✨Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư

Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư

Cuộc Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ ngày 4 tháng 7 năm 1941 và kết thúc ngày 25 tháng 5 năm 1945. Ban đầu nó do các đội du kích nhỏ của Đảng Cộng sản Nam Tư, một số lực lượng dân tộc chủ nghĩa Nam Tư tiến hành. Trong quá trình chiến tranh, lực lượng du kích Chetniks đã rời bỏ mục tiêu chống phát xít. bắt tay với quân đội Đức Quốc xã, quân chiếm đóng Ý, quân Chính phủ cứu nguy dân tộc Serbia và quân Quốc gia Độc lập Croatia (Ustaše) chống lại quân du kích. Giống như cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô, cuộc Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư cũng kéo dài và đẫm máu. Tuy nhiên, Quân giải phóng nhân dân Nam Tư ở vào vị thế khó khăn hơn rất nhiều do quân Đức chiếm ưu thế lớn về binh lực, chiếm ưu thế gần như tuyệt đối về xe tăng, máy bay và vũ khí hạng nặng. Từ năm 1941 đến năm 1943, quân đội Đức Quốc xã đã tổ chức ba cuộc tổng tấn công vào Quân giải phóng nhân dân Nam Tư nhưng không thể tiêu diệt được Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Nam Tư, Bộ Tổng tư lệnh Quân giải phóng nhân dân Nam Tư và Tổng tư lệnh Josip Broz Tito. Ngược lại, Quân giải phóng nhân dân Nam Tư càng tiến hành chiến tranh nhân dân, càng phát triển lực lượng, dần dần lập lại được thế cân bằng trên chiến trường vào đầu năm 1944.

Cuối năm 1943, quân Đồng Minh Anh, Mỹ đã chiếm được một nửa nước Ý và có nhiều căn cứ không quân tại Ý. Quân đội Ý rút khỏi Nam Tư. Mùa hè năm 1944, quân đội Liên Xô tiến ra biên giới quốc gia ở nhiều nơi và bắt đầu các hoạt động quân sự trợ giúp công cuộc giải phóng khỏi chế độ phát xít của nhân dân các nước Đông Âu và Trung Âu. Không quân chiến lược tầm xa của Liên Xô cũng có một căn cứ trên đảo Vis của Nam Tư trên biển Adriatic. Từ đó, việc tiếp tế vũ khí, đạn dược, trang thiết bị quân sự, thuốc men, thực phẩm của Liên Xô và các nước đồng minh cho Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư được tiến hành thuận lợi, thường xuyên với khối lượng ngày càng lớn, giúp cho quân đội này ngày càng phát triển lớn mạnh và đẩy quân đội Đức vào thế phòng ngự bị động. Không đánh bại được Quân giải phóng nhân dân Nam Tư, Adolf Hitler lệnh cho tướng Otto Skorzeny huy động lực lượng biệt kích dù SS và quân đổ bộ đường không của Đức tổ chức Chiến dịch "Hiệp sĩ" nhằm bắt sống J. B. Tito và Bộ tham mưu Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư cùng phái đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Nam Tư do tướng N. V. Korneyev chỉ huy. Sáng 25 tháng 5 năm 1944, hơn 350 biệt kích Đức sử dụng dù và tàu lượn đổ bộ xuống Drvar để vây bắt Thống chế Tito cùng các đồng sự. Tuy nhiên, Tiểu đoàn cảnh vệ Nam Tư và các học viên trường sĩ quan của Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư đã kịp thời phát hiện và chặn đánh biệt kích Đức, bảo vệ cho J. B. Tito và các cộng sự của ông rút lui an toàn. Chiến dịch Hiệp sĩ của quân Đức thất bại.

Cuối năm 1944, Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư phối hợp với Phương diện quân Ukraina 3 và Quân đội Bulgaria (lúc này đã quay súng chống lại quân đội Đức Quốc xã) mở một loạt chiến dịch quan trọng tại Beograd, Nish, Skople, Sarajevo, Zagreb và Lyubiana, giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Nam Tư và một phần lãnh thổ đông bắc Ý. Được thắng lợi của những người cộng sản Nam Tư cổ vũ, các đội du kích do Đảng Lao động Albania lãnh đạo cũng tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân giải phóng Albania, đánh bại Liên quân Đức-Ý, giải phóng hoàn toàn Albania.

Ngày 15 tháng 5 năm 1945, tại làng Poljana diễn ra trận đánh lớn cuối cùng của Quân giải phóng nhân dân Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai, buộc tàn quân Đức Quốc xã và các lực lượng dân tộc cực đoan thân Đức phải hạ vũ khí đầu hàng. Chiến thắng của Quân giải phóng nhân dân Nam Tư do Đảng Cộng sản Nam Tư lãnh đạo đã dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư gồm 6 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa thành viên và 2 tỉnh xã hội chủ nghĩa tự trị.

Bối cảnh

Vương quốc Nam Tư trước chiến tranh

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, trên cơ sở Hòa ước Versailles về phân chia lại các vùng lãnh thổ do Đế quốc Áo-Hung chiếm giữ trước đó, tháng 12 năm 1918, Vương quốc Nam Tư được thành lập bao gồm các vùng lãnh thổ, Serbia, Bosnia và Hersegovina, Macedonia, Montenegro cùng một phần lớn lãnh thổ của Croatia và Slovenia. Đứng đầu vương quốc là Nhiếp chính vương Aleksandr I của Nam Tư và Thượng hội đồng Quốc gia có chức năng như quốc hội lập hiến. Ngày 28 tháng 6 năm 1921, Hội đồng nhà nước ban hành Hiến pháp của Nam Tư (còn gọi là Hiến pháp Vidovdan). Tuy nhiên, từ năm 1921 đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai trong nội bộ Vương quốc Nam Tư thường xảy ra mâu thuẫn nội bộ do tranh chấp đất dai giữa các vùng lãnh thổ. Tất cả các chủ thể của Vương quốc Nam Tư đều có trang chấp lãnh địa với các chủ thể còn lại.

Đức Quốc xã và đồng minh của Đức chiếm đóng Nam Tư

Đức Quốc xã và các đồng minh của Đức chia nhau lãnh thổ của Nam Tư

Ngày 23 tháng 3 năm 1941, Thủ tướng Nam Tư Dragisa Cvetkovic và Bộ trưởng ngoại giao Aleksandr Chinchar-Markovic với sự chỉ đạo của Hoàng tử Pavel Karadjordjevic đã ký kết văn bản tham gia Hiệp ước Thép, đưa Nam Tư chính thức đứng trong hàng ngũ các thế lực phát xít. Việc Nam Tư tham gia "Hiệp ước Thép" đã gây sự phẫn nộ trong dân chúng Nam Tư. Người Serbia cho rằng đó là "Hiệp ước của những con chuột cống lớn". Họ xuống đường biểu tình và gây ra các cuộc bạo loạn. Ngày 27 tháng 3, một nhóm bộ trưởng có tư tưởng thân Liên Xô được sự ủng hộ của Thế tử Pyotr Karadjordjevic đệ nhị đã tổ chức một cuộc đảo chính lật đổ Hoàng tử Pavel Karadjordjevic và chính phủ của Dragisa Cvetkovic, ký kết một hiệp ước đồng minh với Liên Xô. Tức giận trước sự việc Nam Tư dám chống lại mình, Adolf Hitler ra Chỉ thị số 25, lệnh cho quân đội Đức Quốc xã phải chiếm đóng Nam Tư trước tháng 6 năm 1941. Ngày 6 tháng 4 năm 1941, quân đội Đức Quốc xã có quân đội Ý, Hungary và Bulgaria trợ giúp đã xâm lược Nam Tư. Quân đội Nam Tư mặc dù có đến 30 sư đoàn và hơn 20 lữ đoàn, trung đoàn độc lập nhưng với trang bị kém và bị chia rẽ trong nội bộ nên đã không thể chống cự được lâu dài. Ngày 12 tháng 4, Beograd thất thủ. Ngày 17 tháng 4 năm 1941, Bộ chỉ huy quân đội Nam Tư ký biên bản đầu hàng vô điều kiện. Thái tử Pyotr Karadjordjevic đệ nhị cùng triều đình Nam Tư chạy trốn qua Hy Lạp, sau đó bỏ trốn sang Cairo (Ai Cập).

Trong lúc Nam Tư đang bị xâm lược thì ngày 10 tháng 4 năm 1944, những người Croatia do Ante Pavelić và Slavko Kvaternik cầm đầu đã tuyên bố li khai, thành lập nhà nước Croatia thân Đức. Đích thân Ante Pavelić đã đến Berghof gặp Hitler để ký vào "Hiệp ước thép", đưa Croatia đứng về phía nước Đức Quốc xã. Ngày 11 tháng 4, quân đội Đức Quốc xã đã đưa chính phủ bù nhìn của Ante Pavelić và Slavko Kvaternik về Zagreb. Tại Beograd, nước Đức Quốc xã cũng lập ra một chính phủ bù nhìn do Milan Nedić lãnh đạo. Chính phủ này buộc phải ký kết nhiều hiệp ước bất bình đẳng với nước Đức Quốc xã và các đồng minh của nó. Lãnh thổ Nam Tư bị xâu xé. Phát xít Ý chiếm đóng vùng nam Slovenia và thiết lập chế độ bảo hộ trên toàn bộ xứ Montenegro, Đức Quốc xã tước đi của Nam Tư vùng bắc Slovenia, bao gồm cả Ljubliana. Hungary sáp nhập tỉnh Vojvodina vào lãnh thổ của mình. România chiếm đóng vùng Banat. Bulgari chiếm đóng phần Đông lãnh thổ Macedonia, vùng Đông Nam Serbia và tỉnh Kosovo. Albania cũng được chia phần phía tây xứ Macedonia. Chính phủ bù nhìn của Milan Nedić chỉ còn cai quản phần lãnh thổ còn lại của Serbia xung quanh Beograd và hoàn toàn phụ thuộc vào người Đức giồng như chính phủ của Ante Pavelić ở Zagreb.

Chuẩn bị chiến tranh du kích

Josep Broz Tito, Tông tư lệnh Quân giải phóng nhân dân Nam Tư. (Ảnh chụp năm 1942 tại Bihac)

Ngay từ năm 1938, Đảng Cộng sản Nam Tư đã cảnh báo chính quyền của nhà vua Pavel đệ nhất về nguy cơ xâm lược của nước Đức Quốc xã sau khi nước này thôn tính Áo và Tiệp Khắc. Nguy cơ đó ngày một rõ rệt hơn khi nước Đức xâm lược Ba Lan năm 1939 và đánh bại nước Pháp trong một cuộc chiến với cả hai đồng minh Pháp và Anh. Cuối năm 1940, trước nguy cơ xâm lược của nước Đức Quốc xã đã cận kề, một Ủy ban quân sự trực thuộc Ban chấp hàng trung ương Đảng Cộng sản Nam Tư (KPJ) đã được thành lập với chuẩn bị lực lượng kháng chiến và thiết lập mối liên lạc với các sĩ quan có tư tưởng chống phát xít trong quân đội Nam Tư cũng như các chính trị gia trong Hoàng tộc và chính phủ Nam Tư. Đảng Cộng sản Nam Tư phản đối mạnh mẽ hành động đứng về phe phát xít của chính phủ Dragisa Cvetkovic, đã chỉ đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Nam Tư tổ chức các cuộc biểu tình chống phát xít và tham gia vào cuộc đảo chính lật đổ chính phủ của Dragisa Cvetkovic. Ngay sau cuộc đảo chính, KPJ đã tìm mọi cách để cùng với chính phủ mới tổ chức phòng thủ đất nước, giải phóng các tù chính trị và yêu cầu Bộ Quốc phòng Nam Tư trang bị vũ khí cho công nhân và thanh niên để sẵn sàng đối phó với cuộc xâm lược sẽ xảy ra.

Bản đồ vùng đóng quân của Đức Quốc xã và lực lượng vũ trang các nước thân Đức chiếm đóng Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai

Sau khi Beograd thất thủ, trước tình thế khó có thể đảo ngược, ngày 15 tháng 4 năm 1941, tại Zagreb, Bộ Chính trị KPJ đã họp hội nghị bí mật quyết định tổ chức chiến tranh du kích chống lại quân Đức Quốc xã và các đồng minh của nó đang xâm lược Nam Tư. Hội nghị đã bầu Tổng bí thư Đảng Josip Broz Tito làm Chủ tịch Ủy ban quân sự cách mạng. Hội nghị đã quyết định về việc chuẩn bị tổng khởi nghĩa chống quân chiếm đóng Đức, Ý. Tuyên cáo ra ngày 1 tháng 5 năm 1941 của Uỷ ban quân sự cách mạng nên rõ: Các tổ chức Đảng Cộng sản sẽ lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù của nhân dân Nam Tư cũng như những thế lực phản bội theo đuôi phát xít. Việc tổ chức khởi nghĩa sẽ tập hợp một cách rộng rãi nhất tất cả mọi tầng lớp dân chúng, không kể sự khác biệt về chính trị, tôn giáo, dân tộc chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là giải phóng đất nước. Giữa tháng 5, Josip Broz Tito và một số thành viên Bộ Chính trị KPJ đã chuyển từ Zagreb về hoạt động tại Beograd, nơi được chọn làm trung tâm của cuộc khởi nghĩa. Từ giữa tháng 6 đến giữa tháng 6 năm 1941, Ủy ban quân sự cách mạng đã thành lập các chi đội du kích vũ trang, các phân đội hoạt động tình báo và phá hoại ngầm. Các tổ chức vũ trang bí mật của Nam Tư đã đẩy mạnh tích trữ vũ khí, đạn dược, phương tiện, vật tư y tế, đóng quân tại những vị trí có tầm khống chế mạnh và dễ dàng cơ động. Rút kinh nghiệm sự thất bại của nước Cộng hòa Tây Ban Nha và sự thất bại của nước Pháp năm 1940, công tác phản gián được Ủy ban Quân sự cách mạng coi trọng kể cả từ phía các nước đang xâm lược Nam Tư cũng như từ phía các chính phủ bù nhìn thân Đức ở Serbia và Croatia.

Ngày 22 tháng 6 năm 1941, quân đội Đức Quốc xã bất ngờ tấn công Liên Xô. Bộ Chính trị KPJ đã họp khẩn cấp và ra lời kêu gọi gửi nhân dân Nam Tư, hô hào họ đứng lên chống lại quân xâm lược. Ngày 27 tháng 6, Bộ Chính trị KPJ quyết định thành lập Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư, Josip Broz Tito được cử làm Tổng tư lệnh. Ngày 4 tháng 7 năm 1941. tại nhà riêng của Vladislav Ribnikar, một trong các Ủy viên Bộ chính trị KPJ tại Beograd, Hội nghị về Tổng khởi nghĩa tại Nam Tư đã được các thành viên hội nghị gồm Josip Broz Tito, Aleksandr Rankovic, Milovan Djilas, Svetozar Vukmanović Tempo, Ivo Lola Ribar, Sreten Žujović và Ivan Milutinovic thông qua. Các thành viên của Ủy ban trung ương KPJ đã tỏa về các đơn vị để chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai, đây là cuộc khởi nghĩa lớn có tổ chức đầu tiên nổ ra trong vùng quân phát xít chiếm đóng ở châu Âu.

Năm 1941

Các chiến dịch tấn công của du kích

Ngày 7 tháng 7 năm 1941, khởi nghĩa bắt đầu nổ ra ở làng Bela Tserkva thuộc Serbia, cuộc xung đột đầu tiên nổ ra giữa đội du kích Radevačke do Jovanovic Žikice chỉ huy, kéo dài đến hết tháng 7.

Tại Montenegro, quân du kích đã lựa chọn ngày khởi sự vào đúng ngày 12 tháng 7, ngày mà chính phủ bù nhìn thân Ý ở Montenegro tuyên bố li khai. Milovan Djilas, chỉ huy du kích ở Montenegro (sau này là một chính trị gia của Nam Tư) đã quyết định "cảm ơn" người Ý theo cách riêng của họ, đó là tấn công vũ trang đánh thẳng buổi lễ tuyên bố li khai của Montenegro (người Serb gọi là Chernogoria). Vài ngày sau, các cuộc đụng độ lan ra khắp các thành phố ở Montenegro. Chiến sự diễn ra ác liệt nhất tại cảng Dubrovnic. Trong một tuần sau đó, quân phát xít Ý bị mất hơn 4.000 người chết, bị thương và bị bắt, đã không thể chống lại quân du kích để khôi phục tại tình hình ở Montenegro và quân khởi nghĩa Nam Tư đã chiếm lại hầu hết các thành phố, trừ khi vực Dubrovnic. Đầu tháng 9 năm 1941, Phát xít Ý rút các quân bộ binh thông thường về nước và gửi sang các sư đoàn bộ binh sơn chiến, trong đó có Sư đoàn 8 Alpino thiện chiến. Tháng 10 năm 1941, quân khởi nghĩa Montenegro bị thiệt hại đáng kể và phải rút lên vùng núi Plevlya tiếp tục chiến tranh du kích. Mặc dù cuộc nổi dậy không thành công nhưng đã ngăn chặn việc Montenegro tuyên bố li khai và giành được một thắng lợi chiến lược trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến.

Tại Slovenia, quân khởi nghĩa tại Gorenitska và Shtajerska bắt đầu khởi sự vào ngày 22 tháng 7. Đến đầu tháng 8, phong trào du kích dã lan ra khắp lãnh thổ Slovenia.

Tại Bosnia và Herzegovina, cuộc khởi nghĩa bắt đầu ngày 27 tháng 7 khi quân Ustaše của chính phủ bù nhìn của Ante Pavelic bắt đầu bắn giết người Serb. Nhiều cuộc đụng độ đã nổ ra trên khắp lãnh thổ Bosnia và Herzegovina.

Tại Croatia, ngay từ ngày 22 tháng 6, đội du kích Croatia đầu tiên do Sisak chỉ huy đã được thành lập. Ngày 27 tháng 7, quân du kích tấn công đồng loạt vào các khu vực Lika, Korduna, Banija và Slavonia. Cuối tháng 8, họ rút về Dalmatia và Gorska.

Tại Macedonia, cuộc khởi nghĩa nổ ra muộn hơn do thái độ lừng chừng của Metodija Shtorov, chỉ huy đội du kích Prilev khi ông này không chịu hành động chung với những người cộng sản Nam Tư. Tuy nhiên, đến đầu tháng 10 năm 1941, khi Lazar Kolishevsky bắt đầu nắm quyền chỉ huy thì phong trào du kích ở đây bắt đầu phát triển với ba đội du kích được thành lập. Metodija Shtorov bị loại ngũ. Ngày 11 tháng 10, quân du kích tấn công thành phố Prilep, gây cho quân Bulgaria thân Đức nhiều thiệt hại.

Sự hình thành vùng giải phóng Uzhiče

Lãnh thổ nước Cộng hòa Uzhiče (màu xanh), vùng giải phóng lớn nhất ở Nam Tư trong thu đông năm 1941

Sau các chiến dịch trong mùa hè năm 1941, quân du kích Nam Tư đã kiểm soát được một số vùng tương đối rộng lớn nằm rải rác khắp đất nước. Vùng giải phóng lớn nhất được gọi là nước Cộng hòa Uzhiče với trung tâm là thành phố Uzhiče. Vùng này nằm trên lãnh thổ của Serbia (phía tây), Bosnia-Herzegovina (Đông Nam) và gần như toàn bộ lãnh thổ Montenegro. Bao bọc vùng này có các con sông Drina, Sava, Beograd, Smeredevo và Nam Morava. Ngoài trung tâm là Uzhice, trong vùng giải phóng này còn có các thành phố Chachak, Gornji Milanovats, Krumanji, Loznitsa, Bajinitsa và Pozhega, các thị trấn Shapts, Valijevo, Kraljevo, Kragujevač và một số vùng dọc theo tuyến đường sắt Beograd - Nish. Tất cả các thành phố và thị trấn này đều trở thành các căn cứ do các đơn vị du kích Nam Tư đóng giữ với tổng quân số khoảng 15.000 người. Đến giữa tháng 9 năm 1941, vùng giải phóng này trở thành nơi đóng trụ sở của một bộ phận Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Nam Tư (KPJ), Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng nhân dân Nam Tư và Tổng tư lệnh Josip Broz Tito.

Ngày 26 tháng 9 năm 1941, Hội đồng cố vấn của Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng nhân dân Nam Tư được thành lập tại thị trấn Krupanj thuộc huyện Mačvanski để chỉ đạo cuộc kháng chiến trên toàn lãnh thổ Nam Tư. Tham gia Hội đồng có các ủy viên Bộ chính tri KPJ: Josip Broz Tito, Ivan Milutinovic, Aleksandr Rankovic và Ivo Lola Ribar. Các thành viên đến từ Serbia có Sreten Žujović Črni, Rodoljub Čolaković và Philip Kljajić Fiča. Các thành viên đến từ Rade Konchar và Vlado Popovic. Các thành viên đến từ Slovenia có Franc Leskošek và Miha Marinko. Các thành viên đến từ Bosnia-Herzegovina có Svetozar Vukmanović Tempo và Princip Seljo. Các chỉ huy chủ chốt và chính ủy các đơn vị du kích lớn gồm Kocha Popovic, Nebojsa Jerkovic, Milos Minic, Zdravko Jovanovic và Dragojlo Dudi. Các thành viên của Montenegro do bị chia rẽ nội bộ nên các thành viên đến từ Macedonia gồm Dragan Pavlovic Silja và Lazarus Kolisevski sẽ đại diện cho cả Montenegro. Chủ tịch Hội đồng là Josip Broz Tito. Mặc dù có tên gọi là Hội đồng cố vấn nhưng nó có chức năng như một Hội đồng quốc phòng, quyết định các vấn đề quân sự và chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư trên toàn lãnh thổ.

Cuộc tấn công lần thứ nhất của Liên quân Đức - Ý

Quân Đức tập trung dân thường Serbia tại Kragujevac để hành quyết ngày 21 tháng 10 năm 1941

Sự phát triển của chiến tranh nhân dân ở Nam Tư cuối năm 1941 đã buộc Đức Quốc xã và phát xít Ý phải thi hành những biện pháp quân sự mạnh. Từ ngày 16 tháng 9 năm 1941, quân đội Đức Quốc xã và phát xít Ý đã điều động các sư đoàn bộ binh 113, 125, 164, 342, 718, Lữ đoàn cảnh sát dã chiến 18 (Đức), Sư đoàn bộ binh 2 và Trung đoàn cảnh sát biên phòng (Ý) gồm khoảng 80.000 quân để tấn công vùng giải phóng Uzhiče do 15.000 quân du kích Nam Tư đóng giữ. Tham gia cuộc càn quét còn có các đơn vị đặc biệt của Quân đội Quốc gia Ustaše Croatia và lực lượng Chetnik. Tất cả được đặt dưới sự chỉ huy của tướng Franz Böhme, dưới quyền viên tướng này là Ante Pavelic, thủ tướng bù nhìn Croatia; Milan Nedić, thủ tướng chính phủ bù nhìn Serbia và Draža Mihailović, thủ lĩnh lực lượng Chetnik.

Ngày 28 tháng 9, Sư đoàn bộ binh 342 (Đức) tấn công Liên đội du kích Mačvanski do Nebojsa Jerkovic chỉ huy đang phòng thủ khu vực phía bắc và phía đông của tuyến Loznica, Valjevo, Kragujevac và Kraljevo. Với quân số chỉ có hơn 700 người, Liên đội Mačvanski buộc phải phân tán lực lượng để luồn tránh các đợt tấn công trực diện của bộ binh Đức, có pháo binh và không quân yểm hộ. Trong 2 tháng, Liên đoàn Mačvanski đã đánh hơn 30 trận phục kích, tập kích vào các điểm đóng quân của quân Đức và các tuyến đường giao thông tại Valjevo-Loznica, Obrenovac, Rudniča, Kragujevac và Kraljevo. Cuối tháng 10 năm 1941, khi quân Đức chiếm được tuyến Loznica, Valjevo, Kragujevac và Kraljevo thì Liên đoàn Mačvanski đã rút lui sang hoạt động tại vùng Mačva, miền trung Serbia. Không tiêu diệt được Liên đoàn du kích Mačvanski, quân Đức trút giận lên đầu người dân Serbia. Thị trấn Krupanj và nhiều làng mạc bị đốt trụi, 1.968 dân thường bị bắn giết, 22.558 người khác bị đưa vào các trại tập trung. Mặc dù Draža Mihailović từng tuyên bố: "Kẻ thù của chúng tôi là những người Croatia, bọn Hồi giáo và bọn cộng sản", thế nhưng giờ đây, lực lượng của ông ta lại bắt tay với quân đội Ustaše để chống lại lực lượng du kích của Đảng Cộng sản Nam Tư và cũng nhúng tay vào các vụ thảm sát dân thường Serbia. Trong các ngày 20 và 21 tháng 10, tại Kragujevac, quân Đức và quân Ustaše đã thảm sát gần 7.000 người Serb, trong đó có hàng trăm học sinh trung học và các giáo viên. Cũng trong ngày này, tại Kraljevo, gần 2.000 người Serb đã bị quân Đức và quân Chetnik giết chết.

Quân đội Đức Quốc xã chuẩn bị xử bắn hơn 60 du kích Nam Tư tại Smederevska Palanka thuộc Serbia, ngày 20 tháng 8 năm 1941

Các cuộc thảm sát do quân Đức tiến hành để trả đũa việc du kích Nam Tư giết chết và làm bị thương hơn 70 lính Đức cũng diễn ra tại thị trấn Shabats ngày 24 tháng 9 năm 1941. Từ năm 1984, một giải bơi Maraton quốc tế hàng năm đã được tổ chức tại đoạn sông Sava chảy qua Shabast dài 18 km và con mương Shabats dài 880 m để tưởng nhớ 2.100 nạn nhân đã bị quân đội Đức Quốc xã sát hại trong cuộc hành quân đẫm máu đó.

Sự kiện nước Cộng hòa Uzhiče bị xóa sổ là một tổn thất lớn về chính trị và quân sự đối với Quân giải phóng nhân dân Nam Tư và phong trào du kích Nam Tư chống phát xít. Tuy nhiên, Liên quân Đức - Ý và các lực lượng thân phát xít ở Nam Tư đã không tiêu diệt được Bộ chỉ huy tối cao Quân giải phóng nhân dân Nam Tư và cơ quan đầu não của Đảng Cộng sản Nam Tư. Mặc dù buộc phải rút lui vào vùng rừng núi Montenegro để bảo toàn lực lượng nhưng từ vùng này, các đơn vị du kích Nam Tư tiếp tục phát triển và lớn mạnh, làm tiền để để tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng Nam Tư khỏi ách chiếm đóng của Đức Quốc xã và phát xít Ý.

Quân Đức tấn công lần thứ hai

Ngày 15 tháng 1 năm 1942, quân đội Đức Quốc xã tại Nam Tư huy động các sư đoàn bộ binh 342, 718, và trung đoàn pháo binh 398 và 399 cùng 12 tiểu đoàn lính Ustaše từ Croatia và Slovenia với tổng quân số khoảng 33.000 người mở một cuộc càn quét lớn vào Montenegro nhằm tiêu diệt các đơn vị Quân giải phóng nhân dân Nam Tư vừa rút từ Tây Serbia sang đây. Quân du kích Nam Tư chỉ còn lại hơn 5.000 người. Họ buộc phải để các lực lượng Chetnick có quân số khoảng 3.000 người chiếm đóng phần đất của họ tại Serbia để tập trung chống lại quân Đức và quân Ustaše. Tuy đóng quân tại phần đất mà Quân giải phóng nhân dân Nam Tư đẻ lại nhưng các lực lượng Chetnick đã không tổ chức tấn công quân Đức. Tuy nhiên, quân Đức vẫn huy động hai trung đoàn bộ binh và một tiểu đoàn xe tăng tấn công quân Chetnick, đánh chiếm các thị trấn Drinyacha, Nova Kasaba và Shekovichi. Quân Chetnick tan vỡ, một phần nhỏ bỏ chạy và nhập vào các đơn vị Quân giải phóng nhân dân Nam Tư. Đa số còn lại hạ vũ khí đầu hàng và được quân Đức thu nạp, trong đó có Dragoljub Mihailović, thủ lĩnh của lực lượng này.

Ngày 17 tháng 1, Lữ đoàn Vô sản 1 tổ chức một trận phục kích quân Ustaše ở làng Petrovic, diệt 138 quân Croatia. Tuy nhiên, trận đánh này không làm thay đổi được tình thế chiến trường. Với những lực lượng mạnh hơn được hỗ trở bởi pháo binh và xe tăng, ngày 18 tháng 1, quân Đức tiếp tục chiếm Bratunac, Sebrenitsa và Vlasenica, quân ngụy Albania cũng chiếm Khan-Pieska. Bộ chỉ huy Quân giải phóng nhân dân Nam Tư phải huy động 2/3 quân số của các đội du kích nhỏ lẻ cố gắng ngăn chặn cuộc tấc công của quân Đức từ phía Visegrad, Sarajevo và Kladno. Ngày 21 tháng 1, quân du kích tổ chức một trận phục kích lớn trên con đường từ Tuzla đi Kladno, đánh thiệt hại nặng trung đoàn 750 thuộc Sư đoàn bộ binh 718 (Đức). Các đội du kích tại Rogarica, Setlin, Mokro và Stuparac cũng chống cự quyết liệt cuộc tấn công của các trung đoàn 398, 738 (Đức) và 4 tiểu đoàn quân Utashi tấn công từ hướng Srajevo và Pale.

Sau một tuần chiến đấu, Lữ đoàn Vô Sản 1 đã bị thiệt hại đáng kể. Tại Penovace và Belic Bodac, Tiểu đoàn 2 bị mất 73 người chết, 11 người bị thương. Tiẻu đoàn 5 cũng mất hơn 120 người chết và bị thương. Để tránh bị bao vây, Bộ Chỉ huy Quân giải phóng nhân dân Nam Tư buộc phải điều Lữ đoàn Vô Sản 1 khỏi khu vực miền Trung Serbia, nơi mà quân Đức đã xâm nhập Glasinac và Jahorin, còn quân Ustaše đã đánh chiếm Foce. Ngày 22 tháng 1, Trung ương KPJ và Bộ chỉ huy NOAJ quyết định rời khỏi Montenegro, chuyển căn cứ đến Bosnia-Herzegovina. Và từ đây, bắt đầu cuộc hành quân gian khổ của Quân giải phóng Nam Tư mang tên "Cuộc hành quân Igman". Cuộc hành quân táo bạo này được ví như cuộc "Tiểu Vạn lý trường chinh" của người Nam Tư để di chuyển đến căn cứ mới, bảo toàn lực lượng tiếp tục chiến đấu chống quân chiếm đóng Đức Quốc xã.

NOAJ chuyển căn cứ đến Bosnia

Xe tăng hạng nhẹ H-39 của quân đội Đức Quốc xã bị lật nhào trong chiến dịch mùa đông 1941-1942 tại Nam Tư

Việc lựa chọn hướng hành quân trở thành một bài toán hóc búa đối với Bộ chỉ huy du kích Nam Tư. Nếu hành quân qua phía tây Sarajevo thì đó là con đường ngắn nhất để đến vùng núi phía bắc Bosnia nhưng cũng là con đường nguy hiểm nhất, Sarajevo là trung tâm của vùng nên phần lớn chủ lực của các sư đoàn bộ binh 342 và 718 (Đức) đều đóng quanh thành phố này. Nếu di chuyển vòng qua phía đông Sarajevo thì trên đường đi, đoàn quân phải vượt sông Bosna đang đóng băng dưới trời rét 30 độ dưới không vì quân Đức đã chiếm giữ tất cả các cây cầu bắc qua con sống này. Con đường này cũng buộc phải đi qua gần sân bay Rajlovac chỉ với khoảng cách 10 km. Đoàn quân rất dễ sa vào các ổ phục kích. Cuối cùng, các chỉ huy Lữ đoàn Vô Sản 1 đứng đầu là Cocha Popovic quyết định chọn con đường mòn qua núi Igman và men theo các cánh rừng bên rìa phía tây đồng bằng Sarajevo. Cuộc hành quân này đã được nhà văn Slobodan Stojanović viết kịch bản và nhà đạo diễn điện ảnh Nam Tư Zdravko Sotra dựng thành bộ phim "Cuộc hành quân Igman" dài 96 phút, khởi chiếu ngày 27 tháng 6 năm 1983.

Các chiến dịch của du kích tại Bosanska Krajina và cuộc tấn công thứ ba của quân Đức

Ngày 1 tháng 3 năm 1942, trên cơ sở các đội du kích đang hoạt động ở miền Đông Bosnia vừa đánh bại các lực lượng Chetnick lúc này đã bắt tay với quân Đức và các đại đội vừa từ tây bắc Montenegro di chuyển đến, Bộ Tổng tư lệnh Quân giải phóng nhân dân Nam Tư quyết định thành lập Lữ đoàn du kích Vô sản 2. Lữ đoàn gồm các tiểu đoàn Cajnice, Uzice, Cacak và Sumadia với quân số khoảng 1.000 người. Lo ngại trước sự phát triển của phong trào du kích, ngày 3 tháng 3 năm 1942, tại Opatija, liên quân Đức - Ý đã thống nhất một kế hoạch hành động chung để dập tắt các hoạt động du kích do Đảng Cộng sản Nam Tư lãnh đạo, dự định khởi sự ngày 15 tháng 3 với binh lực tập trung gồm 3 sư đoàn được gọi là Cụm tác chiến Bader. Tuy nhiên, so sự chậm chạp của Sư đoàn bộ binh sơn chiến 9 (Ý), hai lữ đoàn du kích Nam Tư không những không bị tiêu diệt mà còn luồn sâu vào hậu phương của liên quân Đức - Ý, đánh phá một số cơ sở hậu cần, phục kích các đoàn xe tải, lật đổ các đoàn tàu hỏa của quân Đức và quân Ý. Trong tháng 3 và tháng 4 năm 1942, các lữ đoàn Vô Sản 1 và 2 đã giải phóng hai khu vực Borač và Kalinovik, nối liền hai khu giải phóng này với vùng hoạt động của các lực lượng du kích tại Montenegro và Herzegovina.

Lữ đoàn Du kích Vô Sản 4 (Nam Tư) mang tên "Lữ đoàn xung kích Montenrgro 1" tại Jajce

Ngày 5 tháng 6 năm 1942, trên có sở các đại đội du kích còn đang hoạt động ở Montenegro và Herzegovina, Bộ Tổng tư lệnh NOAJ quyết định thành lập thêm Lữ đoàn du kích Vô sản 3 (Lữ đoàn Sandžač) tại Foca gồm 5 tiểu đoàn với quân số 958 các bộ, chiến sĩ. Ngày 10 tháng 6, Lữ đoàn du kích Vô sản 4 (còn gọi là Lữ đoàn xung kích Montenrgro) ra đời tại làng Jajce trên núi Zelengori gồm 5 tiểu đoàn với tổng quân số 1.080 người. Ngày 12 tháng 6 năm 1942, Lữ đoàn du kích Vô sản 5 (còn gọi là Lữ đoàn xung kích Montenegro thứ hai) ra dời tại làng Smriječ gần Piva, gồm 4 tiểu đoàn với tổng quân số 845 cán bộ chiến sĩ. Chỉ sau một năm, từ một số đội du kích nhỏ lẻ, Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư đã phát triển được 5 lữ đoàn và 6 tiểu đoàn với tổng quân số khoảng 5.000 người. Tuy nhiên, họ vẫn còn thiếu nhiều vũ khí nặng. Súng cối rất ít và đều thuộc loại cỡ nòng dưới 81 mm. Pháo và xe bọc thép có thể đếm trên đầu ngón tay. Không có máy bay. Trang bị cho bộ binh gồm đủ các chủng loại súng trường, tiểu liên, trung liên và một ít đại liên của nhiều nước như Anh, Đức, Ý và Liên Xô. Trong các chiến dịch và các trận đánh, nhiều cán bộ cốt cán tử trận. Để kịp thời bổ sung đội ngũ cán bộ chỉ huy, tháng 7 năm 1942, Bộ Tổng tư lệnh Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư đã thành lập Trường Sĩ quan chỉ huy và chính ủy của Quân đội Nam Tư (NOAJ).

Ngày 10 tháng 6 năm 1942, Quân Đức huy động các sư đoàn bộ binh 704, 714, 718, Trung đoàn pháo binh 202, Tiểu đoàn xe tăng 23 và 2 tiểu đoàn biên phòng cùng 6 lữ đoàn, 3 trung đoàn quân Ustaše và giang đội Danube của Hungary với tổng quân số 45.000 người mở cuộc tấn công lớn vào Lữ đoàn Vô sản 2 và các đội du kích Nam Tư đang hoạt động tại Grmeč và Kozari chỉ có khoảng 3.500 quân cùng với hơn 30.000 người tình nguyện nhưng hầu hết đều chỉ có vũ khí thô sơ. Một trận chiến không cân sức đã diễn ra trong hơn một tháng tại tỉnh Vojvodina được lịch sử biết đến với tên gọi "Cuộc thảm sát Korazy". Do quân Đức chiếm ưu thế gần như tuyệt đối về binh lực nên quân du kích Nam Tư sử dụng chiến thuật chia nhỏ, luồn tránh và bất ngờ tập kích vào các toán quân Đức đang càn quét, các đồn binh nhỏ lẻ. Sau hơn chục trận đánh lớn nhỏ, Lữ đoàn Vô sản 2 và các đội du kích bị tổn thất nặng với khoảng 1.700 thương vong. Tuy nhiên, Ban chỉ huy lữ đoàn này cùng với hơn 800 quân du kích và quân tình nguyện đã thoát khỏi vòng vây. Thương vong của quân Đức và quân Ustaše lên đến 7.000 người. Như mọi lần sau thất bại vì không tiêu diệt được chủ lực du kích Nam Tư, các tướng tá Đức đã hạ lệnh cho quân Ustaše tiến hành các cuộc tàn sát thường dân. Theo thống kê của Viện Lịch sử Serbia, có 33.398 người đã trở thành nạn nhân của quân Ustaše trong các cuộc bắn giết tại Kozary từ ngày 10 tháng 6 đến 18 tháng 7 năm 1942. Trong chiến dịch này, các phi công Kluz Franjo và Rudi Cajevac thuộc lực lượng không quân Ustaše đã chạy sang hàng ngũ du kích Nam Tư. Hai phi công này đã sử dụng các máy bay ném bom Potez 25 và Breguet Br.19 thực hiện các cuộc oanh tạc xuống đội hình quân Đức và quân Ustaše, gây nhiều thương vong. Ngày 4 tháng 7, chiếc Breguet Br.19 của Rudi Cajevac bị trúng đạn phòng không Đức khi đang ném bom sân bay Banja Luka. Ông bị thương và buộc phải hạ cánh khẩn cấp gần làng Kadinjani rồi tự sát. Ngày 6 tháng 7 năm 1942, chiếc Potez 25 của Kluz Franjo tại sân bay Lusca Palanka cũng bị không quân Đức phát hiện và phá hủy. Sau gần 2 năm làm việc tại Ban nghiên cứu phát triển hàng không của Quân giải phóng nhân dân Nam Tư, ngày 22 tháng 4 năm 1944, Kluz Franjo trở thành chỉ huy phi đội máy bay đầu tiên của Không quân Quân giải phóng nhân dân Nam Tư được thành lập tại đảo Vis của Nam Tư.

Sau khi nắm trong tay các lực lượng mới phát triển, từ tháng 7 năm 1942, NOAJ đã mở nhiều cuộc tấn công vào quân Đức và quân Ustaše để mở rộng các khu giải phóng. Đầu tháng 7 năm 1942, Lữ đoàn Vô Sản 3 phá vỡ vòng phong tỏa của quân Ustaše quanh vùng núi Treskavica và bất ngờ mở các cuộc đột kích vào thị trấn nhà ga Hadzic trên tuyến đường sắt Sarajevo - Konjic, tiêu diệt một số đội tuần tiễu của quân Đức, phá hủy hàng chục km đường sắt, 8 cây cầu, nhiều ô tô và hơn 10 đầu máy xe lửa. Đêm ngày 7 rạng ngày 8 tháng 7, Lữ đoàn Vô sản 1 đột kích vào thành phố Konjic, tiêu diệt gần hết tiểu đoàn bảo vệ thành phố của quân Ustaše, phá hủy nhà ga đầu mối Konjic và 25 đầu máy xe lửa, thu giữ nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng tại các nhà kho. Lữ đoàn Vô sản 1 đã làm gián đoạn tuyến đường sắt Sarajevo - Mostar trong hai tháng, đặc biệt là làm gián đoạn việc vận chuyển quặng nhôm từ các mỏ bôxít tại Mostar về Đức, gây nhiều tổn thất cho quân chiếm đóng Đức.

Cuối tháng 7, đầu tháng 8 năm 1942, bốn lữ đoàn du kích Nam Tư tiếp tục phát triển tấn công. Ở cánh phải, các lữ đoàn Vô Sản 2 và 4 kéo quân đánh vào các thị trấn Bitovanje, Vranica, nhổ các đồn binh của quân Đức và quân Utashi dọc theo sông Vrbas. Trên cánh trái, các lữ đoàn Vô Sản 1 và 3 đạt được nhiều thành công lớn hơn. Sau khi đánh chiếm các thị trấn Gorneg Vakuf, Bugojno và Donji Vakuf, họ phát triển tấn công giải phóng Prozor, Suzic và Duvno. Ngày 5 tháng 8, các lữ đoàn Vô Sản 1, 3, 5 đã hiệp đồng tác chiến giải phóng thành phố Livno. Quân du kích Nam Tư vừa đánh, vừa phát triển lực lượng. Trên cơ sở đội du kích Herzegovina NOP và đội du kích Mostar, ngày 10 tháng 8, Bộ Tổng tư lệnh NOAJ quyết định thành lập Lữ đoàn Xung kích 10 mang tên Herzegovina. Lữ đoàn ra mắt tại làng Sujica thuộc thành phố Duvno, gồm 2 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn kỵ binh và 1 đại đội pháo binh với quân số ban đầu 620 người.

Cộng hòa Bihać và Hiệp hội giải phóng dân tộc Nam Tư chống phát xít (AVNOJ)

Koča Popović, Tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn du kích Vô Sản 1 (Nam Tư)

Lãnh thổ nước Cộng hòa Bihać (màu hồng), vùng giải phóng lớn nhất ở Nam Tư trong năm 1942-43

Cuộc tấn công lần thứ ba của liên quân Đức - Ustaše nhằm dập tắt phong trào du kích ở Nam Tư thất bại. Đến giữa tháng 11 năm 1942, vùng giải phóng do Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư đã bao gồm một phần lớn lãnh thổ Bosnia, một phần lãnh thổ Serbia, Slovenia và Croatia. Lãnh thổ này trải dài từ Karlovac qua Neretva và dọc theo sông Bosna ra đến biển Adriatic, rộng trên 48.000 km vuông với trung tâm là Bihać. Trừ Sarajevo, các thành phố và thị trấn quan trọng tại Bosnia đều nằm trong tay quân do Kích Nam Tư gồm Bihać, Bosanska Krupa, Podgrad, Velika Kladuša, Cetingrad và Podcetin. Quân Giải phóng Nam Tư cũng hoạt động tích cực tại nhiều thành phố khác của Bosnia như Mrkonjić, Jajce, Skender Vakuf, Kotor Varos, Teslić và Prnjavor. Tuy nhiên, đây không phải là một nhà nước riêng biệt. Tên gọi Cộng hòa Bihać chỉ có tính chất tượng trưng vì Bihać là nơi đóng trụ sở của cơ quan lãnh đạo Đảng Cộng sản Nam Tư và Tổng hành dinh của Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư, được coi như thủ đô kháng chiến của Nam Tư.

Ngày 28 tháng 10 năm 1942, Tổng hành dinh NOAJ ra quyết định cải tổ Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư thành Quân đội và du kích giải phóng nhân dân Nam Tư. Đội ngũ các đơn vị được biên chế lại thành các Sư đoàn gồm có: Sư đoàn Vô Sản 1 được thành lập ngày 1 tháng 11 do Koča Popović làm tư lệnh, Ủy viên trung ương KPJ Mijalko Todorovic làm chính ủy, quân số ban đầu 3.200 người. Sư đoàn Vô Sản 2 được thành lập ngày 2 tháng 11 do Peko Dapčević làm tư lệnh, Mitar Bakic, nguyên chỉ huy Lữ đoàn vô sản 4 làm chính ủy, quân số ban đầu 3.280 người. Sư đoàn Xung kích 3 được thành lập ngày 2 tháng 11 do Pero Ćetković làm tư lệnh, Radomir Babić làm chính ủy, quân số ban đầu khoảng 3.000 người. Sư đoàn Krajina 4 được thành lập ngày 9 tháng 11 do Josip Mazar Shosha làm tư lệnh, Milinko Kušić làm chính ủy, quân số ban đầu 4.705 người. Sư đoàn Krajina 5 được thành lập ngày 9 tháng 11 do Slavko Rodić làm tư lệnh, Ylija Dosen làm chính ủy, quân số ban đầu 3.920 người. Sư đoàn Vô Sản 6 được thành lập ngày 22 tháng 11 do Srećko Manola làm tư lệnh, Rade Girić làm chính ủy, quân só ban đầu 4.320 người. Sư đoàn Banijska 7 được thành lập ngày 22 tháng 11 do Pavle Jaksić làm tư lệnh, Duro Kladarin làm chính ủy, quân số ban đầu 2.539 người. Sư đoàn Kordunaška 8 được thành lập ngày 22 tháng 11 do Vlado Ćetković làm tư lệnh, Arthur Turkulin làm chính ủy, quân số ban đầu 4.200 người. *Sư đoàn Slavonia 12 được thành lập ngày 30 tháng 12 năm 1942 do Petar Drapšin làm tư lệnh, Jefto Šašić làm chính ủy, quân số ban đầu khoảng 2.700 người.

Tòa nhà ở Bihać, nơi diễn ra phiên họp đầu tiên thành lập AVNOJ, nay trở thành Nhà bảo tàng Bihać

Đầu năm 1943, có thêm 4 sư đoàn du kích được thành lập gồm có: Sư đoàn Dalmatia 9 được thành lập ngày 13 tháng 2 năm 1943 do Ante Banina làm tư lệnh, Edo Santini làm chính ủy, quân số ban đầu 2.118 người. Sư đoàn Krajina 10 được thành lập ngày 13 tháng 2 năm 1943 do Milorad Mijatovic làm tư lệnh, Nikola Kotle làm chính ủy, quân số ban đầu 3.509 người. Sư đoàn Primorie-Gorski 13 được thành lập đầu tháng 4 năm 1943 do Veljko Kovacevic làm tư lệnh, Josip Skočilić làm chính ủy, quân số ban đầu 5.600 người. Sư đoàn Krajina 11 được thành lập đầu tháng 6 năm 1943 do Jarko Zgonjanin làm tư lệnh kiêm chính ủy, quân só ban đầu khoảng 2.000 người.

Song song với việc cải tổ lại tổ chức quân đội, những người cộng sản Nam Tư cũng xúc tiến việc thành lập một tổ chức thống nhất dân tộc để đoàn kết tất cả các lực lượng chống phát xít trên toàn lãnh thổ Nam Tư. Trong các ngày 26 và 27 tháng 11 năm 1942, tại thành phố Bihać đã diễn ra phiên họp thứ nhất của Hiệp hội giải phóng dân tộc Nam Tư chống phát xít (AVNOJ) (Tiếng Serbia: Антифашистичко веће народног ослобођења Југославије (АВНОЈ)). Trong số 78 đại biểu được triệu tập từ 8 xứ của Nam Tư, chỉ có 54 đại biểu đến dự. 24 đại biểu còn lại đã không thể đến Bihać do điều kiện chiến tranh chia cắt các tuyến giao thông. Các đại biểu đã thông qua Nghị quyết số 1 về việc thành lập AVNOJ. AVNOJ tuy không có các đặc điểm của một cơ quan quyền lực nhà nước nhưng có tính chất như một mặt trận giải phóng dân tộc, tập hợp tất cả các lực lượng chính trị, các sắc tộc ở Nam Tư, không phân biệt phe phái nhằm đấu tranh chống các thế lực phát xít và ngoại xâm để giải phóng các dân tộc và quốc gia Nam Tư.

Hội nghị đã bầu ra Ban lãnh đạo tối cao AVNOJ do Tiến sĩ Ivan Ribar làm Chủ tịch, 4 phó chủ tịch gồm Tiến sĩ Pavle Savić, Nurija Pozderac, Edvard Kardelj và Edvard Kocbek. 6 ủy viên gồm Mile Perunicić, Ivan Milutinović, Sima Milosević Vlada Zechević Mladen Iveković và Veselin Maslesa. Tổ chức của AVNOJ ở cấp tối cao gồm các ban kinh tế - tài chính, giáo dục, nội vụ, y tế, xã hội và tuyên truyền do các ủy viên phụ trách. Tổ chức của hiệp hội ở các địa phương gồm các Ủy ban nhân dân giải phóng (NOO) có chức năng như một cơ quan chính phủ lâm thời tại địa phương, có nhiệm vụ trực tiếp phối hợp với các lực lượng quân sự để cùng tiến hành đấu tranh vũ trang và thực hiện các quyết định của mình, giữ liên hệ chặt chẽ với trung ương AVNOJ và chỉ đạo hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong các vùng giải phóng. Ở những vùng còn tại chiếm, NOO hoạt động theo phương thức bí mật bất hợp pháp. Cơ cấu tổ chức của NOO trên toàn lãnh thổ Nam Tư cũng được hoạch định gồm có:

Ngày 17 tháng 5 năm 1941, Metodija Shatorov (bí danh "Charlo"), Bí thư Đảng bộ cộng sản Nam Tư khu vực Macedonia đã ra một tuyên cáo có tên "Thư gửi Stojan" (Писмото до Стојана) bằng tiếng Macedonia. Bức thư lên án sự đầu hàng hèn nhát của chính phủ hoàng gia Nam Tư, lên án việc những lực lượng ly khai ở Croatia và Serbia bắt tay với Đức Quốc xã và Phát xít Ý. Bức thư vạch rõ việc quân đội Bulgaria có mặt ở Macedonia từ tháng 5 năm 1941 không phải là quân đội giải phóng mà thực chất là một quân đội chiếm đóng giống như các lực lượng Đức và Ý đang chiếm đóng Nam Tư nên mục tiêu đòi độc lập cho Macedonia khỏi ách chiếm đóng của Bulgaria là cần thiết và cấp bách ngay trong lúc này. Cuối cùng, bức thư kêu gọi đoàn kết tất cả các tầng lớp người dân Macedonia chống lại quân chiếm đóng, chống lại việc chia cắt Macedonia và tranh thủ sự ủng hộ của Đảng Công nhân Bulgaria. Tại Hội nghị Đảng bộ cộng sản Macedonia tại Skopje ngày 17 tháng 8 năm 1941, Metodija Shatorov đã không mời Dragan Pavlovic, Ủy viên trung ương KPJ đang có mặt tại Skopje tham dự nhưng lại mời Peter Bogdanov, Ủy viên trung ương Đảng Công nhân Bulgaria (cộng sản) (BKP) tham dự. KPJ lập tức có phản ứng. Họ cho rằng đường lối của Metodija Shatorov bắt tay với những người Bulgaria là sai lầm chính trị lớn, tạo ra nguy cơ chia cắt Nam Tư vào tay Bulgaria. Đầu tháng 8 năm 1941, Metodija Shatorov gia nhập BKP và được đảng này điều động đến công tác tại Đảng bộ Sofia và phụ trách cả khu vực Skopje. Còn tại Macedonia, Dragan Pavlovic được trung ương KPJ cử làm Bí thư Đảng bộ Macedonia. Đây là một sự chia rẽ đầu tiên xảy ra giữa hai đảng cộng sản của hai nước quan trọng thuộc vùng Balkan trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Dưới sự chỉ đạo của Dragan Pavlovic, ngày 22 tháng 8 năm 1941, Đội du kích Macedonia đầu tiên được thành lập tại Skopje gồm 42 người do Cedomir Milenkovic chỉ huy và Dame Krapchev làm chính ủy.

Ngày 2 tháng 8, tại các thành phố Skopje, Bitola, Prilep và các thị trấn khác đã nổ ra các cuộc biểu tình do các đảng viên cộng sản lãnh đạo chống quân chiếm đóng Bulgaria. Cảnh sát Bulgaria đã ngăn chặn, đàn áp và bắt giam một số người cầm đầu. Cuối tháng 8 năm 1941, Ủy ban khu vực của KPJ chỉ đạo những cộng sản tổ chức chiến dịch phá hoại ngầm có mật danh "Radusha". Ngày 15 tháng 9, một nhóm du kích Macedonia đã tổ chức đánh úp một đồn binh của quân Bulgaria đang bảo vệ hầm đường sắt xuyên qua núi Babunia Gostirajani. Du kích bắn bị thương 2 lính Bulgaria và trốn thoát. Ngày 8 tháng 10, cảnh sát Bulgaria tìm ra nơi ẩn nấp của nhóm du kích này tại Prilev nhưng chỉ bắt được chủ nhà, ba du kích đã biến mất. Ngày 12 tháng 10, nhóm du kích do Traiko Bojkov (biệt danh "Tarzan") chỉ huy đã tấn công đồn cảnh sát Prilev và nhà tù để giải cứu cho những người bị bắt, 11 cảnh sát Bulgaria bị bắn chết, 30 người khác bị thương. Hiến binh Bulgaria kéo đến đông hơn đã làm thất bại cuộc giải cứu, hạ sát 12 du kích và bắt giam hơn 20 người khác. Ngày 8 tháng 11, 22 du kích tấn công làng Tsarevik ở Prilev, đốt cháy nhà kho rồi rút lui. Không bắt được du kích, cảnh sát Bulgaria bắt đi 8 người dân trong làng vì tội tiếp tế lương thực cho du kích.

Cuối tháng 10 và trong cả tháng 11 năm 1941, cảnh sát Bulgaria tiến hành một chiến dịch truy quét du kích hoạt động ngầm tại các thành phố Skopje, Bitola, Prilep và nhiều làng mạc ở Bắc Macedonia, bắt giữ 24 du kích và cả thường dân tại các thị trấn Beljakovce và Kumanovo. 9 người thiệt mạng trong các cuộc đấu súng. Một nhóm 18 du kích khác cũng bị bắt trên núi Kozjak. Nhiều súng ngắn và chất nổ cùng một số phương tiện in ấn thô sơ bị thu giữ. Cuối tháng 11, do thiếu vũ khí và các điều kiện cho cuộc đấu tranh vũ trang cũng như các cuộc càn quét liên miên của cảnh sát và hiến binh Bulgaria, các đội du kích đầu tiên ở Varda Macedonia lần lượt bị đánh bại. Sự chia rẽ phe phái giữa KPJ và BKP trong nội bộ du kích Macedonia cũng là một trong những nguyên nhân làm suy yếu họ. Trong một bức thư gửi Trung ương KPJ, Dragan Pavlovic đề nghị Trung ương KPJ phải đàm phán với Trung ương BKP để chấm dứt chia rẽ và có biện pháp để ngăn chặn tư tưởng sô vanh trong phong trào cộng sản ở Serbia cũng như loại trừ các phần tử gây hận thù chống lại Nam Tư trong phong trào cộng sản ở Bulgaria. Ông cũng dề nghị chuyển cuộc đấu tranh vũ trang về địa bàn nông thôn và rừng núi để xây dựng lực lượng. Tuy nhiên, trong bức thư trả lời ngày 6 tháng 12, Josip Broz Tito chỉ đồng ý chuyển hướng hoạt động ra ngoài các khu đô thị nhưng lại bác bỏ việc đánh giá tình hình Vardar Macedonia của Dragan Pavlovic.

Cuối năm 1941, Tòa án của chính quyền Bulgaria thân Đức mở hàng chục phiên tòa xử xét xử các du kích Nam Tư tại Macedonia. 38 án tử hình và 63 án khổ sai chung thân được tuyên và thi hành ngay. 26.451 người dân gốc Serbia bị trục xuất khỏi Macedonia và đưa đi các trại tập trung.

Đầu năm 1942, Boris Adreyev, Ủy viên trung ương KPJ được cử đến thay thế Dragan Pavlovic chỉ đạo phong trào du kích ở Macedonia và gần như phải gây dựng lại từ đầu. Trước tiên, Boris Adreyev cho rải nhiều truyền đơn kêu gọi "Những người Macedonia không chiến đấu cho Hitler", "Người Macedonia hãy đoàn kết để tự giải phóng", "Hãy làm tất cả cho cuộc đấu tranh hiện nay của những người Macedonia". Tháng 3 năm 1942, Boris Adreyev đã tổ chức được ba đội du kích mới. Đội Veles có 65 người, đội Skopje có 20 người, các đội Bitola và Krushevska mỗi đội có khoảng 30 đến 40 người. Riêng đội Prilev do Pêtre Toshev chỉ huy có gần 200 người. Trong mùa hè và mùa thu năm 1942, các đội du kích Nam Tư tại Macedonia đã tổ chức hơn 80 trận đánh và mở rộng vùng kiểm soát. Bất chấp các chiến dịch đàn áp của cảnh sát và hiến binh Bulgaria, ở nhiều làng đã lập ra các ủy ban cách mạng và đẩy mạnh tuyên truyền gây thanh thế cho du kích. Trong các trận đánh, 70 du kích thiệt mạng, 60 người khác bị bắt. Tuy nhiên, quân du kích vẫn duy trì và phát triển lực lượng từ những người được tuyển mộ. Đến đầu năm 1943, du kích Macedonia đã giải phóng được bốn vùng tự do được gọi là "Lãnh thổ Macedonia mới". Vùng thứ nhất tại vùng núi Pajak và thung lũng Karadzhova, mở rộng đến Gevgelija, Tikvesh và Mariovo. Vùng thứ hai tại các dãy núi Kozjak Kriva và mở rộng đến Kumanovo và Ruen. Vùng thứ ba gồm hai thị trấn Kicevo, Debar và vùng thứ tư tại các huyện Prespa, Kozuv đều nằm trên khu vực chiếm đóng của quân Ý.

Năm 1943

Hình lá cờ của Lữ đoàn du kích số 1 Macedonia

Thất bại cùng lúc của quân đội Đức Quốc xã tại Stalingrad (Liên Xô) và El Alemein (Bắc Phi) đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào du kích chống phát xít ở Nam Tư. Ba khu giải phóng lớn ở Bosnia, Macedonia, Montenegro và tỉnh Vojvodina đang đe dọa biến Nam Tư thành một phong trào kháng chiến lớn nhất ở Đông Âu, uy hiếp hậu phương của quân Đức tại mặt trận phía đông. Theo chân Quân giải phóng nhân dân Nam Tư, những người kháng chiến ở Macedonia cũng lập ra Quân Giải phóng nhân dân Macedonia (NOVM) mà Lữ đoàn đầu tiên của nó ra đời vào ngày 15 tháng 2 năm 1943 do Tihomir Šarevski chỉ huy và Đora Damevski làm chính ủy với quân số trên 500 người gồm Tiểu đoàn du kích Kicevski-Debar, Tiểu đoàn du kích Jane Sandanski, các đội du kích Veleski và Kosturski. Từ năm 1943, Quân giải phóng nhân dân Nam Tư bắt đầu tiếp nhận ngày càng nhiều vũ khí, đạn dược của cả Liên Xô, Anh, Mỹ chở đến bằng đường biển hoặc thả dù bằng máy bay tầm xa. Bên cạnh quân đội chính quy, các đội du kích tiếp tục phát triển trên khắp lãnh thổ Nam Tư và mở rộng ảnh hưởng sang cả những nước láng giềng như Bulgaria, Hy Lạp và Albania. Đất đai Nam Tư thực sự bùng cháy dưới chân quân chiếm đóng Đức Quốc xã và các đồng minh của nó. Giai đoạn 1 (Weiss I): tấn công các vùng lãnh thổ do du kích Nam Tư kiểm soát tại Croatia, Nam Sava và Tây Bosnia, trong đó có Bihac. Giai đoạn 2 (Weiss II): Tấn công các khu giải phóng tại Drvar và Neretva. *Giai đoạn 3 (Weiss III): Tảo thanh triệt để các khu du kích và giải giới lực lượng Chetnick.

Tướng Alexander von Leer huy động vào chiến dịch này 90.000 quân gồm 50.000 quân Đức của Sư đoàn 7 SS "Prinz Eugen", Sư đoàn lê dương 369, các sư đoàn bộ binh 187, 714, 717; 25.000 quân Ý gồm các sư đoàn Sassari, Lombardy, Bergamo và Murdo; 12.000 quân cảnh vệ quốc gia Ustaše thuộc Quân đoàn 27 và khoảng 3.000 quân Chetnick. Quân Đức và đồng minh của Đức có hơn 100 xe tăng, được sự yểm hộ của 150 máy bay các loại. Chống lại 9 sư đoàn Đức - Ý và 2 sư đoàn Ustaše là 42.000 quân du kích Nam Tư gồm Quân đoàn du kích Croatia gồm các sư đoàn 6, 7, 8 và Sư đoàn Nanijska Kordunaška có khoảng 16.000 người; Quân đoàn du kích Bosnia gồm các sư đoàn Krajina 1 và 2 có khoảng 11.500 người; Cụm tác chiến cận vệ gồm các sư đoàn Vô Sản 1, 2 và Sư đoàn xung kích 3 có khoảng 14.000 người; các đội du kích nhỏ ở Slavonia có khoảng 500 người.

Các cuộc tấn công của liên quân Đức - Ý - Utashi

Hệ thống trinh sát của Quân giải phóng nhân dân Nam Tư đã phát hiện được kế hoạch tấn công của liên quân Đức - Ý - Ustaše và Bộ Tổng tư lệnh NOVJ ở Bihac quyết định "ra tay trước" để nắm quyền chủ động. Ngày 15 tháng 2 năm 1943, Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư phát động cuộc tấn công Prozor đánh vào hậu cứ của các sư đoàn Ý đang tập trung tại phía bắc Mostar. Thành phố Prozor được ba tiểu đoàn của Trung đoàn 259 (Ý) có hơn 800 quân bảo vệ. 22 giờ ngày 15 tháng 2, Sư đoàn xung kích 3 sử dụng cả ba lữ đoàn: Dalmatia 1, Montenegro 5 và Herzegovina 10 tấn công từ phía tây, phía bắc và phía đông Prozor. Ban đầu, cuộc tấn công diễn ra thuận lợi, Lữ đoàn Dalmatia 1 đã chiếm được các dãy phố đầu tiên và các kho nhiên liệu. Tuy nhiên, trước khi trời sáng, pháo binh Ý đã phát hiện đội hình quân du kích và bắt đầu bắn chặn kịch liệt, yểm hộ cho bộ binh phản xung phong, Quân du kích Nam Tư buộc phải tạm dừng tấn công và rút ra khỏi thành phố.

Lúc 23 giờ ngày 16 tháng 2, NOVJ sử dụng Sư đoàn Xung kích 3 được tăng cường 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn Kraijna 3 và 7 khẩu lựu pháo tiếp tục tấn công vào Prozor. Đến 1 giờ sáng, Lữ đoàn Herzegovina 10 phối hợp với Lữ đoàn Montenegro 5 đã làm chủ trung tâm thành phố. Quân Ý hoảng loạn tháo chạy và bị quân của Lữ đoàn Dalmatia 1 và Lữ đoàn Kraijna 3 truy kích về Mostar. Du kích Nam Tư tiêu diệt 220 quân Ý, bắt 280 tù binh, thu 5 xe tăng hạng nhẹ, 4 lựu pháo, 2 pháo nòng dài, 4 súng cối, 12 đại liên, 25 trung liên, 10 xe tải, 1 xe kéo, hơn 500 súng trường và nhiều quân trang, quân dụng. Các đơn vị của Sư đoàn Xung kích 3 có 23 du kích thiệt mạng, 78 ngươi bị thương. Một số bị thương nặng sau đó đã chết. Trận tấn công Prozor thành công đã tạo ra một cửa mở để quân du kích Nam Tư tại khu giải phóng Bihac có thể tiếp cận thung lũng sông Neretva từ Mostar đến Konjic. Phát huy chiến quả của Sư đoàn Xung kích 3, Sư đoàn Vô Sản 2 đã mở cuộc tấn công từ Imotsky ra tuyến sông Neretva ở giữa Mostar và Jablanica, Sư đoàn Vô Sản 1 cũng từ Banja Luka tiến ra làm chủ con đường giao thông từ Sarajevo đi Konjic và bảo vệ mặt bắc của chiến dịch. Cuộc tấn công "ra tay trước" của NOVJ đã buộc Sư đoàn 714 (Đức) phải tổ chức phòng thủ. Kế hoạch giai đoạn 1 của Chiến dịch Weiss bị phá sản. Tuy nhiên, tướng Alexander von Leer vẫn quyết định thực hiện giai đoạn 2 của chiến dịch.

Cuộc phản công ngược chiều của NOVJ

Ngày 20 tháng 2, liên quân Đức - Ý - Ustaše chia làm ba hướng tấn công vào vùng núi Dinaja. Từ phía bắc, các Sư đoàn 717, 718 (Đức) và Lữ đoàn 5 (Ustaše) tấn công theo hướng Bugojno - Livno. Từ phía nam, Sư đoàn 7 SS "Prinz Eugen" và Sư đoàn lê dương 369 tấn công theo hướng Drvar - Glamoc - Livno. Từ phía tây, Quân phát xít Ý sử dụng 2 sư đoàn sơn chiến của các quân đoàn 6 và 18 tấn công lên Livno. Mục tiêu tối hậu của quân Đức là bao vây, tiêu diệt chủ lực NOVJ ở Livno. Mặt trận phía bắc của Sư đoàn Vô Sản 1 (Nam Tư) gặp khó khăn lớn. Ngày 22 tháng 2, quân Đức phá vỡ chiến tuyến của sư đoàn này, đánh chiếm Konjic và đến 26 tháng 2, Sư đoàn Vô Sản 1 buộc phải rút lên các sườn núi phía nam Sarajevo. Cánh quân chủ lực của NOVJ ở giữa mặt trận gồm Sư đoàn Krajina 5 và Sư đoàn Herzegovia 10 bị hở sườn trái và bị Sư đoàn 7 SS cùng Sư đoàn lê dương 369 (Đức) tấn công. Ngày 4 tháng 3, quân Đức chiếm Glamoc và xông đến Livno. Ngày 5 tháng 3, quân Ý và quân Chetnick bao vây Imotsky.

Trong các ngày từ 15 đến 28 tháng 3, được tăng cường tiểu đoàn xe tăng hạng nhẹ từ lực lượng dự bị của Tổng hành dinh NOVJ, Sư đoàn Dalmatia 9 và Sư đoàn Krajina 10 (NOVJ) mới thành lập đã đánh bại các lực lượng Chetnick, đánh chiếm Kalinovik ở phía bắc và Nevesinje ở phía nam sông Neretva. Quân Chetnick chỉ còn lại vài trăm người vội vã rút lui về tuyến sông Drina trong sự truy đuổi của Sư đoàn Xung kích 3 (NOVJ). Ngày 7 tháng 4, quân Chetnick tiếp tục bại trận trên sông Drina. Không có quân Chetnick trợ lực trong khi bản thân cũng bị thiệt hại, các sư đoàn Lombardy và Murdo (Ý) buộc phải ngừng tấn công. Quân Ý mất thêm hơn 1.000 người chết và bị thương, 5 khẩu pháo, 2 xe tăng hạng nhẹ, một ô tô, 23 mô tô, 3 súng cối và 754 viên đạn bị quân NOVJ thu giữ. Ở phía bắc, Sư đoàn Vô Sản 1, Sư đoàn Banijska 7 và Sư đoàn Herzegovina 10 đã giữ vững phòng tuyến phía đông và phía bắc Livno. Trong báo cáo gửi Tổng hành dinh OKH ngày 1 tháng 4 năm 1943, tướng Alexander von Leer cho rằng mặc dù thông thạo không gian, địa hình nhưng lại thiếu hiểu biết về các kiến thức quân sự tối thiểu nên Dragoljub Mihailovich trở thành nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của lực lượng Chetnick.

Cuộc tấn công thứ năm của Liên quân Đức - Ý

Bản đồ chiến dịch "Schwarz"

Thất bại trong giai đoạn II buộc tướng Alexander von Leer phải hủy bỏ giai đoạn III của Chiến dịch Weiss và lập một kế hoạch mới để tiếp tục thanh toán phong trào du kích ở Nam Tư và NOVJ. Lần này, nó được đặt tên mã là "Chiến dịch Schwarz". Nhận thức được tầm quan trọng của chiến dịch, Quân đội Đức Quốc xã đã huy động vào chiến dịch này 120.000 quân gồm có: Quân đội Đức Quốc xã: Sư đoàn bộ binh sơn chiến 1, Sư đoàn bộ binh 7 SS "Prinz Eugen", các sư đoàn bộ binh nhẹ 104 và 118, Sư đoàn lê dương 369, Sư đoàn bộ binh 4 "Brandenburg", Trung đoàn xe tăng 202, Tiểu đoàn công binh 659. Quân đội Phát xít Ý: Các sư đoàn bộ binh "Taurinenzi", "Ferrari" và "Venice". Quân Ustaše: Quân đoàn bộ binh 4, Trung đoàn Cảnh sát Croatia. Quân Bulgaria:Trung đoàn cơ giới 61, Trung đoàn hỗn hợp 63, đặt dưới quyền chỉ huy của Sư đoàn lê dương 369 (Đức)

Chống lại cụm quân đông đảo này chỉ có 22.000 quân giải phóng nhân dân Nam Tư thuộc gồm: Sư đoàn Vô Sản 1 của Thiếu tướng Koča Popović Sư đoàn Vô Sản 2 của Thiếu tướng Peko Dapčević Sư đoàn Xung kích 3 của các đại tá Radovan Vukanović và Sava Kovacevic Sư đoàn Banijska 7 của đại tá Pavle Jaksić Sư đoàn Dalmatia 1 Lữ đoàn du kích Đông Bosnia 6 Lữ đoàn du kích Majevička 15 Tiểu đoàn 3 thuộc Lữ đoàn Vô Sản 4 *Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 4 thuộc Lữ đoàn Montenegro 5

Quân Chetnick:Gồm 7 đội do Pavle Djurisić chỉ huy thân Ý nhưng vẫn là đ

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Chiến tranh nhân dân giải phóng Macedonia** (tiếng Macedonia: Народноослободителна Борба на Македонија (НОБ), _Narodnoosloboditelna Borba na Makedonija_, tiếng Serbia-Croatia: Македонија у Народноослободилачкој борби, _Makedonija u Narodnoosklobodilachkoj_) là một cuộc chiến tranh xảy ra trong
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Vân Nam** (Tiếng Trung Quốc: 云南省人民政府省长, Bính âm Hán ngữ: _Yún Nán shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Vân Nam tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
**Chiến dịch tấn công Beograd** ( / Beogradska operacija; , ) là hoạt động quân sự lớn nhất tại Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng thời là một trong các chiến
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
**Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh** do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố bầu ra là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (giản thể: 中国人民解放军, phồn thể: 中國人民解放軍, phiên âm Hán Việt: Trung Quốc Nhân dân Giải phóng Quân), gọi tắt là **Giải phóng quân**, cũng được gọi là **Quân
phải|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết **Chiến tranh Lạnh (1953–1962)** là một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ khi lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin qua đời năm
**Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam** là quá trình hình thành, phát triển của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem đây là đội quân từ nhân
**Đurica Jurica Ribar** (Đakovo, 26 tháng 3 năm 1918 - Trebaljevo, gần Kolašin, 3 tháng 10 năm 1943) là một luật sư, họa sĩ, nhà cách mạng và tham gia Chiến tranh nhân dân giải
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Nam Tư** (_Jugoslavija_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Latinh) và tiếng Slovenia; _Југославија_ trong tiếng Serbia-Croatia (ký tự Kirin) và tiếng Macedonia) miêu tả ba thực thể chính trị tồn tại nối tiếp nhau trên
Bản đồ thế giới năm 1980 với các liên minh Bài **Chiến tranh Lạnh (1962-1979)** nói về một giai đoạn trong cuộc Chiến tranh Lạnh từ sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba cuối tháng
nhỏ|Các binh sĩ của [[Quân đội nhân dân Việt Nam đang duyệt binh trong bộ quân phục mới.]] **Hiện đại hóa** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu theo
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
Chiến tranh đổ bộ là một khái niệm trong lĩnh vực quân sự, chỉ loại hoạt động quân sự sử dụng các tàu thuyền đi biển để tấn công và đổ quân. Hoạt động này
**Chiến tranh nông dân ở Đức** (hay **cuộc cách mạng của thường dân**) là toàn bộ các cuộc nổi dậy của nông dân, những người ở thành thị và các công nhân hầm mỏ, bùng
**_Chiến tranh và hòa bình_** (tiếng Nga: _Война и мир_) là một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, được xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865–1869. Tác phẩm được xem là thành tựu văn
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
Các liên minh năm 1980. **Chiến tranh Lạnh giai đoạn 1985 tới 1991** bắt đầu với sự nổi lên của Mikhail Gorbachev trở thành lãnh đạo Liên Xô. Nó chấm dứt cùng với sự sụp
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Đồng Minh đã phạm phải tội ác chiến tranh đã được kiểm chứng và vi phạm luật pháp chiến tranh chống lại dân thường hoặc quân nhân
**Chiến tranh Độc lập Mozambique** là một xung đột quân sự giữa lực lượng du kích của Mặt trận Giải phóng Mozambique hay FRELIMO, và Bồ Đào Nha. Chiến tranh chính thức bắt đầu vào
thumb|[[Du kích Liên Xô trên đường ở Belarus, trong cuộc phản công năm 1944.]] **Chiến tranh du kích** là một loại hình chiến tranh phi đối xứng thường được phe, nhóm quân sự nhỏ và
**Chiến tranh Minh-Việt** diễn ra từ năm 1407 đến khoảng những năm 1413-1414 là cuộc chiến tranh giữa dân tộc Đại Việt dưới sự lãnh đạo của các vị vua nhà Hậu Trần cùng tông
**Cộng hòa Nhân dân Campuchia** là một chính thể của Campuchia được thành lập tháng 1 năm 1979 trong chương trình cách mạng của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia (tiếng Anh:
Biệt Động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định Trong 30 Năm Chiến Tranh Giải Phóng 1945 - 1975 Trong lịch sử chiến tranh thế giới, cách đánh biệt động không phải là điều
Các lực lượng **Binh chủng hợp thành**, cũng được gọi chung là **Lục quân**, là bộ phận chính cấu thành nên Quân đội Nhân dân Việt Nam. Lục quân có quân số khoảng từ 400-500
thumb|Quốc huy Chính phủ Lâm thời Liên bang Dân chủ Nam Tư **Chính phủ Lâm thời Liên bang Dân chủ Nam Tư** (Serbia-Croatia: _Privremena vlada Demokratske Federativne Jugoslavije_/_Привремена влада Демократске Федеративне Југославије_) là chính phủ
**Chiến tranh Eritrea–Ethiopia**, còn được gọi là **Chiến tranh Badme**, là một cuộc xung đột vũ trang lớn giữa Ethiopia và Eritrea diễn ra từ tháng 5 năm 1998 đến tháng 6 năm 2000, với
**Quốc kỳ Nam Tư** là lá cờ chính thức của nhà nước Nam Tư từ năm 1918 đến năm 1992. Thiết kế của lá cờ và biểu tượng bắt nguồn từ phong trào Pan-Slavic, dẫn
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
nhỏ| Áp phích phim cho _[[Hawai Mare oki kaisen|Hawai Mare oki kaisen của_ Kajiro Yamamoto, (ハ ワ イ ・ マ レ ー 沖 海 戦, _The War at Sea from Hawaii to Malaya_ ), Toho
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Chiến tranh Lạnh** (1947-1991, tiếng Anh: **Cold War**) là chỉ đến sự căng thẳng địa chính trị và xung đột ý thức hệ đỉnh điểm giữa hai siêu cường (đứng đầu và đại diện hai
**Cuộc chiến Yom Kippur**, **Chiến tranh Ramadan** hay **Cuộc chiến tháng 10** (; chuyển tự: _Milkhemet Yom HaKipurim_ or מלחמת יום כיפור, _Milkhemet Yom Kipur_; ; chuyển tự: _harb 'uktubar_ hoặc حرب تشرين, _ħarb Tishrin_),
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Nội chiến Campuchia** là cuộc chiến giữa lực lượng của Đảng Cộng sản Campuchia (được biết đến với tên gọi Khmer Đỏ) và đồng minh của họ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941