✨Lịch sử đế quốc Ottoman trong Đệ nhất thế chiến

Lịch sử đế quốc Ottoman trong Đệ nhất thế chiến

Quân Thổ Ottoman tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất ở ba mặt trận chính:Mặt trận Caucasus, mặt trận Trung Cận Đông (Lưỡng Hà và Palestine), và nổi tiếng nhất, tại bán đảo Gallipoli và một số chiến dịch nhỏ khác ở khu vực Balkan.

Hoàn cảnh

Mỗi chuỗi các thất bại liên tiếp từ thế kỷ 19 trước khiến đế quốc Ottoman mất dần ảnh hưởng của mình ở châu Âu và Bắc Phi: Ai Cập rơi vào tay Anh, Bosna-Herzegovina về Áo-Hung, Libya về Ý. Vua Thổ Nhĩ Kỳ Abdul Hamid II (1876-1909) duy trì chính sách chuyên chế và bị hạ bệ vào năm 1909 bởi phong trào Thanh niên Thổ. Nhu cầu hiện đại hóa quân đội để đáp ứng nhu cầu chiến tranh là cấp bách. Lãnh đạo của phong trào Enver Pasha thiết lập một mối quan hệ thân mật với Đế quốc Đức, cả về ngoại giao và quân sự. Tháng 12 năm 1913, phái đoàn hỗ trợ quân sự của Đức, đứng đầu là tướng Otto Liman Von Sanders tới Thổ. Các sĩ quan Đức sẽ đóng vai trò huấn luyện và nếu cần, đảm nhận quyền trực tiếp chỉ huy, tiêu biểu như Liman Von Sanders và Erich van Falkenhayn. Tuy nhiên, quyết định tham chiến có nghĩa là quá trình hiện đại hóa mới chỉ bắt đầu này chưa kịp hoàn thành.

Lục quân Toàn bộ các công dân nam Thổ Nhĩ Kỳ từ 18 tuổi phải tham gia nghĩa vụ quân sự. Thời gian tập huấn tùy vào binh chủng mà họ gia nhập, ở bộ binh chia ra làm bốn loại:2 năm ở Nizam, bộ đội chính quy, sau đó là 23 năm ở các lực lượng dự bị đợt 1 & 2 Ikhtiat, và dân quân khu vực Mustafiz. Thời bình thì lực lượng dự bị đợt 1 tập huấn mỗi năm một lần, kéo dài một tháng, lực lượng dự bị đợt 2 tập huấn 2 năm một lần, kéo dài một tháng. Trước khi thế chiến bùng nổ, theo ước tính toàn đế quốc có khoảng 25 triệu dân, trong đó hơn 14 triệu là Thổ, còn lại là dân Ả Rập, người Armenia, Kurd, Hy Lạp và Syria. Tương tự như tình trạng của Áo-Hung, phong trào quốc gia gia tăng và các nhóm dân kể trên đều muốn tách khỏi ảnh hưởng của đế quốc và thành lập quốc gia riêng của họ.

Khi chiến tranh nổ ra, quân Thổ tập hợp thành 3 quân đoàn, với hơn 36 sư đoàn. Mỗi sư đoàn gồm 3 tiểu đoàn bộ binh, mỗi tiểu đoàn gồm 4 đại đội, hỗ trợ bởi 1 súng máy và 36 pháo. Vũ khí cơ bản của lính bộ binh Thổ là súng trường Mauser mẫu 1809, trong khi súng máy thường là của Maxim hoặc Hotchkiss. Pháo binh gồm nhiều loại, từ Krupp đến Schneider-Creusot. trái|nhỏ|[[Mehmed V]] Hệ thống sĩ quan lãnh đạo ở cấp dưới thì thường xuyên thiếu kinh nghiệm và ở trình độ thấp, trong khi ở cấp cao hơn quan hệ giữa các tướng lĩnh Đức-Thổ không phải lúc nào cũng êm đẹp. Tất nhiên ngoài Mustafa Kemal Pasha, quân đội Thổ cũng có những tướng lĩnh xuất sắc khác nhỏ|[[Enver Pasha]] Sultan Mehmed V (1909-1918) là chỉ huy tối cao của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ trong thế chiến thứ nhất. Bộ trưởng bộ chiến tranh, Enver Pasha nắm quyền quyết định và đề ra chính sách quân sự.

Nói chung, các sư đoàn thường xuyên không đủ quân số; trong khi vũ khí tương đối hiện đại thì được cung cấp bởi Đức, phần còn lại là mẫu của thế kỉ trước đã lỗi thời. Do vậy quân trang quân dụng luôn thiếu thốn cả về chất lượng và số lượng từ quân phục đến đạn dược.

Tổng số khoảng 3,5 triệu người đã tham gia phục vụ trong cuộc chiến, ước tính có hơn 500.000 người chết, 891.000 thương, 240.000 bệnh và khoảng 750.000 được cho là đã đào ngũ hoặc mất tích.

Hội đồng quân sự Đức Sự có mặt của sĩ quan Đức quá ít để có thể bù đắp những nhược điểm về kỹ thuật và chiến thuật của quân đội Ottoman (đến năm 1917 có khoảng 800) có mặt tại Thổ Nhĩ Kỳ, phần lớn ở khâu kỹ thuật. Một số các đơn vị Đức tham gia phòng thủ bán đảo Gallipoli, và tham gia đội quân Yilderim ở chiến trường Palestine.

Không quân Là một thành viên trong khối Trung tâm và tham chiến sau, quân Ottoman không có binh chủng không quân và một số phi đội được thành lập, với chiến đấu cơ và phi công của Đức.

Hải quân Hạm đội Ottoman là một hỗn hợp các mẫu chiến hạm lạc hậu và gần như không tồn tại và hoạt động đúng nghĩa. Họ có đặt Anh đóng hai chiến hạm mới, xong phía Anh từ chối giao hàng. Cuối cùng, phía Đức gửi hai tuần dượng Goeben và Breslau, sau đó đổi tên thành Yavuz và Midilli. Tuy trên danh nghĩa là tàu Thổ nhưng thủy thủ vận hành vẫn là người Đức.

Trong suốt thế chiến thứ nhất, hạm đội Thổ tập trung tấn công thuyền buôn và pháo kích các vị trí ven biển của Nga. Do hạm đội Nga ở biển Đen và hạm đội đồng minh ở Địa Trung Hải áp đảo về số lượng nên phía Thổ hạn chế giao tranh, nên khu vực này khá yên tĩnh:không có các chiến dịch hải quân lớn trừ thủy chiến và truy lùng trên quy mô nhỏ.

Mặt trận Kavkaz

Những nhà lãnh đạo như Enver Pasha tin tưởng vào sức mạnh quân sự của Đức đảm bảo một chiến thắng tất yếu cho họ, và đế quốc Ottoman có thể giành chiến thắng nhanh chóng, cướp lại phần lãnh thổ mất vào tay Nga trong cuộc chiến tranh Nga-Thổ 1877-78. Tư tưởng chủ quan lúc bấy giờ là 'chiến tranh kết thúc trước giáng sinh'.

Quân đội Ottoman ở khu vực gồm quân đoàn 2 và 3, khoảng 100-190.000 người, tuy nhiên trang bị kém, đặc biệt cho chiến dịch tấn công giữa mùa đông.

Thành phần sắc tộc chủ yếu ở đây là người Armenia theo Chính thống giáo có cảm tình với người Nga và muốn thành lập quốc gia riêng của họ. Khi chiến tranh nổ ra, họ thành lập quân đội tình nguyện và du kích, chiến đấu dưới sự chỉ huy của tướng Nga. Năm 1914 Sau những cuộc đụng độ ban đầu, quân Thổ Nhĩ Kỳ chịu thất bại nặng nề trong Trận Sarikamis mất hơn 75.000 người. Đồng thời một lực lượng nhỏ quân Ottoman tiến vào Ba Tư (Iran ngày nay), nhưng nhanh chóng rút lui trở lại.

Năm 1915 Cả hai phe tấn công và phản công liên tục, và không thực sự giải quyết hoàn toàn nhau.

Năm 1916 Quân Nga mở chiến dịch tấn công trong mùa đông, gây bất ngờ cho quân Thổ và giành chiến thắng tại Trận Erzurum và buộc quân Ottoman phải rút lui.

Mustafa Kemal đến và tái chiếm Must và Bitlis, xong không xoay chuyển thế cục. Quân Ottoman chiến dịch tấn công Erzican, xong thất bại và chuyển sang củng cố chiến tuyến của họ.

Năm 1917 Cuộc cách mạng Nga chấm dứt toàn bộ các chiến dịch quân sự của Nga. Áp lực từ quân Anh ở Palestine và Lưỡng Hà gia tăng nên các đơn vị ở đây được điều động đi tiếp ứng các khu vực trên.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế
Bài này nói về **Biên niên sử của Đế quốc Ottoman** (1299-1922). Xem thêm bài Biên niên sử Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, để biết về biên niên sử của nhà nước hậu thân của
**Thời kì Ai Cập thuộc Ottoman** bắt đầu năm 1517 sau cuộc chinh phạt Ai Cập của đế quốc Ottoman. Đứt quãng vào năm 1831 đến 1849.Thời kỳ này được coi là chấm dứt vào
phải|nhỏ| Doanh trại của Anh trên [[sông Nile. ]] **Lịch sử Ai Cập thuộc Anh** kéo dài từ năm 1882, khi Ai Cập bị quân đội Anh chiếm đóng trong Chiến tranh Anh-Ai Cập, cho
**Chiến tranh đảo Crete** (, ), còn được gọi là **Chiến tranh Candia** () hay **Chiến tranh Ottoman–Venezia lần thứ năm**, là một cuộc xung đột kéo dài từ năm 1645 đến năm 1669 giữa
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Đế quốc Anh** () bao gồm các vùng tự trị, thuộc địa được bảo hộ, ủy thác và những lãnh thổ khác do Khối liên hiệp Anh và các quốc gia tiền thân của nó
**Chiến tranh Krym** (tiếng Nga: Крымская война hoặc Восточная война, chuyển tự: _Krymskaja wojna_ hoặc _Wostotschnaja wojna_, tiếng Anh: _Crimean War_) bắt đầu từ năm 1853 và chấm dứt năm 1856, giữa hai lực lượng
:**_Thổ hoàng** đổi hướng đến trang này, xem các nghĩa khác tại thổ hoàng (màu sắc) và làng Thổ Hoàng_ ## Bộ máy hành chính Từ năm 1299 đến 1922, các vua nhà Ottoman cai
**Đại Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ** (, viết tắt là **TBMM**) là cơ quan lập pháp của Thổ Nhĩ Kỳ theo Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ. Đại Quốc hội được thành lập vào ngày 23
**Chiến tranh Ý – Thổ Nhĩ Kỳ** hoặc chiến tranh **Ý – Ottoman** hay **Chiến tranh giành lấy Libya** (Thổ Nhĩ Kỳ: Trablusgarp Savaşı, Ý: Guerra di Libia, "War of Libya") là cuộc chiến giữa
**Chiến tranh Ottoman-Safavid (1623 – 1639)** là cuộc chiến cuối cùng trong một chuỗi chiến tranh giữa đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) và đế quốc Safavid (Ba Tư), hai quốc gia hùng mạnh nhất
**Thân vương quốc Bulgaria** (, _Knyazhestvo Balgariya_), là một quốc gia chư hầu của Đế chế Ottoman, nhưng độc lập trên thực tế. Nó được thành lập theo Hiệp ước Berlin năm 1878. Sau khi
**Sự phân chia Đế quốc Ottoman** (Đình chiến Mudro, ngày 30 tháng 10 năm 1918 - Sự bãi nhiệm của Vương quốc Hồi giáo Ottoman, ngày 1 tháng 11 năm 1922) là một sự kiện
[[Quốc kỳ Đế quốc Áo-Hung trong Chiến tranh thế giới thứ nhất]] Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Áo-Hung là nước thuộc khối quân sự Liên minh Trung tâm gồm Đế quốc
Dù **Ai Cập** là một lãnh thổ Ottoman từ thời gian chiến tranh Mamluk, năm 1805 có ông Muhammad Ali gốc Albania (Mehmet trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ) trở thành tổng trấn, đấu một chiến
**Trận Çatalca lần thứ nhất**, còn gọi là **Trận Chataldja**, diễn ra từ ngày 17 cho tới ngày 18 tháng 11 năm 1912, Trận đánh mở đầu với ý đồ của hai Tập đoàn quân
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Quốc hội Albania** () hay **Kuvendi** là cơ quan lập pháp đơn viện của Albania, gồm ít nhất 140 nghị sĩ dân cử được bầu ra theo nguyên tắc trực tiếp, phổ thông đầu phiếu,
Nagorno-Karabakh hiện tại là một nước Cộng hòa độc lập trên thực tế, nhưng trên lý thuyết vẫn là một phần của Cộng hòa Azerbaijan. Cuộc **chiến tranh Nagorno-Karabakh** là cuộc xung đột vũ trang
phải|thumb|[[Nhà Achaemenes|Đế quốc Achaemenes với lãnh thổ vắt qua 3 châu lục.]] **Đế quốc** là một nhà nước lớn mạnh, có tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng, thống trị nhiều vùng lãnh thổ rộng
**Trận Krithia lần thứ ba** là một trận đánh trong Chiến dịch Gallipoli của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra vào ngày 4 tháng 6 năm 1915. Trong trận đánh này, quân
**Chiến dịch România** là một chiến dịch trên chiến trường Balkan thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, trong đó Vương quốc Romania và Đế quốc Nga liên kết với nhau chống lại quân đội
**Quốc kỳ Albania** (tiếng Albania: _Flamuri i Shqipërisë_) là một lá cờ có nền đỏ với một con đại bàng đen hai đầu ở trung tâm. Đó là quốc kỳ có hai màu đỏ và
**Thân vương quốc Liên hiệp Moldavia và Wallachia** là tên chính thức của liên minh cá nhân mà sau này trở thành România, được thành lập vào năm 1859 khi Alexandru Ioan Cuza được bầu
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Đế quốc Ottoman** còn được gọi là **Đế quốc Osman** (; **', ; or **'; ) hay **Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ**, là một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
Bài này là một tổng quan về **lịch sử Trung Đông**. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận
**Lịch sử của Bulgaria** có thể được bắt nguồn từ các khu định cư đầu tiên trên vùng đất của Bulgaria hiện đại cho đến khi hình thành quốc gia và bao gồm lịch sử
**Eugène de Savoie-Carignan** (18 tháng 10 năm 1663 – 21 tháng 4 năm 1736), hay **François Eugène de Savoie**, thường được biết đến với biệt danh **Hoàng thân Eugène** (, , ), là một lãnh
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Vương quốc Bulgaria** () cũng gọi là **Sa quốc Bulgaria** và **Đệ Tam Sa quốc Bulgaria**, là một chế độ quân chủ lập hiến ở Đông và Đông Nam châu Âu, được thành lập vào
**Hãn quốc Krym**, tự gọi là **Ngôi vương Krym và Desht-i Kipchak**, và trong thuật chép sử và địa lý châu Âu gọi là **Tiểu Tartary**, là một nhà nước Tatar Krym tồn tại từ
thumb|Các khu định cư cổ đại tại Krym và khu vực xung quanh thumb|Đồng xu từ [[Chersonesus biểu thị Artemis, hươu, bò, dùi cui và bao đựng tên ()]] Lịch sử thành văn của bán
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba
[[Phù hiệu áo giáp năm 1495 trở thành quốc huy Croatia đương đại.]] Những dấu hiệu sớm nhất của chính thể Croatia biệt lập được cho là thế kỷ VII sau Công Nguyên, nhưng phải
**Sự can thiệp quân sự của nước ngoài vào Nga** () bao gồm một loạt các cuộc viễn chinh quân sự đa quốc gia bắt đầu từ năm 1918. Động lực ban đầu đằng sau
**Mustafa Kemal Atatürk** (; ( 19 tháng 5 năm 1881 – 10 tháng 11 năm 1938) là một sĩ quan quân đội, nhà cách mạng, và là quốc phụ cũng như vị Tổng thống đầu
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
**Hungary** là một quốc gia ở Trung Âu. Lịch sử của nó theo tên này từ thời đầu Trung cổ, khi các lưu vực sông Pannonian bị những người Magyar chinh phục. Các vương quốc
**Quốc gia hetman Cossack** (; , hay _Nhà nước Cossack_), tên chính thức là **Quân đoàn Zaporizhia** (; ), là một nhà nước của người Cossack nằm tại Trung Ukraina. Nhà nước này tồn tại
**Lịch sử thành phố Beograd** truy ngược về 7.000 năm trước Công nguyên kéo dài cho tới ngày nay khi Beograd giữ vị trí thủ đô Serbia. Văn hóa Vinča, một trong những nền văn
**Đại chiến Bắc Âu** là tên các sử gia gọi cuộc chiến từ năm 1700 đến năm 1721 giữa Thụy Điển với liên minh của Nga, Đan Mạch, Sachsen (Đức) và Ba Lan; từ năm
**Trận Poltava** (, ), còn gọi là **Trận đánh Pultowa**, là trận đánh lớn diễn ra vào ngày 27 tháng 6 năm 1709 theo lịch Julius giữa hai đoàn quân hùng hậu: Quân đội Nga
**Đế quốc Bồ Đào Nha** () là đế quốc ra đời sớm nhất và kéo dài nhất trong lịch sử những đế quốc thực dân Châu Âu, kéo dài gần 6 thế kỷ, bắt đầu