soạn thảo theo cách Serbia chắc chắn sẽ không đáp ứng như yêu cầu làm nhục quốc thể, từ đó làm bùng phát các hành động thù địch. Đoạn thứ năm tối hậu thư có nội dung: "Cho phép các cơ quan nhà nước Đế quốc Áo-Hung hoạt động trên lãnh thổ của Serbia để trấn áp bất kỳ hoạt động chống Áo nào." Điều này đã vi phạm chủ quyền và Hiến pháp Serbia.

Phía Serbia chấp nhận tối hậu thư (có bảo lưu điểm thứ năm) ngoại trừ điểm thứ sáu, cụ thể là từ chối đại diện của Áo tham gia điều tra vụ ám sát Sarajevo. Việc khước từ một điểm được Áo coi như bác bỏ toàn bộ tối hậu thư. Đại sứ Áo-Hung rời Beograd đồng nghĩa với việc cắt đứt quan hệ ngoại giao. Đế quốc Nga thực hiện một số nỗ lực thuyết phục Áo đàm phán dựa trên phản ứng của Serbia. Anh, Pháp và Ý đề nghị Vienna đưa vấn đề này ra thảo luận tại hội nghị tứ cường. Nhưng Áo thẳng thừng từ chối. Hoàng thân nhiếp chính Serbia Aleksandar I kêu gọi Hoàng đế Nga Nikolai II ủng hộ và nhận được đảm bảo Nga sẽ không để Serbia gặp khó khăn.

Sau khi bác bỏ các đề nghị hoà bình, ngày 28 tháng 7 năm 1914, Áo-Hung tuyên chiến với Serbia. Ngày 29 tháng 7, Nikolai II ra lệnh tổng động viên ở Nga. Đức yêu cầu Đế quốc Nga ngừng chuẩn bị quân sự. Ngày 30 tháng 7, trong nỗ lực cuối giữ hòa bình, Nikolai II hủy bỏ tổng động viên nhưng Áo-Hung vẫn kiên quyết bác bỏ đề nghị đàm phán. Ngày 31 tháng 7, Franz Joseph I ký sắc lệnh tổng động viên ở Áo-Hung.

Đức tuyên chiến với Nga ngày 1 tháng 8 năm 1914, với Pháp ngày 3 tháng 8. Ngày 4 tháng 8, Đế quốc Anh tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu.

Đặc điểm chiến trường Balkan

Chiến trường Balkan bao gồm các lãnh thổ của Montenegro, Albania, Serbia và một phần của Bulgaria và Hy Lạp. Giới hạn phía bắc là sông Sava và sông Danube, phía đông là đường Lom-Palanka, Sofia, Kavála, ở phía nam là biển Aegea từ Kavála đến vịnh Thessaloniki, còn phía tây là biển Adriatic. Chiến trường trải dài 400 km và rộng 300 km.

Địa hình chính là đồi núi, chỉ có đồng bằng nhỏ hẹp ven sông và bờ biển. Phía tây có những ngọn núi khá cao tới 2600 m. Phần trung tâm của mặt trận (lãnh thổ Serbia) là vùng núi có độ cao 1000–1500 m. Phía tây Sofia, dãy núi Balkan có độ cao 2400 m.

Với mặt trận Serbia từ sông Drina đối đầu Áo-Hung hoặc từ sông Timok đối địch Bulgaria, các chân núi tạo thành một loạt mũi nhọn theo hướng nam-bắc đến sông Danube cho phép quân đội Serbia tạo nên các tuyến phòng thủ chủ động. Các khu vực khó tiếp cận nhất của mặt trận là phía đông và phía tây. Do đó, hoạt động chính sẽ phát triển theo hướng trung tâm đến Beograd và Thessaloniki.

Các con sông quan trọng nhất trên mặt trận Balkan là sông Danube cùng phụ lưu Sava và Drina. Sông Danube gần Beograd có chiều rộng 1500–1900 m, độ sâu tới 14 m nên rất khó vượt qua. Bờ sông Danube và sông Sava phía Serbia đều rất thuận tiện cho việc phòng thủ tích cực gần 400 km. Phần trung tâm mặt trận có những sông nhỏ hơn là Morava, Vardar và Struma.

Như vậy, do tính chất đồi núi, đường liên lạc quá xa, thiếu lương thực, thiếu đạn dược nên hoạt động diễn ra trong điều kiện khó khăn. Ngoại trừ một số khu vực gần bờ biển Aegea, vùng tác chiến là đồi núi. Vùng chiến sự nghèo nàn nên phải dựa vào nguồn quân lương đưa từ bên ngoài vào. Ngoài ra, do không có ngành công nghiệp quân sự nên Serbia phải phụ thuộc vào đồng minh và liên tục yêu cầu cung cấp vũ khí, đạn dược, quân phục và thuốc men.

Lực lượng và kế hoạch các bên

Lực lượng

Áo-Hung

Chuẩn bị đánh Serbia, Đế quốc Áo-Hung huy động 239,5 tiểu đoàn và 37 phi đội, 516 pháo và 392 súng máy. Oskar Potiorek được cử làm tổng tư lệnh các lực lượng Áo-Hung ở Balkan.

  • Tập đoàn quân số 2 (chỉ huy Eduard von Böhm-Ermolli) - dọc theo sông Sava và sông Danube (ở cả hai phía Beograd; không tham gia chiến sự Balkan và được chuyển đến Galicia với hầu hết vũ khí)
  • Tập đoàn quân số 5 (chỉ huy Liborius von Frank) - dọc theo tả ngạn sông Drina trước khi đổ vào sông Sava (80.000 quân)
  • Tập đoàn quân số 6 (chỉ huy Oskar Potiorek) - ở Bosnia, giữa Sarajevo và biên giới Serbia (60.000 quân)

Tổng số: 200.000 quân

Serbia

Serbia triển khai bốn tập đoàn quân, gồm 247.000 quân và 610 pháo (40 trọng pháo, 180 khẩu cũ) và hơn 246 súng máy. Hoàng thân nhiếp chính Aleksander I trở thành Tổng tư lệnh quân đội Serbia, nhưng trên thực tế, chỉ huy là Tổng tham mưu trưởng Tướng Radomir Putnik.

  • Tập đoàn quân số 1 (do tướng Petar Bojović chỉ huy) - quân chủ lực tập trung ở khu vực Palanka, Racha, Topola.
  • Tập đoàn quân số 2 (do tướng Stepa Stepanović chỉ huy) - tập đoàn quân cơ động được triển khai tại khu vực Beograd.
  • Tập đoàn quân số 3 (do tướng Pavle Jurišić Šturm chỉ huy) - tập đoàn quân cơ động được triển khai tại khu vực Valjevo.
  • Tập đoàn quân Užice (do tướng Miloš Božanović chỉ huy) - kiểm soát thung lũng Thượng Morava từ phía tây và thông với Montenegro.

Montenegro

Montenegro triển khai 45.000-60.000 quân, 100 pháo dã chiến và 100 sơn pháo. Quân đội Montenegro do vua Montenegro Nikola I chỉ huy, tướng Serbia Božidar Janković làm tổng tham mưu trưởng.

  • Sư đoàn Pljevlja (do tướng Luka Goinich chỉ huy) - nằm ở phía đông Pljevlja.
  • Sư đoàn Hercegovina (do Serdar Janko Vukotić chỉ huy) - triển khai trên biên giới Hercegovina.
  • Sư đoàn Lovcen (do Mitia Martinovich chỉ huy) - trong khu vực Lovcen.
  • Sư đoàn "Staraya Serbia" (do Chuẩn tướng Radomir Vesovic chỉ huy) - triển khai ở biên giới Albania.

Tổng số Serbia và Montenegro: 300.000 quân

Kế hoạch và triển khai quân

Kế hoạch tấn công ban đầu vào Serbia được Bộ chỉ huy Áo-Hung đưa ra bằng việc triển khai ba tập đoàn quân. Mục tiêu là xâm lược Serbia và Montenegro đồng thời tiêu diệt quân đội Serbia. Tuy nhiên, Đức yêu cầu Áo-Hung tập trung lực lượng chống lại Đế quốc Nga. Trong điều kiện đó, Áo-Hung vội chuyển Tập đoàn quân số 2 (190.000 quân) đến Đông Galicia chiến đấu với quân Nga.

nhỏ|Tư lệnh [[quân Áo-Hung tướng Oskar Potiorek]]

Vì lý do này, tướng Potiorek chỉ huy lực lượng Áo-Hung tại Balkan đã thông qua kế hoạch tấn công mới nhằm vào Serbia và Montenegro. Quân đoàn 7 ở hạ lưu Sava thực hiện các hoạt động đánh lạc hướng. Đòn tấn công quyết định từ Drina sẽ do các quân đoàn 4, 8, 13 và một phần quân đoàn 15, 16 đảm trách. Phần còn lại của quân đoàn 15 và 16 sẽ triển khai đương đầu với quân đội Montenegro. Quân đoàn 9 đóng dự bị. Có được mạng lưới đường sắt tốt ở Banat, Bộ chỉ huy Áo-Hung có thể triển khai quân chủ lực đánh chiếm Beograd và tiến sâu vào Serbia theo hướng trung tâm, dọc theo các thung lũng sông Kolubara và Morava để chiếm lấy "kho vũ khí" chính là Kragujevac. Nhược điểm của kế hoạch là quân Áo-Hung sẽ phải vượt qua các phòng tuyến khó khăn tại sông Danube và sông Sava. Phương án thứ hai là tấn công từ phía sông Drina sẽ hành quân thuận tiện hơn. Nếu thực thi, quân Áo sẽ che được hai bên sườn và giảm nguy cơ bị kẹp từ hai phía. Tuy nhiên, trong khu vực Drinska, đường xấu và địa hình đồi núi thuận lợi cho người Serb phòng thủ.

trái|nhỏ|Chỉ huy Lực lượng Serbia Thống chế [[Radomir Putnik]]

Sau Chiến tranh Balkan, các lực lượng vũ trang Serbia được tổ chức lại hoàn toàn, số sư đoàn tăng từ 5 lên 10. Vào đầu chiến tranh, Serbia có thể triển khai 12 sư đoàn bộ binh và một sư đoàn kỵ binh chia thành bốn tập đoàn quân. Kế hoạch của Bộ chỉ huy Serbia đưa ra hai lựa chọn:

  • Đánh Áo-Hung;
  • Liên minh Nga đánh Áo-Hung

Quân đội Serbia bắt đầu triển khai bốn tập đoàn quân: thứ nhất phòng ngự dọc bờ sông Danube, thứ nhì tập trung tại Beograd, thứ ba bố trí ở khu vực Valjevo, thứ tư bố trí tại Thượng Morava và liên kết với quân Montenegro. Như vậy, trong số 12 sư đoàn bộ binh và một sư đoàn kỵ binh, tám sư đoàn cơ động nhận nhiệm vụ bảo vệ các tuyến phòng thủ tự nhiên dựa trên sông Danube, sông Sava và sông Drava, các sư đoàn còn lại phụ trách phòng tuyến tự nhiên phía Bulgaria là sông Timok, sông Morava và sườn núi nằm giữa hai nhánh sông. Do Áo đe dọa từ phía bắc (sông Danube và sông Sava) lẫn phía tây (sông Drina), quân đội Serbia phải đón đánh ở cả hai hướng, tập trung tập đoàn quân cơ động gồm 8 sư đoàn ở giữa để đề phòng bị kẹp từ hai phía.

Khi biết Áo-Hung đang phải đối đầu trên hai mặt trận (Serbia và Nga), Bộ chỉ huy Serbia không loại trừ khả năng sẽ mở cuộc tấn công ở sông Sava và Kolubara gần Šabac. Ngày 9 tháng 8, tư lệnh Tập đoàn quân Serbia số 2 thậm chí còn được lệnh tiến hành trinh sát khu vực này. Tuy nhiên, những nỗ lực của quân đội Serbia tiến đánh Srem và Bosnia đều bất thành.

Quân đội Serbia có nguồn nhân lực và vật lực hạn chế, tối đa chỉ có thể huy động 247.000 quân. Tuy thua kém quân Áo về quân số, Serbia lại có vị trí thuận lợi.

Montenegro triển khai 6.000 quân tại sanjak Novopazar, 29.000 quân dọc theo biên giới phía tây với Áo-Hung, trong khi giữ quân chủ lực lại trong nước.

Bố trí quân hợp lý cùng tác chiến du kích dã chiến nên tuy bị xa cách đồng minh và thiếu hụt vật tư đạn dược, quân Serbia và Montenegro vẫn kháng cự được Áo-Hung trong thời gian dài.

Vũ trang

Quân đội Serbia không có đủ thời gian để phục hồi sau hai cuộc chiến tranh Balkan như bổ sung đạn dược hay mua vũ khí mới. Bộ binh Serbia được trang bị súng trường Mauser cỡ 7 × 57 mm. Vũ khí, đạn dược và vật tư khác thiếu hụt trầm trọng. Nhiều loại pháo đã lỗi thời nhưng quân đội Serbia vẫn có 48 trọng pháo. Serbia cũng không có không quân và hải quân hay phát triển ngành công nghiệp quốc phòng.

Serbia được cung cấp trang bị vũ khí tốt hơn Áo-Hung. Cũng giống như các quân đội châu Âu khác, vũ khí và đạn dược Serbia đủ dùng cho 3-4 tháng chiến tranh. Đến ngày 16 tháng 8 năm 1914, Đế quốc Nga chi viện 93 triệu băng đạn và 113 nghìn súng trường. Quân Áo chiếm ưu thế hoàn toàn về việc tổ chức quân đội như bố trí sở chỉ huy, quản lý hậu phương, đóng quân, thông tin liên lạc giữa các đơn vị. Về quân y và các lực lượng đặc nhiệm cũng vậy.

Bộ binh Montenegro được trang bị súng trường Mosin. Giống như Serbia, Montenegro không có không quân và ngành công nghiệp quân sự. Song Montenegro lại có khoảng 100 sơn pháo, rất quan trọng với điều kiện chiến sự trên núi. Montenegro cũng không có hạm đội nào nên từ những ngày đầu tiên, hạm đội Áo đã dễ dàng phong tỏa bờ biển Montenegro.

Bộ binh Áo thua kém bộ binh các nước Balkan về trang bị kỹ thuật, thậm chí còn không có quân phục bảo vệ. Bộ binh Áo-Hung được trang bị súng trường Mannlicher 1895, súng lục Rota. Súng máy là loại Schwarzlose. Tuy nhiên, quân đội Áo có máy bay và hạm đội Áo hoàn toàn đảm bảo việc phong tỏa bờ biển Montenegro cũng như hỗ trợ bộ binh trong các cuộc hành quân ven biển. Ngoài ra còn có một đội tàu nhỏ hoạt động trên sông Danube. Quân Áo tập trung một lượng lớn pháo binh nhưng sơn pháo đã lỗi thời. Áo-Hung có ngành công nghiệp quốc phòng riêng nên trong suốt chiến tranh không hề bị thiếu đạn dược. Tuy nhiên, pháo binh Áo-Hung tham chiến chỉ với 500 viên đạn mỗi khẩu, khác biệt lớn so với pháo binh các nước khác. Ngay từ những trận đánh đầu tiên đã bị hết đạn pháo và tình trạng này kéo dài suốt cuộc chiến dù đã nỗ lực sản xuất và vận động cả công nghiệp dân sự tham gia. Nói chung, pháo binh Áo-Hung chắc chắn thiếu đạn pháo so với các nước khác.

Diễn biến năm 1914

Khơi mào chiến sự

trái|nhỏ|Quân đội Áo dưới hỏa lực của pháo binh Serbia Chiến sự trên Mặt trận Balkan bắt đầu vào ngày 28 tháng 7 năm 1914. Ngay sau khi tuyên chiến, pháo binh Áo và hạm đội Danube của hải quân Áo-Hung bắt đầu pháo kích vào Beograd. Sau khi tập trung đủ binh lực, Áo tổng tấn công vào ngày 12 tháng 8. Ở sườn bắc, Tập đoàn quân số 2 của Áo chưa kịp tham chiến đã bị điều về Galicia ở Mặt trận phía Đông. Ngày 15 tháng 8, quân Áo chiếm Šabac. Chủ lực Tập đoàn quân số 5 và số 6 dựng cầu vượt sông Drina. Quân Áo mất bốn ngày để vượt sông Drina.

Khi ấy, các Tập đoàn quân số 2 và số 3 của Serbia đang tiến về phía quân Áo-Hung. Ngày 16 tháng 8, giao tranh diễn ra tại làng Slatina ở Šabac. Quân đội Serbia cầm chân và đánh bật các đơn vị Áo-Hung. Tập đoàn quân số 3 Serbia chiến đấu ngoan cường nhưng phải rút lui ở một số vị trí. Trong những ngày kế tiếp, phía Serbia bổ sung các đơn vị còn lại và phá vỡ quân Áo-Hung tại Loznica. Áo-Hung lâm vào tình thế bất lợi và phải rút lui trên toàn mặt trận vào ngày 19 tháng 8. Đồng thời Áo-Hung phải hoãn tấn công để điều chuyển các đơn vị của Tập đoàn quân số 2 tới Galicia.

Ngày 20 tháng 8, quân Serbia bắt đầu truy đuổi quân Áo-Hung đang rút lui. Ở vài nơi, hậu quân Áo đã kìm chân được Serbia nhưng một số vị trí từ rút lui biến thành tháo chạy. Ngày 24 tháng 8, quân Áo-Hung bị đánh lui về sông Sava và sông Drina. Quân Serbia bắt được 50.000 tù binh, 50 pháo, 150 băng đạn, một lượng đáng kể súng trường, xe kéo, quân trang và lương thực. Quân Serbia đã đẩy lùi được đợt tấn công đầu tiên của Áo-Hung. Tuy vậy, Serbia cũng chịu tổn thất đáng kể trong trận này, bị loại khỏi vòng chiến 15.000 quân.

Chiến thắng Cer có tầm quan trọng chiến lược đối với Entente. Trong lúc diễn ra những giao tranh ác liệt tại Galicia thì một số đơn vị của Tập đoàn quân Áo số 2 của Áo vẫn đang bị cầm chân ở Balkan, góp phần dẫn tới phòng tuyến Áo tại Galicia sụp đổ.

Chiến sự tiếp diễn

phải|nhỏ|319x319px|Tình hình ở mặt trận Serbia trước khi quân đội Serbia phản công

Sau thất bại tại Cer, quân Áo bắt đầu chuẩn bị cho cuộc tấn công thứ nhì. Quân Serbia cố gắng tiến hành tấn công nhưng tại Mitrovica, Zemun và Sarajevo buộc phải lùi về vị trí ban đầu. Sau khi tập hợp lại lực lượng, ngày 7 tháng 9, Áo-Hung phát động một cuộc tấn công mới nhằm vượt qua quân Serbia từ mặt tây nam.

Đêm 8 tháng 9, quân Áo định vượt Sava nhưng ngay lập tức bị quân Serbia chặn lại. Sau những trận giao tranh ác liệt, quân Áo dù nỗ lực nhưng không thành công. Ở sườn nam, quân Áo định chiếm các rặng núi ở hữu ngạn sông Drina nhưng quân Serbia chống trả quyết liệt. Áo-Hung duy trì tấn công cho đến ngày 6 tháng 11, quân Serbia buộc phải rút lui do thiếu đạn dược.

Ngày 7 tháng 11, dưới mối nguy bị tràn ngập, quân Serbia rút về tuyến phòng thủ mới. Ngày 14 tháng 11, quân Áo chiếm Valjevo. Đồng thời, quân Áo cố gắng tập trung đánh vào thung lũng Morava nhưng sáu tiểu đoàn Áo-Hung vượt sông Danube tại Smederevo đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân Áo-Hung trên lãnh thổ Serbia bắn giết và gây tội ác với dân thường.

Như vậy, dù quân Serbia chống cự quyết liệt, quân Áo vẫn tiến lên và gây sức ép lên Drina. Dưới áp lực đe dọa bị bao vây cũng như thiếu thốn đạn dược, súng ống, quân trang (lính Serbia thiếu cả giày), quân Serbia bắt đầu rút về các tuyến phòng thủ mới kết hợp xen kẽ phản công.

Tháng 10 năm 1914, các thành viên VMRO bắt đầu chiến tranh du kích trên phần lãnh thổ Serbia chiếm được từ Vardar Macedonia trong Chiến tranh Balkan lần thứ hai. Tháng 11 năm 1914, VMRO ở Macedonia thuộc Serbia hoạt động rất mạnh. Quân Serbia đáp trả bằng các hành động trừng phạt lên dân thường. Komitaji Bulgaria chỉ hoạt động trên phần lãnh thổ do Serbia chiếm đóng mà không động đến phần của Hy Lạp chiếm đóng để ngăn Hy Lạp lấy cớ chống lại Bulgaria.

Trận Kolubara

phải|nhỏ|Binh lính Serbia trong trận Kolubara

Quân Áo tiếp tục tấn công. Ngày 16 tháng 11, các đơn vị của Tập đoàn quân Áo-Hung số 5 và 6 tấn công nhằm chiếm lấy tuyến đường sắt Obrenovac - Valjevo. Tập đoàn quân Áo số 5 chiếm được Lazarevac và đẩy lùi Tập đoàn quân Serbia số 2. Ngày 24 tháng 11, Tập đoàn quân Áo số 5 chiếm được cao điểm Mallen. Ngày 25 tháng 11, Tập đoàn quân Áo số 5 đánh lui các Tập đoàn quân Serbia số 2 và số 3, vượt sông Ljig đến đối đầu với Tập đoàn quân Serbia số 1. Trước tình hình đó, tướng Serbia Živojin Mišić đề xuất rút quân về thị trấn Gornji Milanovac. Tướng Mišić muốn tập hợp lại lực lượng để phản công. Ban đầu, tổng chỉ huy quân đội Serbia Radomir Putnik không hài lòng vì kế hoạch này sẽ phải bỏ Beograd. Tuy nhiên chẳng mấy chốc, kế hoạch được chấp thuận và quân Serbia bắt đầu rút lui.

Ngày 30 tháng 11, quân Serbia rời bỏ Beograd và từ ngày 2 tháng 12, mặt trận Serbia nằm ở khoảng giữa sông Danube và Thượng Morava, dọc theo Drenie, Kosmaj, Lazarevac và sườn tây của cao nguyên Rudnik. Áo chiếm được Beograd bị bỏ rơi và cho rằng quân Serbia không còn khả năng kháng cự nữa. Chỉ huy quân Áo Oskar Potiorek quyết định dồn lực đánh bại Tập đoàn quân Serbia số 2, mà không sợ hở sườn trước Tập đoàn quân Serbia số 1 bị coi là suy yếu không còn có thể tấn công. Tuy nhiên, ngay lúc ấy, đồng minh (Pháp và Nga) bắt đầu viện trợ đến Serbia thông qua Thessaloniki và dọc theo sông Danube. Pháp gửi vũ khí và đạn dược, Nga cũng gửi vũ khí và lương thực. Viện trợ này cho phép quân Serbia tích cực tham chiến. Ý đồ quân Áo đã bị liên minh Serbia-Nga phá vỡ hoàn toàn.

trái|nhỏ|Tập đoàn quân Áo số 5 tiến vào [[Beograd ngày 5 tháng 12 năm 1914]] Theo kế hoạch phản công của Serbia, Tập đoàn quân số 1 của tướng Mišić được cho là khởi đầu tấn công chiếm núi Suvobor, sau đó các Tập đoàn quân số 2 và số 3 tấn công tiếp. Sáng ngày 3 tháng 12, Putnik ra lệnh bắt đầu phản công, Tập đoàn quân số 1 đánh vào núi Suvobor khiến các đơn vị Áo choáng váng vì chủ quan không tin rằng quân Serbia có thể tấn công. Quân Áo chống trả được ba ngày và rút lui vào ngày 5 tháng 12. Trước thành công chắc chắn của Tập đoàn quân số 1, các Tập đoàn quân số 2 và số 3 nhập trận. Đối lại, Potiorek quyết định tấn công Tập đoàn quân Serbia số 2 nhưng tất cả các cuộc tấn công của Áo-Hung đều bị đẩy lui. Sau đó, quân Áo cố thủ ở cứ điểm kiên cố Beograd. Ngày 13 tháng 12, quân Áo bị đánh lui trở lại lãnh thổ Áo-Hung.

Ngày 15 tháng 12, quân Serbia quay về Beograd, toàn bộ lãnh thổ sạch bóng quân Áo. Tuy nhiên, quân Serbia không lợi dụng được chiến thắng để tổ chức truy kích quân Áo. Quân Serbia dừng lại ở biên giới sông Sava và sông Drina.

Tổn thất phía Serbia là 22.000 quân hy sinh và 19.000 quân bị bắt làm tù binh. Phía Áo-Hung thất bại nặng nề, thiệt mạng 28.000 quân, bị bắt 46.000 tù binh, 126 súng trường, 70 súng máy, 362 hộp đạn, 2.000 ngựa, v.v.

Kết quả năm 1914

Sau hai thất bại năm 1914 trên Mặt trận Balkan, quân Áo không còn tích cực triển khai trên mặt trận Serbia, chỉ để lại đây hai quân đoàn, còn lại chuyển hướng về Mặt trận phía Đông tới Karpat, để phòng thủ trước quân Nga. Lực lượng Áo-Hung chịu tổn thất nặng nề trên Mặt trận Balkan năm 1914, mất 7.600 sĩ quan và 274.000 binh sĩ. Tướng Ludendorff viết trong hồi ký về sau:

Thất bại năm 1914 của Áo-Hung giáng một đòn nghiêm trọng vào kế hoạch Áo-Đức muốn liên minh trực tiếp để kéo Đế quốc Ottoman tham chiến theo phe mình. Tướng Potiorek bị cách chức và Đại công tước Eugen trở thành chỉ huy quân Áo ở Balkan.

Trong chiến dịch năm 1914, quân Serbia đóng vai trò quan trọng đối với Entente, thu hút và giữ chân một lượng lớn quân Áo-Hung không thể chuyển sang đối đầu với quân Nga. Tuy nhiên, Serbia cũng phải trả giá khá đắt, trong điều kiện thiếu lương thực, thuốc men và quân trang trầm trọng. Thêm vào đó, sốt phát ban hoành hành trong quân ngũ. Năm 1914, Serbia mất 132.000 quân và quân số còn lại dưới 100.000 người. 50.000 quân Montenegro cũng giữ vai trò quan trọng trong các chiến dịch chống lại quân Áo.

Như vậy, chiến trường Balkan tạo nên một thế trận giằng co vào năm 1914.

Diễn biến năm 1915

Đầu năm 1915, tình hình vẫn giữ nguyên như vậy và mặt trận Balkan tạm lắng. Đến mùa hè năm 1915, quân Serbia có thể khôi phục hiệu quả chiến đấu nhờ vào phần lớn sự hỗ trợ của đồng minh Pháp, Anh và Nga. Khi mặt trận Nga bị vỡ và quân Nga phải triệt thoái lớn khỏi Ba Lan và Galicia, Nga yêu cầu phía Serbia tổ chức tấn công để kéo một phần quân số Áo-Hung ra khỏi Galicia. Nhưng chỉ huy quân đội Serbia Radomir Putnik phúc đáp rằng Serbia không đủ lực lượng và phương tiện để tiến hành tấn công. nhỏ| [[Danh sách vua Bulgaria|Vua Bulgaria Ferdinand I]] Đồng thời, Liên minh Trung tâm cuối cùng quyết định dứt điểm Serbia và Montenegro vào năm 1915 để thiết lập quan hệ giữa Đế quốc Ottoman và các đồng minh khác trong khối. Kinh nghiệm chiến dịch năm 1914 cho thấy nếu không có Đức hỗ trợ, một mình Áo-Hung sẽ không thể thực hiện được.

Giữa hè 1915, khi Mặt trận Balkan tương đối bình yên và các hoạt động quân sự tạm lắng, khối Áo-Đức bắt đầu chuẩn bị một chiến dịch quân sự đánh Serbia. Với mục tiêu này, các nhà ngoại giao Đức lên kế hoạch khiến Bulgaria tham chiến về phe mình. Berlin đảm bảo rằng nếu tham chiến cùng với Liên minh Trung tâm, Bulgaria sẽ nhận được các phần lãnh thổ Serbia, România và Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra, tình hình khi đó, quân Áo-Đức đã chiến thắng ở Mặt trận phía Đông, quân Thổ phòng thủ thành công trước Chiến dịch Gallipoli, còn quân Pháp-Anh không thể chọc thủng Mặt trận phía Tây trước quân Đức.

Entente cũng cố gắng lôi kéo Bulgaria về phe mình cùng với đảm bảo Đông Thracia và một phần lãnh thổ Macedonia sẽ thuộc về vương quốc Bulgaria. Tuy nhiên, Entente không thể đảm bảo cụ thể về các vùng lãnh thổ ở Macedonia. Serbia (bao gồm Macedonia) không muốn cắt đất cho Bulgaria sau chiến tranh. Trong khi Đức-Áo-Hung dứt khoát đồng ý cho Bulgaria có được Macedonia, Thracia, và cả lãnh thổ România sau chiến tranh (nếu România đứng về Entente). Ngoài ra, phía Đức cũng khẳng định Đế quốc Ottoman chuyển giao phần đất dọc theo hữu ngạn sông Maritsa cho Bulgaria.

Những yếu tố này ảnh hưởng đến quyết định của Bulgaria. Tin vào chiến thắng của Liên minh Trung tâm, khi đó Bulgaria sẽ nhận được tất cả các lãnh thổ đã hứa, Sa hoàng Ferdinand I thân Đức đứng về phe Liên minh Trung tâm.

Ngày 6 tháng 9 năm 1915, tại Sofia, Bulgaria ký kết với Liên minh Trung tâm, đồng nghĩa về phe Áo-Đức tham chiến. Theo hiệp ước này, 6 sư đoàn bộ binh Đức-Áo-Hung trong vòng 30 ngày, cùng ít nhất bốn sư đoàn Bulgaria trong vòng 35 ngày, phải sẵn sàng tác chiến ở biên giới Serbia. Tướng Mackensen nắm quyền tổng chỉ huy liên quân. Tình hình Balkan biến chuyển nghiêng về phe Liên minh Trung tâm. Quân Áo-Hung và Đức có thêm quân Bulgaria được coi là một trong những đội quân tinh nhuệ nhất tại Balkan.

Entente nhận thức quá muộn về mối nguy hiểm đang đe dọa các đồng minh Balkan của mình. Chỉ đến ngày 1 tháng 10 năm 1915, Anh-Pháp mới quyết định đổ bộ Thessaloniki tại Hy Lạp và hành quân đến yểm hộ sườn phía đông Serbia. Ngày 5 tháng 10, được Hy Lạp chấp thuận, 150.000 quân Anh-Pháp bắt đầu đổ bộ. Từ ngày 5 tháng 10 đến ngày 28 tháng 11 năm 1915, ba sư đoàn bộ binh Pháp (57, 122 và 156, tổng cộng 65.000 quân) và năm sư đoàn bộ binh Anh (10, 22, 26, 27 và 28, tổng cộng 85.000 quân). Nga không thể cứu Serbia vì bị România từ chối cho quân Nga đi qua lãnh thổ.

Chuẩn bị chiến đấu

nhỏ|Sa hoàng Bulgaria Ferdinand I tuyên chiến với Serbia Áo-Đức chuẩn bị chiến dịch đánh Serbia một cách cẩn thận và toàn diện, thực hiện nhiều trinh sát thăm dò, mở rộng mạng lưới đường bộ,... Kế hoạch tấn công được giữ bí mật, Liên minh Trung tâm cho rằng sẽ là một cú bất ngờ cho Serbia. Vào đầu cuộc tấn công, Áo-Đức đạt ưu thế gấp ba về quân số và trang thiết bị.

Kế hoạch Áo-Đức tấn công từ phía đông bắc và phía bắc, còn Bulgaria tấn công từ phía đông theo hướng Kragujevac và Niš để bao vây và tiêu diệt quân Serbia ngay tại trung tâm đất nước. Liên minh tập trung 14 sư đoàn Áo-Đức và sáu sư đoàn Bulgaria dưới sự chỉ huy chung của Thống chế Mackensen.

Lực lượng Áo-Đức:

  • Tập đoàn quân Đức số 11 (do tướng Galwitz chỉ huy; gồm 7 sư đoàn bộ binh) được tăng cường trọng pháo.
  • Tập đoàn quân Áo-Hung số 3 (tướng Kövess chỉ huy; 3 sư đoàn bộ binh Áo-Hung và 4 sư đoàn bộ binh Đức).
  • Tập đoàn quân Áo-Hung số 19 (đối đầu với Montenegro).

Tổng cộng Áo-Đức lên tới khoảng 330.000 quân.

Serbia thông qua kế hoạch tác chiến như sau: một lực lượng nhỏ dựa vào phòng tuyến vững chắc là sông Sava và Danube để đương đầu với Áo-Đức, bảo vệ khu vực phía bắc của mặt trận, còn lực lượng chính dùng đánh bại quân đội Bulgaria ngay trong giai đoạn đầu, chiếm Sofia và buộc Bulgaria đầu hàng. Sau đó, toàn lực quay lại đánh Áo-Đức. Entente lúc đầu không ủng hộ kế hoạch này vì vẫn hy vọng lôi kéo được Bulgaria đứng về phía mình.

Quân Serbia gồm 12 sư đoàn với 200.000 quân, 678 pháo:

  • Tập đoàn quân số 1 (do tướng Mišić chỉ huy; đóng ở hạ lưu Drina và Sava).
  • Tập đoàn quân số 2 (tướng Stepanović chỉ huy; đóng tại biên giới với Bulgaria).
  • Tập đoàn quân số 3 (tướng Jurišić Šturm chỉ huy; đóng tại bờ nam sông Danube).

Montenegro có khoảng 50.000 quân và 135 khẩu pháo. Quân đồng minh tham gia được cho là vào khoảng 150.000 người.

Tổng cộng, lực lượng Serbia, Montenegro và đồng minh lên tới 400.000 quân.

Serbia chỉ với 200.000 quân phải chống lại đối phương có lực lượng vượt trội (tỷ lệ 3:2). Quân Serbia cũng không có trọng pháo. Do lịch sử để lại về mâu thuẫn vương triều nên không có chỉ huy chung cho Montenegro và Serbia.

Áo-Đức tấn công

Trưa ngày 6 tháng 10 năm 1915, Áo-Đức bắt đầu tấn công với lực lượng pháo binh hùng hậu. Hỏa lực phá hủy chiến hào, rào chắn, thành trì Serbia ngay tại giao lộ. Beograd cũng bị pháo kích khiến 5.000 thường dân thiệt mạng.

Ngày 7 tháng 10, các sư đoàn Đức và Áo-Hung tiến công. Các đơn vị của Tập đoàn quân Áo số 3 đồng thời vượt sông Danube (Quân đoàn Áo số 8) và sông Sava (Quân đoàn dự bị 22 của Đức). Quân Áo-Đức quét sạch bãi mìn để tiến lên. Đối mặt tình thế khó khăn, quân Serbia chống cự trong vô vọng. Trong ngày đầu tiên vượt sông, quân Áo-Đức dồn tới 2/3 quân lực vào các cây cầu. Các đơn vị Áo-Đức trải qua những trận đánh ác liệt với quân Serbia để giành lấy những đầu cầu. Trời tối, cuộc vượt sông lại tiếp tục. Quân Đức chiếm được đảo Ciganlija trên Sava, làm đòn bẩy cho quân tiếp viện tràn lên bờ phía Serbia. Sau khi chiếm được cầu nối đảo với bờ sông, Sư đoàn quân dự bị số 43 của Đức đột nhập vào Begrad. Ngày 9 tháng 10, tàu chở hai sư đoàn bộ binh Áo đổ bộ bên bờ phía Serbia. Giao tranh khốc liệt diễn ra trên đường phố. Quân Serbia chống trả quyết liệt nhưng đến ngày 9 tháng 10, quân Đức chiếm được Beograd. Quân Serbia buộc phải rút lui về phía nam. Ngoài ra, Quân đoàn 19 của Tập đoàn quân số 3 Áo-Hung bắt đầu vượt qua Drina và tấn công khiến quân Montenegro cũng buộc phải rút lui.

Tập đoàn quân 11 của Đức vượt sông Danube tại Rama (chính), tại Semendria (phụ) và nghi binh tại Orsova. Quân Đức gặp thời tiết xấu, mưa lớn và sự kháng cự của quân Serbia. Ngày 8 và 9 tháng 10, mưa như trút cùng với quân Serbia nã pháo dữ dội. Cơn bão ập đến làm quân Đức càng khó khăn khi cố gắng vượt sông. Ngày 17 tháng 10, sau khi bão tan, Quân đoàn dự bị số 10 tìm cách vượt sang bờ phía Serbia. Tại khu vực đồi núi giữa Beograd và Semendria, quân Serbia chặn đánh quyết liệt các đơn vị Đức. Mãi đến ngày 21 tháng 10, quân Đức mới dập được phòng tuyến kháng cự và dựng hai cây cầu để toàn bộ Tập đoàn quân 11 sang sông. Trong những ngày đầu giao tranh, quân Áo-Đức chỉ thiệt hại 10.000 người. Tập đoàn quân số 3 và 11 chỉ tiến được 10–15 km.

Quân chủ lực Serbia, tập trung ở biên giới Bulgaria, đã tập hợp lại và buộc phải giao chiến với quân Áo-Đức từ phía bắc tiến tới. Quân Montenegro cũng chống trả quyết liệt, làm chậm bước tiến của các sư đoàn Áo tại Drina. Tuy nhiên, các đơn vị Áo-Đức đã hội đủ quân và vận chuyển trọng pháo để phát động tấn công.

Bulgaria tham chiến

phải|nhỏ|[[Wilhelm II, Hoàng đế Đức|Wilhelm II, Ferdinand I và tướng Mackensen tại vùng chiếm đóng Niš]] Ngày 8 tháng 10, trước tình thế khó khăn, chỉ huy quân đội Serbia Thống chế Radomir Putnik buộc phải đưa lực lượng đang canh chừng biên giới Bulgaria tham chiến. Ngày 15 tháng 10, sau khi tuyên chiến với Serbia, quân Bulgaria tràn sang tấn công.

Bulgaria triển khai hai đội quân tiến đánh Serbia:

  • Tập đoàn quân số 1 (tướng Boyadzhiev chỉ huy; 4 sư đoàn bộ binh)
  • Tập đoàn quân số 2 (tướng Todorov chỉ huy; 2 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn kỵ binh)

Sư đoàn bộ binh số 6 tại Kula, Sư đoàn bộ binh số 5 và số 8 triển khai tại Belogradchik còn Sư đoàn bộ binh số 1 chiếm giữ các vị trí phía tây bắc Sofia. Tập đoàn quân số 1 tấn công Pirot và Niš để đánh bại Tập đoàn quân Serbia số 2. Tập đoàn quân Bulgaria số 2 (Sư đoàn bộ binh số 3, số 7 và Sư đoàn kỵ binh số 1) nhận lệnh tấn công thung lũng sông Vardar nhằm cắt đứt liên lạc giữa Serbia và Lực lượng viễn chinh Entente ở Thessaloniki.

Như vậy, nhiệm vụ của Bulgaria là đánh chiếm Niš (Tập đoàn quân số 1), tuyến đường sắt Niš-Thessaloniki (Tập đoàn quân số 2) với mục tiêu tiếp tục bao vây quân Serbia. Tuy nhiên, Tập đoàn quân Bulgaria số 2 có lực lượng yếu nhất lại phải gánh vác nhiệm vụ quan trọng nhất. Khi tách khỏi Tập đoàn quân số 1, Tập đoàn quân số 2 hoàn toàn có thể bị liên quân Anh-Pháp chọc sườn nhưng bộ chỉ huy Liên minh Trung tâm cho rằng không cần phải tăng cường cho Tập đoàn quân số 2. trái|nhỏ|300x300px|Mũi tấn công của Tập đoàn quân Bulgaria số 2 Rạng sáng 15 tháng 10, Bulgaria xâm lược Serbia. Tập đoàn quân Bulgaria số 1 của tướng Boyadzhiev vấp phải sự kháng cự ngoan cường của quân Serbia. Trận chiến kéo dài, quân Bulgaria chiếm được các vị trí kiên cố gần Pirot. Ngày 25 tháng 10, quân Serbia buộc phải rút khỏi Timok. Trái ngược, Tập đoàn quân Bulgaria số 2 của tướng Todorov không gặp nhiều trở ngại đã nhanh chóng tiến đến sông Vardar ở Macedonia. Quân Bulgaria đánh bại quân Serbia tại Kumanovo và chiếm lấy Veles. Những chiến thắng này của quân Bulgaria chia cắt quân Serbia và lực lượng đồng minh ở Thessaloniki.

Lo sợ bị bao vây, quân Serbia vừa đánh vừa rút theo hướng tây nam đến Montenegro và Albania. Quân Montenegro cũng rút lui. Các sư đoàn Áo-Đức liên tục truy kích. Quân Serbia đôi lúc phản công làm chậm đà tiến của Áo-Đức.

Quân Serbia rơi vào tình thế thảm hại. Ngày 22 tháng 10, quân Áo-Đức-Bulgaria tiếp tục tấn công. Trước những đợt tấn công dữ dội của quân số vượt trội, quân Serbia buộc phải rút lui. Ngày 5 tháng 11, quân Bulgaria chiếm Niš. Sau đó, Áo-Đức và Bulgaria kết hợp lại cùng tấn công. Cùng lúc đó, 3 sư đoàn Anh-Pháp từ Thessaloniki đến Macedonia để trợ giúp Serbia, nhưng bị Tập đoàn quân Bulgaria số 2 chặn lại gần sông Crna và phải thoái lui. Quân Bulgaria đẩy lui quân Anh-Pháp nỗ lực kết nối với quân Serbia.

Chiến sự gia tăng

Quân Áo-Đức (bổ sung thêm sư đoàn Alps của Đức) tiếp tục tấn công từ phía bắc. Bộ chỉ huy Serbia chuyển từ Kragujevac tới Kruševac. Những trận kế tiếp, quân Serbia tổn thất nặng và vội rút lui. Tập đoàn quân Bulgaria số 2 chặn đường rút của Serbia tới Albania nên bị đánh trả quyết liệt. Quyết tâm không cho quân Serbia thoát thân, Bulgaria điều động một sư đoàn bộ binh từ Tập đoàn quân số 1 đến tăng viện. Song những cuộc tấn công tiếp theo của Bulgaria đã không thành công.

Ngày 1 tháng 12, chiến sự ở Prizren, quân Serbia bị quân Bulgaria đánh bại, chịu tổn thất nặng nề, bị bắt rất nhiều tù binh. Kết cục tương tự với các đơn vị giao chiến với Tập đoàn quân số 3 và 11 của Áo-Đức. Quân Serbia bị đánh bật khỏi Serbia. Quân Bulgaria chiếm được Ohrid, đặt quyền kiểm soát tại Vardar Macedonia. Cuối tháng 11, Áo-Hung đẩy Montenegro trở lại lãnh thổ mình và tiếp tục tấn công nhằm chiếm Cetinje.

trái|nhỏ|Quân đội Serbia di tản đến Albania năm 1915

Quân Serbia và Montenegro tiếp tục rút lui về phía Albania và Montenegro. Lo sợ bị quân Áo-Đức khủng bố, dân thường cũng chạy theo. Cuộc tháo chạy diễn ra trong điều kiện đường núi khó khăn. Mục tiêu là đến được bờ biển Adriatic, nơi quân đồng minh cam kết sẽ sơ tán quân dân Serbia và Montenegro.

Trong các trận sau đó, quân Serbia mất thêm 55.000 người, phải rút lui theo đường núi Albania và buộc phải phá hủy pháo và xe kéo. Ngoài việc rút lui, Serbia còn phải tìm cách sơ tán tù binh Áo-Hung (30.000 binh sĩ và 700 sĩ quan). Ngày 26 tháng 11, chính phủ Serbia sơ tán khỏi Prizren. Khoảng 150.000 người Serb sống sót sau hành trình gian khổ đến được đảo Corfu vào tháng 1 năm 1916. Toàn bộ lãnh thổ Serbia và Montenegro bị chiếm đóng.

Trong cuộc rút lui của Serbia, quân Montenegro đóng một vai trò quan trọng. Ngày 6-7 tháng 1 năm 1916, Sư đoàn Sandzak của Montenegro đánh bại lực lượng Áo-Hung vượt trội về quân số gần thị trấn Mojkovac, kiềm chế đà tấn công của đối phương, tạo điều kiện cho quân đội Serbia chạy về biển Adriatic. Nhưng quân Áo tiếp tục tấn công và quân Montenegro cũng lâm vào thế buộc phải sớm rút lui. Ngày 14 tháng 1, quân Áo chiếm Cetinje. Chủ lực quân Montenegro còn lại cũng bị bao vây.

Chiến dịch tấn công Serbia và Montenegro kéo dài khoảng hai tháng, kết quả là toàn bộ lãnh thổ hai nước bị quân Liên minh Trung tâm chiếm đóng. Serbia đã phải gắng sức phòng ngự thủ trước lực lượng đối phương hùng hậu. Về sau, Thủ tướng Anh Lloyd George có viết:

Liên minh Trung tâm không dám xâm phạm biên giới của Hy Lạp trung lập, chỉ để hai đạo quân Bulgaria thêm sư đoàn Đức tăng viện đến sát biên giới.

Di tản quân Serbia

phải|nhỏ|250x250px|Quân đội Serbia ở Corfu Sau khi tiến vào biên giới Albania, bộ chỉ huy Serbia dự định cho các đơn vị đang kiệt sức nghỉ tại Shkodër. Nhưng cuối tháng 12, ý tưởng này phá sản khi Tập đoàn quân Bulgaria số 2 chiếm Monastir và hướng đến Elbasan. Thêm nữa, Tập đoàn quân Áo-Đức số 3 càng đánh mạnh vào quân Montenegro đang kiệt quệ, đe dọa đến đường rút lui từ phía bắc. Sau khi quân Serbia đến bờ biển Adriatic, hạm đội Áo tích cực đánh phá các cảng Durazzo và Saint Giovani de Medua là nơi Serbia trú quân. Hạm đội và không quân Áo-Hung với căn cứ ở Kotor đã liên tục quấy rối và pháo kích. Tàu chiến và tàu ngầm Áo tấn công các tàu vận tải lương thực đến cho người Serb.

Như vậy, quân Serbia có thể bị quân Áo-Đức-Bulgaria ép xuống biển và tiêu diệt. Giữa tình thế này, Pháp quyết định đưa quân Serbia đến Brindisi rồi tới Tunisia. Tại đó, quân Serbia sẽ được tái tổ chức lại và quay lại mặt trận sau. Tuy nhiên, việc vận chuyển như vậy đòi hỏi lực lượng hải quân lớn, nên chỉ huy quân đội Pháp Joffre nhất quyết yêu cầu quân Serbia phải sơ tán đến đảo Corfu của Hy Lạp. Sau khi quyết định này được đưa ra vào ngày 12 tháng 1, quân đồng minh bắt đầu chiếm đóng đảo Corfu. Cảng Saint-Giovani de Medua nằm trong phạm vi hoạt động của hạm đội Áo, vì vậy quân đồng minh quyết định gửi các đơn vị Serbia đến Vlorë (do Ý chiếm đóng) để bắt đầu di tản. 50.000 quân Serbia trải qua hành trình 240 km đến Vlorë. Số quân Serbia còn lại được sơ tán từ Durrës.

Do mất thời gian đánh giá nơi di tản cho 250.000 người Serb đang ở Albania nên khi bắt đầu, chỉ còn 160.000 người sống sót cùng 80 khẩu sơn pháo và 15.000 gia súc. Cuộc di tản của quân Serbia đến Corfu kết thúc vào ngày 26 tháng 2 năm 1916. Trên đảo cũng không thể thiết lập nguồn cung cấp lương thực trong một thời gian dài khiến nhiều người chết vì đói và kiệt sức. Tháng 2 năm 1916, tàn quân Serbia được tổ chức lại và sẵn sàng để gửi đến Mặt trận Thessaloniki vào tháng 4 năm 1916. Quân Serbia theo đường biển đến Thessaloniki vào ngày 30 tháng 5 năm 1916.

Kết quả năm 1915

nhỏ|[[Serbia và Mặt trận Serbia năm 1915]] Kết quả chiến sự năm 1915, lãnh thổ Serbia và Montenegro bị Liên minh Trung tâm chiếm đóng. Chiến thắng Balkan năm 1915 mang lại lợi ích to lớn cho Liên minh Trung tâm với mặt trận trải dài từ Baltic đến Địa Trung Hải. Đức có thể liên kết trực tiếp Đế quốc Ottoman, sườn nam của Áo-Hung được che chắn. Liên minh Trung tâm có thể đưa các sư đoàn đến Mặt trận phía Đông và Mặt trận Ý.

Quân Áo-Đức-Bulgaria gần như làm chủ tác chiến hoàn toàn tại Balkan. Lãnh thổ Montenegro bị Áo chiếm đóng. Lãnh thổ Serbia bị Áo-Hung và Bulgaria chiếm đóng. Quân Montenegro bị loại khỏi vòng chiến, còn quân Serbia chịu tổn thất đáng kể. Ngoài thương vong, quân Serbia còn tổn thất một lượng lớn vũ khí súng đạn cùng nhiều trang thiết bị khác.

Thành công về mặt quân sự ở Balkan mang lại cho Liên minh Trung tâm lợi thế về chiến lược và ngoại giao. Ngoài những lợi ích nói trên (mở thông với Thổ Nhĩ Kỳ và đưa Bulgaria tham chiến về phe mình), khối Áo-Đức làm suy yếu đáng kể vị thế Entente trong toàn bộ khu vực.

Ở phía ngược lại, quân Serbia không bị tiêu diệt mà sẽ được tổ chức lại vào mùa xuân năm 1916 và chiến đấu cùng đồng minh tại Mặt trận Thessaloniki. Chiến lược điều quân hợp lý, phản công ở địa hình đồi núi, cũng như làm Tập đoàn quân Bulgaria số 2 không thể bao vây giúp quân Serbia sống sót và rút lui thành công.

Diễn biến năm 1916

Mặt trận Thessaloniki hình thành

Ngay từ ngày 14 tháng 10 năm 1915, một số tiểu đoàn Entente đã tiến vào lãnh thổ Serbia. Quân đồng minh lên kế hoạch tấn công thọc sườn để bắt liên lạc với quân Serbia. Kế hoạch bất thành khi quân Serbia rút theo hướng Albania cũng như sự thiếu quyết đoán của tướng Sarrail chỉ huy quân Anh-Pháp. Ngày 21 tháng 11, sau một trận giao tranh với Bulgaria, Sư đoàn bộ binh Pháp số 122 rời bờ nam sông Crna, từ đó di chuyển sang Hy Lạp.

Khi ấy, quân Đức đang tính cách đương đầu với lực lượng Entente ở Hy Lạp. Bộ chỉ huy Bulgaria cho rằng nên coi Hy Lạp là kẻ thù vì số lượng lớn địch quân tập trung tại đây. Nhưng cuối cùng, Đức quyết định hạn chế các hành động thù địch tránh cho Hy Lạp về phe Entente. Sau khi kết thúc chiến dịch Serbia, Đức nhận thấy đóng quân ở Balkan không có ý nghĩa nên điều quân số đáng kể sang mặt trận phía Tây. Tổng tham mưu trưởng Đức Erich von Falkenhayn cho rằng quân Bulgaria nên đóng vai trò chính khi đối đầu với quân Anh-Pháp đã đổ bộ vào Thessaloniki. Kết quả là vào giữa tháng 11 năm 1915, các bên ký kết thỏa thuận rằng quân Bulgaria sẽ chiến đấu chống lại các lực lượng viễn chinh Entente.

Ngày 5 tháng 12 năm 1915, Tập đoàn quân Bulgaria số 2 mở cuộc tấn công ở Macedonia. Trước sức ép của quân Bulgaria, quân đồng minh bắt đầu rút lui về thung lũng sông Vardar. Ngày 8 tháng 12, quân Bulgaria đẩy lùi Sư đoàn Anh số 10 và thu được 10 khẩu pháo. Sườn phải phơi ra nên quân đồng minh buộc phải rút về tuyến phòng thủ mới. Bốn sư đoàn Bulgaria tiếp tục truy kích, quân Anh-Pháp, rút lui về một địa điểm kiên cố trong vùng Thessaloniki ở Hy Lạp. Khi rút lui, quân Đồng minh cũng sơ tán hầu hết các nguồn cung ứng cho quân Serbia khỏi khu vực Gevgelija. Quân đồng minh mất 6.000 người tử trận, bị thương hoặc bị bắt làm tù binh.

Tập đoàn quân Bulgaria số 2 Bulgaria không tràn qua biên giới Serbia-Hy Lạp. Lực lượng Liên minh Trung tâm bố trí như sau:

  • Tập đoàn quân Bulgaria số 1 - (hai sư đoàn bộ binh, một lữ đoàn kỵ binh và một lực lượng Đức) chiếm các vị trí hồ Ohrid, tại Monastir dọc theo biên giới Serbia-Hy Lạp ở phía nam Prilep. Để đảm bảo sườn phải, đạo quân này tiến vào lãnh thổ Albania và chiếm Elbasan.
  • Tập đoàn quân Bulgaria số 2 - (ba sư đoàn bộ binh) đóng tại Strumica, Petrich, Nevrekop.
  • Tập đoàn quân Đức số 11 - (hai sư đoàn bộ binh Đức và một sư đoàn rưỡi Bulgaria) giữ phía tây bắc Gevgelija và phía bắc hồ Doiran.

Quân đồng minh củng cố các vị trí của mình, sườn phải dựa vào vịnh Orfano, tổng chiều dài của mặt trận là 120 km. Ngoài ra, quân đồng minh xây dựng và sửa chữa 200 km đường bộ và đường sắt.

Tình hình đầu năm 1916

Lãnh thổ Serbia bị Áo-Hung và Bulgaria chiếm đóng. Trong vùng Áo chiếm đóng (miền bắc và miền trung Serbia), một chính phủ chung được thành lập với thủ đô Beograd. Ở phía đông của Morava, trên vùng Bulgaria chiếm đóng, Toàn quyền Pomoravlje được thành lập với thủ phủ Niš. Lãnh thổ Vardar Macedonia được chuyển thành Chính phủ chung Macedonia. Kosovo và Metohija bị chia ra - phần phía đông do Bulgaria chiếm đóng, con phần phía tây nằm dưới quyền Áo-Hung kiểm soát.

Đầu năm 1916, Vương quốc Montenegro rút khỏi chiến tranh: Vua Nikola I ký sắc lệnh giải tán quân đội Montenegro và rời khỏi đất nước đang bị quân đội Áo-Hung chiếm đóng. Dân chúng Serbia và Montenegro vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại quân chiếm đóng.

Mặt trận Thessaloniki mới được thành lập sau thất bại của Serbia. Bộ chỉ huy Entente đặt kế hoạch tiêu diệt càng nhiều quân Đức ở Balkan càng tốt và ngăn chặn đối phương điều quân sang Mặt trận phía Tây. Đức giữ vai trò quân sự quan trọng trong Liên minh Trung tâm lại không có kế hoạch tích cực nào tại mặt trận Thessaloniki mới do thiếu lực lượng, nguồn cung ứng gặp khó khăn tại Balkan,... nên chỉ đồn trú lại một lực lượng nhỏ quân Đức-Bulgaria.

Tháng 5 năm 1916, Entente bổ sung thêm quân đến mặt trận Thessaloniki. 130.000 quân Serbia được tổ chức lại gồm sáu sư đoàn bộ binh và một sư đoàn kỵ binh dưới sự chỉ huy của Hoàng thân Nhiếp chính Aleksandar (Thống chế Putnik bị thôi chức) gia nhập lực lượng Đồng minh tại Balkan. Quân số Đồng minh ở Balkan lên tới 300.000.

Chiến sự xuân hè 1916

Từ khi Đức bắt đầu điều quân sang Pháp, quân đồng minh ở Thessaloniki có nhiệm vụ tấn công để thu hút chuyển hướng quân địch. Nhưng hành động của quân đồng minh không ảnh hưởng đến tình hình chung tại mặt trận. Các đơn vị Đức tiếp tục được điều động sang phía Tây, quân Bulgaria trở nên bị động.

phải|nhỏ|300x300px|Bộ binh Bulgaria tấn công Monastir

Chiến sự bắt đầu sôi động hơn vào tháng 8. Quân Anh-Pháp cố gắng phá vỡ tuyến phòng thủ của Bulgaria tại hồ Doiran. Chịu tổn thất đáng kể, các cuộc tấn công ngưng lại hoàn toàn vào ngày 19 tháng 8.

Liên quan đến việc România tham chiến về phe Entente, quân Đồng minh lên kế hoạch phối hợp chung nhằm vô hiệu hóa Bulgaria, dự kiến tấn công vào ngày 20 tháng 8. Bulgaria đi trước một bước, mở cuộc tấn công lớn đầu tiên vào ngày 17 tháng 8 trên mặt trận Thessaloniki.

Theo hướng Thracia, quân Bulgaria chiếm các thành phố Kavála, Serres và Drama, rồi cho hai cánh tiến vào Thracia của Hy Lạp và Macedonia nhằm tạo thế bao vây quân Entente. Ngày 23 tháng 8, Tập đoàn quân Bulgaria số 1 chiếm được các cao điểm tại Moglena và đẩy quân Serbia đến Florina. Từ đây có thể liên kết với quân Hy Lạp ở Thessaly và đe dọa tập hậu quân Entente tại Vardar và Moglena. Sarrail điều động 3 sư đoàn bộ binh Pháp được Serbia yểm trợ đã chặn đứng bước tiến của quân Bulgaria.

Quân Bulgaria tăng cường cả ở Vardar lẫn hướng Thracia, đánh chiếm một số vùng Hy Lạp, quân đồng minh phải di chuyển. Tập đoàn quân Bulgaria số 1 chiếm được Florina, bắt giữ 6.373 binh sĩ, 464 sĩ quan và 15 pháo của quân đội Hy Lạp. Chính phủ Hy Lạp chấp thuận để những người này được đưa đến Đức cho đến khi chiến tranh kết thúc. Đây là điều quan trọng hàng đầu vì đội quân này không ra chiến trường sau khi Hy Lạp tham chiến về phe Hiệp ước. Quân Bulgaria tiến 80–90 km đến bờ biển Aegea, đẩy tiền tuyến đi xa khoảng 100 km. Hành động của quân Bulgaria đã ngăn trở quân đồng minh tấn công.

Ngày 1 tháng 9, lực lượng đồng minh gồm năm sư đoàn Anh, bốn Pháp, sáu Serbia, một Ý và một sư đoàn bộ binh Nga mở một cuộc tấn công theo hướng Florina, Monastir với mục đích hỗ trợ mặt trận România.

Ngày 12 tháng 9, các đơn vị Serbia-Pháp đánh lui Sư đoàn bộ binh Bulgaria số 8 và chiếm được Gornichevo. Ngày 23 tháng 9, quân Pháp chiếm lại Florina từ tay Bulgaria, thu được một số pháo. Ở vùng cao nguyên, trên núi Kajmakčalan nổ ra trận chiế

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
[[Quốc kỳ Đế quốc Áo-Hung trong Chiến tranh thế giới thứ nhất]] Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Áo-Hung là nước thuộc khối quân sự Liên minh Trung tâm gồm Đế quốc
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Mặt trận Địa Trung Hải và Trung Đông** trong Chiến tranh thế giới thứ hai gồm nhiều trận đánh trên biển, đất liền và trên không giữa quân đội Đồng Minh và khối Trục tại
**Chiến dịch Ý** là chiến dịch tấn công dài và oanh liệt nhất do khối Đồng Minh phương Tây thực hiện trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch kéo dài từ ngày 10
Quân Thổ Ottoman tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất ở ba mặt trận chính:Mặt trận Caucasus, mặt trận Trung Cận Đông (Lưỡng Hà và Palestine), và nổi tiếng nhất, tại bán đảo Gallipoli
[[Quốc kỳ Bulgaria trong Chiến tranh thế giới thứ nhất]] Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Bulgaria là nước thuộc phe Liên minh Trung tâm gồm Đế quốc Đức, Đế quốc Áo-Hung và Đế
**Chiến dịch Serbia** là tên của một chuỗi các trận giao tranh giữa Vương quốc Serbia và Vương quốc Montenegro với các nước Liên minh Trung tâm gồm Đế quốc Áo-Hung, Đế quốc Đức và
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
**Mặt trận Srem** (, ) là tuyến phòng thủ vững chắc của Wehrmacht và Quân lực Croatia nằm tại Srem và Đông Slavonia trong Thế chiến thứ hai từ 23 tháng 10 năm 1944 đến
**Chiến tranh Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1919–1922** (, ) là chiến tranh giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc phân chia đế quốc Ottoman sau Thế chiến thứ nhất, diễn ra từ
**Trận Krivolak** (Tiếng Bulgaria: Криволашко сражение) là một trận đánh trong Thế chiến thứ nhất diễn ra từ ngày 21 tháng 10 đến 22 tháng 11 năm 1915 giữa Vương quốc Bulgaria và Pháp, một
**Chiến dịch Gallipoli** còn gọi là **Trận Gallipoli**, kéo dài từ tháng 4 tới tháng 12 năm 1915, do quân Hiệp Ước Anh - Pháp phát động nhằm chiếm thủ đô của Đế chế Ottoman
Albania trong Thế chiến II Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Albania** đề cập đến phong trào kháng chiến của các tổ chức yêu nước của Albania nhằm chống lại quân xâm lược của
**Chiến dịch tấn công Beograd** ( / Beogradska operacija; , ) là hoạt động quân sự lớn nhất tại Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng thời là một trong các chiến
**Trận Hy Lạp** (hay còn gọi là **Chiến dịch Marita**, ) là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài
**Trận Kolubara** (Tiếng Đức: Schlacht an der Kolubara, Tiếng Serbia: Kolubarska bitka, Колубарска битка) là trận đánh diễn ra giữa Đế quốc Áo-Hung và Serbia vào tháng 11 và tháng 12 năm 1914 tại mặt
**Trận Cer** (Tiếng Serbia: Церска битка/Cerska bitka; Tiếng Đức: Schlacht von Cer; Tiếng Hungary: Ceri csata), hay còn gọi là **Trận sông Jadar** (Јадарска битка/Jadarska bitka, Schlacht von Jadar, Jadar csata) là trận đánh diễn
**Sophie của Phổ** (tiếng Đức: _Sophie von Preußen_; tiếng Hy Lạp: Σοφία της Πρωσίας; 4 tháng 6 năm 1870 – 13 tháng 1 năm 1932) là Vương hậu Hy Lạp từ ngày 18 tháng 3
**Chiến dịch Balkan** () là các cuộc tấn công của Phe Trục nhằm vào hai vương quốc Hy Lạp và Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch bắt đầu với cuộc
**Diệt chủng Armenia** () là những cuộc thảm sát và thanh lọc sắc tộc có hệ thống với người dân tộc Armenia ở Tiểu Á và các vùng lân cận, được thực hiện bởi Đế
[[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II của Đế quốc Đức, Mehmed V của Đế quốc Ottoman và Franz Joseph I của Đế quốc Áo-Hung: Ba vị toàn quyền của phe Liên minh Trung tâm trong Chiến
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Trận Crete** (; ) là một trận đánh diễn ra tại đảo Crete của Hy Lạp giữa quân đội Đức Quốc xã và quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bắt
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
**Chiến dịch Cái Vòng** (_Операция Кольцо_) là một hoạt động quân sự chiến lược lớn của Quân đội Liên Xô chống lại Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng
**Thập tự chinh Thứ nhất** (1095 - 1099) là cuộc Thập tự chinh đầu tiên, được phát động vào năm 1095 bởi Giáo hoàng Urban II với mục đích chiếm lại những vùng đất đã
**Trận vượt sông Dniestr** (21-22 tháng 8 năm 1944) hay còn gọi là **trận đổ bộ Akkerman** là một trận chiến nằm trong chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi-Chişinău thuộc Chiến tranh Xô-Đức. Nó
**Trận hồ Prespa** là trận đánh quan trọng nhất vào năm 1917 của Mặt trận Balkan trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đây là chiến dịch tấn công vào hồ Prespa của quân đồng
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Chiến dịch tấn công Bucharest-Arad** (30 tháng 8 - 3 tháng 10 năm 1944), còn gọi là **Chiến dịch Rumani**, là một chiến dịch quân sự do Hồng quân Liên Xô và quân đội Rumani
**August von Mackensen**, tên khai sinh là **Anton Ludwig Friedrich August Mackensen** (6 tháng 12 năm 1849 – 8 tháng 11 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời kỳ đế quốc. Trong
**Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani** hay _Chiến dịch tấn công Uman-Botoshany_ Chiến dịch này có quy mô lớn về binh lực của hai bên Liên Xô và Đức tại giai đoạn hai của các hoạt
**Chiến tranh Balkan lần thứ nhất** (8 tháng 10 năm 1912 – 30 tháng 3 năm 1913) là cuộc chiến giữa Liên minh Balkan (bao gồm Serbia, Hy Lạp, Montenegro và Bulgaria) và Đế quốc
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Trận Kiev (1943)** là một trong các trận đánh quan trọng nhất của chuỗi Chiến dịch Tả ngạn sông Dniepr. Từ ngày 24 tháng 9 đến ngày 24 tháng 12 năm 1943, trên toàn bộ
**Thế kỷ 20** là khoảng thời gian tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1901 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2000, nghĩa là bằng 100 năm. Thế kỷ 20 bị chi phối bởi
**Siegmund Wilhelm List** (14 tháng 5 năm 1880 – 17 tháng 8 năm 1971) là một trong số các thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông
**Mustafa Kemal Atatürk** (; ( 19 tháng 5 năm 1881 – 10 tháng 11 năm 1938) là một sĩ quan quân đội, nhà cách mạng, và là quốc phụ cũng như vị Tổng thống đầu
**Mehmet Vehib Kaçı** (thường gọi là **Mehmet Wehib** thay **Vehip Pasha**) (1877 - 1940), người Thổ Nhĩ Kỳ, là sĩ quan cấp cao trong quân đội đế quốc Ottoman. Ông từng tham gia Chiến tranh
**Chiến dịch Krym** hay theo cách gọi của người Đức là **Trận bán đảo Krym**, là một loạt các cuộc tấn công của Hồng Quân Liên Xô nhằm vào quân đội Đức để giải phóng
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke**_ là một lớp gồm hai tàu chiến-tuần dương "toàn-súng lớn" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong những năm 1909–1911. Gồm hai chiếc SMS _Moltke_ và SMS _Goeben_,
nhỏ|Cổ phần đường sắt Bagdad, phát hành vào ngày 31 tháng 12 năm 1903 **Đường sắt Bagdad** (chữ Anh: Baghdad railway, chữ Thổ Nhĩ Kì: Bağdat demiryolu, chữ Đức: Bagdadbahn, chữ Arabi: سكة حديد بغداد,
**Nikola Todorov Zhekov** (1864 – 1949) là vị tướng người Bulgaria, Bộ trưởng chiến tranh Bulgaria năm 1915 và Tổng tham mưu trưởng quân đội Bulgaria từ 1916-1918 trong thời gian Chiến tranh thế giới