✨Chiến tranh giành độc lập Mozambique

Chiến tranh giành độc lập Mozambique

Chiến tranh Độc lập Mozambique là một xung đột quân sự giữa lực lượng du kích của Mặt trận Giải phóng Mozambique hay FRELIMO, và Bồ Đào Nha. Chiến tranh chính thức bắt đầu vào ngày 25 tháng 9 năm 1964, và kết thúc bằng một thỏa thuận ngừng bắn vào ngày 8 tháng 9 năm 1974, kết quả là Bồ Đào Nha trao trả độc lập cho Mozambique thông qua đàm phán vào năm 1975.

Các cuộc chiến của Bồ Đào Nha nhằm chống các chiến binh du kích độc lập tại các lãnh thổ tại châu Phi của họ bắt đầu vào năm 1961 tại Angola. Tại Mozambique, xung đột bùng phát vào năm 1964, là kết quả của bất ổn và thất vọng trong nhiều cư dân Mozambique bản địa, họ nhận thức ngoại bang cai trị là một hình thức bóc lột và ngược đãi, chỉ nằm xúc tiến các lợi ích kinh tế của Bồ Đào Nha trong khu vực. Nhiều người Mozambique cũng phẫn uất trước các chính sách của Bồ Đào Nha đối với cư dân bản địa.

Khi các phong trào quyền tự quyết tràn khắp châu Phi sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều người Mozambique dần gia tăng quan điểm dân tộc, ngày càng thất vọng khi quốc gia tiếp tục quỵ lụy trước ngoại bang cai trị. Trên phương diện khác, nhiều người Phi bản địa vốn hoàn toàn tích hợp vào tổ chức xã hội dưới sự cai trị của Bồ Đào Nha, đặc biệt là tại các trung tâm đô thị, phản ứng trước các yêu sách độc lập với thái độ bất an và ngờ vực. Người Bồ Đào Nha tại thuộc địa chiếm hầu hết giới chức cầm quyền, họ phản ứng bằng gia tăng hiện diện quân sự và các dự án phát triển có tốc độ nhanh.

Một lượng lớn các tri thức chính trị của Mozambique lưu vong tại các quốc gia lân cận, tại đó những người Mozambique cấp tiến có thể lập kế hoạch hành động và kích động bất ổn chính trị tại quê hương của mình. Sự kiện hình thành tổ chức du kích Mozambique FRELIMO và sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc, Cuba, Nam Tư, Bulgaria, Tanzania, và Zambia thông qua vũ khí và cố vấn, dẫn đến bùng phát bạo lực kéo dài trong một thập niên.

Xét theo quan điểm quân sự, quân đội chính quy của Bồ Đào Nha giữ thế thượng phong trong xung đột chống lực lượng du kích độc lập. Tuy thế, sau chính biến mang tên Cách mạng Hoa Cẩm Chướng tại Bồ Đào Nha, Mozambique giành độc lập thành công vào ngày 25 tháng 6 năm 1975, kết thúc 470 năm cai trị thực dân của Bồ Đào Nha tại khu vực Đông Phi. Theo các sử gia của cách mạng, chính biến quân sự tại Bồ Đào Nha được kích động một phần từ các kháng nghị về hành vi của binh sĩ Bồ Đào Nha khi đối xử với một số cư dân Mozambique địa phương.

Bối cảnh

Cai trị thực dân của Bồ Đào Nha

Những người San săn bắn hái lượm là tổ tiên của các dân tộc Khoisan, họ là các cư dân đầu tiên được xác nhận của khu vực nay là Mozambique, đến thế kỷ 1 và 4, các dân tộc nói tiếng Bantu vượt sông Zambezi nhập cư đến khu vực. Năm 1498, các nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha đổ bộ lên bờ biển Mozambique. Ảnh hưởng của Bồ Đào Nha tại Đông Phi tăng lên trong suốt thế kỷ 16; họ thiết lập một số thuộc địa được gọi chung là Đông Phi thuộc Bồ Đào Nha. Chế độ nô lệ vàng trở thành các hàng hóa sinh lợi đối với người châu Âu; ảnh hưởng phần lớn được tiến hành thông qua các khu định cư riêng lẻ và không có cai trị tập trung, và trong khi đó, Bồ Đào Nha chuyển hướng quan tâm sang Ấn Độ và Brasil.

thumb|Vị trí của Mozambique tại miền nam châu Phi Đến thế kỷ 19, chủ nghĩa thực dân châu Âu tại châu Phi đạt đỉnh. Do để mất lãnh thổ Brasil rộng lớn tại Nam Mỹ, Bồ Đào Nha bắt đầu tập trung vào phát triển các tiền đồn của mình tại châu Phi. Điều này khiến họ xung đột trực tiếp với người Anh.

Trong một nỗ lực nhằm tránh xung đột hải quân với Anh, Bồ Đào Nha điều chỉnh biên giới thuộc địa của mình và biên giới hiện nay của Mozambique được thiết lập vào tháng 5 năm 1881. Năm 1926, khủng hoảng chính trị và kinh tế tại Bồ Đào Nha dẫn đến thành lập Đệ nghị Cộng hòa (sau trở thành Estado Novo), và phục hồi quan tâm đến các thuộc địa tại châu Phi. Các yêu cầu về quyền tự quyết cho Mozambique gia tăng ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong bối cảnh độc lập được trao cho nhiều thuộc địa khác trên toàn cầu trong làn sóng phi thực dân hóa. Đến năm 1950, chỉ có 4.353 trong số 5.733.000 người Mozambique được chính phủ thực dân Bồ Đào Nha cấp quyền bỏ phiếu. bằng cách hợp nhất các tổ chức dân tộc chủ nghĩa hiện hữu. Các phong trào chính trị như vậy chỉ có thể phát triển trong cảnh lưu vong, do Bồ Đào Nha kìm kẹp khắc nghiệt hoạt động bất đồng quan điểm tại Mozambique.

Liên Hợp Quốc cũng gây áp lực lên Bồ Đào Nha để tiến hành phi thực dân hóa. Bồ Đào Nha đe dọa rời khỏi NATO, do vậy tổ chức này ngưng ủng hộ và áp lực, các nhóm dân tộc chủ nghĩa tại Mozambique buộc phải chuyển sang nhận giúp đỡ từ khối cộng sản. Đặc biệt, Nikita Khrushchev nhìn nhận thế giới kém phát triển là một phương tiện để làm suy yếu phương Tây. Đối với Liên Xô, châu Phi đóng vai trò là một cơ hội để gây rạn nứt giữa các cường quốc phương Tây và thuộc địa của họ, và tạo ra các quốc gia thân cộng sản tại châu Phi.

Trước khi FRELIMO thành lập, lập trường của Liên Xô về các phong trào dân tộc chủ nghĩa tại Mozambique có sự mơ hồ. Tồn tại nhiều phong trào độc lập, và họ không biết chắc rằng ai đó sẽ thành công. Nhóm dân tộc chủ nghĩa tại Mozambique, giống như các tổ chức tương tự tại châu Phi vào đương thời, nhận được đào tạo và thiết bị từ Liên Xô.

Người kế nhiệm Eduardo Mondlane là Samora Machel- tổng thống tương lai của Mozambique- nhận giúp đỡ từ cả Liên Xô và Trung Quốc, miêu tả hai thế lực này là "những nước duy nhất sẽ thực sự giúp chúng tôi. ... Họ đã chiến đấu vũ trang, và bất kỳ điều gì họ học được mà thích hợp với Mozambique thì chúng tôi sẽ sử dụng." Lực lượng du kích tiếp nhận giảng dạy về lật đổ và đấu tranh chính trị cũng như viện trợ quân sự, cụ thể trong năm 1972 các pháo hỏa lực 122 mm được chuyển đến,

Liên Xô tiếp tục giúp đỡ chính phủ FRELIMO mới chống phản cách mạng trong các năm sau 1975. Đến năm 1981, còn khoảng 230 cố vấn quân sự Liên Xô và Đông Âu, khoảng 800 người Cuba tại Mozambique.

Xung đột

Nổi loạn dưới quyền Mondlane (1964–69)

right|thumb|[[Aérospatiale Alouette III là một trong các máy bay trực thăng thông dụng nhất hoạt động tại châu Phi, song rất hiếm gặp trong xung đột Mozambique]]

Khi bắt đầu chiến tranh, FRELIMO có ít hy vọng về một thắng lợi quân sự thông thường, với chỉ 7.000 chiến sĩ chống lại lực lượng lớn hơn nhiều của Bồ Đào Nha. Hy vọng của họ dựa trên việc thuyết phục cư dân địa phương ủng hộ nổi loạn, buộc chính phủ Bồ Đào Nha phải trao độc lập qua đàm phán. Số lượng binh sĩ bản địa được Bồ Đào Nha tuyển mộ tăng lên 23.000 trong cùng thời kỳ.

Cánh quân sự của FRELIMO nằm dưới quyền chỉ huy của Filipe Samuel Magaia, quân của ông được Algérie đào tạo.

Trong giai đoàn tàn cuộc của xung đột, FRELIMO được cung cấp vài khẩu Strela 2 từ Trung Quốc; chúng không bao giờ được sử dụng để bắn hạ máy bay Bồ Đào Nha. Bồ Đào Nha chỉ mất một máy bay khi đang chiến đấu trong xung đột, khi chiếc G.91R-4 do Trung úy Emilio Lourenço điều khiển bị phá hủy do đạn pháo trên khoang nổ sớm.

Cùng với các cuộc tấn công ban đầu của FRELIMO tại Chai Chai, giao tranh lan đến Niassa và Tete tại miền trung Mozambique. Trong các giai đoạn đầu của xung đột, hoạt động của FRELIMO là giao tranh, quấy rối, và đột kích quy mô nhỏ, cấp trung đội vào căn cứ của Bồ Đào Nha. Các binh sĩ FRELIMO thường hành quân theo các tiểu đội có từ 10 đến 15 binh sĩ. Tính chất rải rác của các cuộc tấn công ban đầu này là một nỗ lực nhằm phân tán lực lượng Bồ Đào Nha.]]

Phải đến năm 1965 thì phiến quân mới thu được các chiến đấu cơ, đi kèm với gia tăng ủng hộ của dân chúng, và các đội đột kích có thể tăng cường quy mô. Sự gia tăng ủng hộ của dân chúng một phần là do các cơ quan của FRELIMO tiến hành giúp đỡ những người Mozambique lưu vong, họ tránh xung đột bằng cách sang Tanzania láng giềng. và làm mất tinh thần các binh sĩ. Vào ngày 10 hoặc 11 tháng 10 năm 1966, khi trở về đến Tanzania sau khi khảo sát tiền tuyến, Filipe Samuel Magaia bị một nhân vật cũng trong FRELIMO là Lourenço Matola bắn chết, nhân vật này bị cho là làm việc cho người Bồ Đào Nha.

Đến năm 1967, một phần bảy dân cư và một phần năm lãnh thổ Mozambique nằm trong tay FRELIMO; vào đương thời có khoảng 8.000 quân du kích chiến đấu.

Năm 1968, đại hội lần thứ nhì của FRELIMO là một thắng lợi về tuyên truyền của những phiến quân, bất chấp các nỗ lực của người Bồ Đào Nha vốn có ưu thế về không quân trong xung đột nhằm oanh tạc địa điểm hội nghị sau đó trong cùng ngày.

Ngày 3 tháng 2 năm 1969, Eduardo Mondlane thiệt mạng do chất nổ được lén đưa đến chỗ ông. Nhiều nguồn cho rằng, trong một nỗ lực nhằm khắc phục tình hình tại Mozambique, cảnh sát mật Bồ Đào Nha tiến hành ám sát Mondlane bằng cách gửi một bưu kiện đến văn phòng của ông tại Dar es Salaam. Bên trong bưu kiện là một quyển sách chứa một thiết bị nổ, nó sẽ nổ khi sách được mở ra. Các nguồn khác cho rằng Eduardo thiệt mạng khi một thiết bị nổ phát nổ bên dưới ghế của ông tại trụ sở FRELIMO, và rằng bên chịu trách nhiệm không bao giờ xác định được. Điều tra ban đầu nhắm vào Silverio Nungo (người sau đó bị hành quyết) và Lazaro Kavandame, thủ lĩnh của FRELIMO tại Cabo Delgado. Kavandame không giấu diếm rằng mình không tin cậy Mondlane, nhìn nhận rằng Mondlane là một lãnh tụ quá bảo thủ, và cảnh sát Tanzania cũng cáo buộc ông làm việc với PIDE (cảnh sát mật Bồ Đào Nha) để ám sát Mondlane. Bản thân Kavandame đầu hàng người Bồ Đào Nha trong tháng 4 cùng năm.

Nằm trong chương trình này, đập Cahora Bassa bắt đầu được xây dựng vào năm 1969. Chính phủ Bồ Đào Nha nhìn nhận việc xây dựng đập như bằng chứng cho "sứ mệnh khai hóa" của Bồ Đào Nha và mong đợi đập sẽ tái khẳng định lòng tin của người Mozambique vào thực lực và an ninh của chính phủ thực dân. Bồ Đào Nha cho đưa ba nghìn binh sĩ mới và trên một triệu quả mìn đến Mozambique để bảo vệ dự án xây dựng.

Chiến tranh tiếp diễn (1969–74)

Năm 1969, Tướng quân António Augusto dos Santos thôi chức tư lệnh, Tướng quân Kaúlza de Arriaga chính thức tiếp quản vào tháng 3 năm 1970. Kaúlza de Arriaga ủng hộ một phương thức chiến đấu trực tiếp hơn với phiến quân, và chính sách đã định về sử dụng lực lượng bình loạn người Phi bị bác bỏ để ủng hộ triển khai quân chính quy Bồ Đào Nha kèm theo một lượng nhỏ chiến binh người Phi. Các nhân viên bản địa vẫn được tuyển mộ cho các hoạt động đặc biệt, song vai trò của họ nhỏ đi đáng kể dưới thời chỉ huy mới. Chiến thuật của ông một phần chịu ảnh hưởng từ một hội nghị với Tướng quân Hoa Kỳ William Westmoreland.

Costa Gomes cho rằng các binh sĩ người Phi tốn ít chi phí hơn và dễ thiết lập quan hệ với cư dân địa phương hơn, một thủ đoạn tương tự chiến lược 'Hearts and Minds' được lực lượng Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam vào đương thời. Các đơn vị Flechas này hành động tại lãnh thổ vào giai đoạn sát cuối của xung đột, sau khi bãi nhiệm Kaúlza de Arriaga vào đêm trước của chính biến năm 1974 tại Bồ Đào Nha – Cách mạng Hoa Cẩm Chướng. Các đơn vị này tiếp tục gây khó khăn cho FRELIMO ngay cả sau cách mạng và người Bồ Đào Nha triệt thoái, khi mà quốc gia Mozambique tan vỡ trong nội chiến.

Trong toàn thể giai đoạn 1970–74, FRELIMO tăng cường các hoạt động du kích, chuyên khủng bố đô thị.

left|thumb|Các binh sĩ Bồ Đào Nha tuần tra, minh họa địa hình khó khăn mà họ phải đối diện Người Bồ Đào Nha gần như lập tức phải đối diện với vấn đề khi cuộc tấn công diễn ra đồng thời với bắt đầu mùa gió mùa, gây thêm khó khăn về hậu cần. Các binh sĩ Bồ Đào Nha được trang bị kém, có phối hợp rất tồi giữa Không quân và Lục quân. Thương vong gia tăng của binh sĩ Bồ Đào Nha bắt đầu nặng hơn thương vong của FRELIMO, kéo theo can thiệp chính trị hơn nữa từ Lisboa.

Đến năm 1973, FRELIMO cũng khai thác các đô thị và làng mạc dân sự trong một nỗ lực nhằm phá hoại sự tin tưởng của dân chúng đối với quân Bồ Đào Nha. Ngược lại, chính sách khoan dung của Mondlane đối với những người Bồ Đào Nha định cư bị bãi bỏ vào năm 1973 bởi tư lệnh mới là Machel.

Sự thay đổi chiến thuật này dẫn đến các kháng nghị của người Bồ Đào Nha định cư chống lại chính phủ Lisboa,

thumb|Biểu đồ thể hiện gia tăng chi tiêu quân sự trong Các chiến tranh thực dân Bồ Đào Nha. Các chiến tranh thực dân chiếm 44% ngân sách tổng thể của Bồ Đào Nha. Mất đi vị thế đặc quyền và lo ngại FRELIMO trả thù khiến 200.000 cư dân da trắng rời đi khi Mozambique độc lập. Các thành thị và làng mạc bị đổi tên tiếng Bồ Đào Nha sau khi độc lập, như Lourenço Marques thành Maputo.

Với sự ra đi của những người chuyên nghiệp và thương gia Bồ Đào Nha, quốc gia mới không có lực lương lao động cao cấp để duy trì cơ sở hạ tầng của mình, sụp đổ kinh tế hiện ra. Các liên kết thương mại có đặc quyền được thiết lập với một vài quốc gia cộng sản, kèm với đó là NATO nhanh chóng mất ảnh hưởng tại khu vực.

Samora Machel trở thành tổng thống đầu tiên của Mozambique. Uria Simango cùng vợ và những người bất đồng quan điểm khác trong FRELIMO bị bắt giữ vào năm 1975 và bị giam mà không xét xử. Trong khoảng hai năm, giao tranh lại bắt đầu trong Nội chiến Mozambique, chống lại phiến quân RENAMO được Rhodesia và Nam Phi giúp đỡ về quân sự. Suy thoái kinh tế và xã hội, chủ nghĩa toàn trị kiểu Marxist, tham nhũng, nghèo nàn, bất bình đẳng, và kế hoạch tập trung thất bại làm xói mòn nhiệt tình cách mạng ban đầu. Hòa bình chỉ trở lại vào năm 1992, khi quốc gia đạt được sự ổn định tương đối lần đầu tiên sau vài thập niên.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh giành độc lập Brasil** là cuộc chiến được tiến hành giữa Brasil và Bồ Đào Nha. Chiến tranh kéo dài từ tháng 2 năm 1822, khi những cuộc giao tranh đầu tiên giữa
**Chiến tranh Độc lập Mozambique** là một xung đột quân sự giữa lực lượng du kích của Mặt trận Giải phóng Mozambique hay FRELIMO, và Bồ Đào Nha. Chiến tranh chính thức bắt đầu vào
**Chiến tranh Boer đầu tiên** (, nghĩa đen là " **Chiến tranh tự do đầu tiên** "), 1880-1881, còn được gọi là **Chiến tranh Anglo-Boer đầu tiên, Chiến tranh xuyên** biên **giới** hoặc **Cuộc nổi
**Cộng hòa Nhân dân Mozambique** () là chế độ chính trị ở Mozambique từ năm 1975 để năm 1990, sau sự độc lập của đất nước sau chiến tranh giành độc lập Mozambique. Mặt trận
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Chiến tranh thuộc địa Bồ Đào Nha** () đề cập đến cuộc chiến giữa Cộng hòa thứ hai của Bồ Đào Nha và các thuộc địa, từ năm 1961 đến 1974. Sau khi kết thúc
Thuật ngữ **nội chiến** và **chiến tranh trong nước** thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng từ nội chiến được sử dụng nhiều hơn. Nó ám chỉ bất kỳ cuộc xung đột nào
**Maputo** (), tên cũ là **Lourenço Marques** cho tới trước năm 1976, là thủ đô và thành phố đông dân nhất Mozambique. Nằm tại cực nam Mozambique, Maputo nằm cách biên giới với Eswatini và
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Colonial_Africa_1913_map.svg|nhỏ|300x300px|Bản đồ các thuộc địa châu Phi của các đế quốc châu Âu vào năm 1913 (Bỉ (vàng), Anh (hồng da cam), Pháp (xanh lam), Đức (ngọc lam), Ý (xanh lục), Bồ Đào Nha (tím)
**Mikoyan-Gurevich MiG-21** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: **Fishbed** - **Cá hóa thạch**) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên
**Mozambique**, tên chính thức là **Cộng hòa Mozambique** (phiên âm: Mô-dăm-bích; hay _República de Moçambique_, ), là một quốc gia ở đông nam châu Phi, giáp với Ấn Độ Dương về phía đông, Tanzania về
**Sir Winston Leonard Spencer Churchill** (30 tháng 11 năm 187424 tháng 1 năm 1965) là một chính khách, binh sĩ và cây bút người Anh. Ông từng hai lần giữ cương vị Thủ tướng Vương
Chủ nghĩa ** Đế quốc Xô viết** được sử dụng bởi những người đối lập chỉ trích Liên Xô và những người thuộc các dân tộc thiểu số ở Liên Xô để nhắc về chính
**Đế quốc Bồ Đào Nha** () là đế quốc ra đời sớm nhất và kéo dài nhất trong lịch sử những đế quốc thực dân Châu Âu, kéo dài gần 6 thế kỷ, bắt đầu
**Thế kỷ 20** là khoảng thời gian tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1901 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2000, nghĩa là bằng 100 năm. Thế kỷ 20 bị chi phối bởi
thumb|Đông Phi thumb|Bản đồ [[Đông Phi thuộc Anh năm 1911|282x282px]] **Đông Phi** là khu vực ở phía đông của lục địa châu Phi, được định nghĩa khác nhau tùy theo địa lý học hoặc địa
**Lịch sử thế giới hiện đại** theo mốc từng năm, từ năm 1910 đến nay. ## Thập niên 1910 * 1910: Bắt đầu cuộc cách mạng México. George V trở thành vua của Vương quốc
**Indonesia chiếm đóng Đông Timor** từ tháng 12 năm 1975 đến tháng 10 năm 1999. Sau thế kỷ cai trị của thực dân Bồ Đào Nha ở Đông Timor, một cuộc đảo chính năm 1974
**Namibia**, quốc hiệu là **Cộng hòa Namibia**, là một quốc gia ở khu vực Nam Phi với bờ biển phía tây giáp Đại Tây Dương. Namibia giáp Zambia và Angola về phía bắc, Botswana về
**Lina Júlia Francisco Magaia** (1940 – 27 tháng 6 năm 2011) là một nhà văn, nhà báo người Mozambique và cựu chiến binh của cuộc chiến tranh giành độc lập của Mozambique. Bà là một
Chuỗi sự kiện Domino được Mỹ giả định tại châu Á **Thuyết domino** là một học thuyết chính trị – đối ngoại của chính phủ Hoa Kỳ trong cao trào của Chiến tranh Lạnh (1947-1991) và
**Nhà nước Mới** (tiếng Bồ Đào Nha: **_Estado Novo_**, ) là chế độ chính trị theo chủ nghĩa xã đoàn của Bồ Đào Nha từ năm 1933 đến năm 1974. Tiền thân của Nhà nước
nhỏ|300x300px| Bản đồ Madagascar (1616) **Lịch sử Madagascar** bắt đầu từ khi con người bắt đầu đặt chân đến Madagascar, một quốc đảo nằm trên Ấn Độ Dương ngoài khơi bờ biển phía đông nam
**Đông Timor** (phiên âm: "Đông Ti-mo") hay **Timor-Leste** (; **'), tên chính thức là **Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste''' (, ), là một quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, bao gồm nửa phía
[[Tập tin:Soviet Union and China map including the three co-bordering countries.svg|thumb|upright=1.6| ]] **Chia rẽ Trung – Xô** là một cuộc xung đột chính trị và ý thức hệ chính trị giữa Cộng hòa Nhân dân
**Henry Alfred Kissinger** (; ; tên khai sinh là **Heinz Alfred Kissinger**, 27 tháng 5 năm 192329 tháng 11 năm 2023) là một nhà chính trị gia người Mỹ. Là người tị nạn Do Thái
**São Tomé và Príncipe** (phát âm tiếng Việt: **Xao Tô-mê và Prin-xi-pê**), tên đầy đủ: **Cộng hòa Dân chủ São Tomé và Príncipe** (tiếng Bồ Đào Nha: _República Democrática de São Tomé e Príncipe_) là
**_Đào, phở và piano_** () là một bộ phim điện ảnh chiến tranh tuyên truyền Việt Nam năm 2023, thuộc thể loại sử thi lãng mạn do Phi Tiến Sơn viết kịch bản kiêm đạo
Cuộc **xâm lược của Indonesia vào Đông Timor**, ở Indonesia được gọi là **Chiến dịch Hoa Sen** (; tiếng Anh: _Operation Lotus_), bắt đầu vào ngày 7 tháng Mười Hai năm 1975 khi quân đội
thumb|[[David Hurley và Patsy Reddy, lần lượt là toàn quyền của Úc và New Zealand, với vợ hoặc chồng của họ, năm 2021]] **Tổng đốc** hay **Toàn quyền** (chữ Hán: 總督; tiếng Anh: _Governor-general_; tiếng
Mikoyan-Gurevich **MiG-15** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-15) (tên ký hiệu của NATO đặt là "**Fagot**") là một máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất của Liên Xô do Artem Mikoyan và
nhỏ|upright|_[[Người khổng lồ Rhodes_: từ Cape đến Cairo]] **Đường sắt Cape-Cairo** là một dự án dang dở có mục đích nối liền phía nam với phía bắc châu Phi bằng đường ray xe lửa. Dự
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán
**Madagascar**, quốc hiệu là **Cộng hòa Madagascar** (phiên âm tiếng Việt: **Ma-đa-gát-xca** hay **Ma-đa-ga-xca**; ; ) là một đảo quốc ở Ấn Độ Dương, ngoài khơi bờ biển đông nam bộ của châu Phi. Quốc
Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1898, trước khi nổ ra [[Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ và Chiến tranh Boer]] Các đế quốc thực dân trên thế giới vào năm 1800
File:2018 Events Collage.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Lễ khai mạc Thế vận hội mùa đông 2018 tại PyeongChang, Hàn Quốc; Biểu tình nổ ra sau Vụ ám sát Jamal Khashoggi; Các cuộc
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Maroc**, có biệt danh "Những chú sư tử Atlas", là đội tuyển đại diện cho Maroc tại các giải đấu bóng đá nam quốc tế. Đội được quản lý
**Eswatini** (tiếng Swazi: _eSwatini_ ), tên chính thức là **Vương quốc Eswatini** (; ), cũng được biết với tên cũ **Swaziland** (; __), là một quốc gia thuộc khu vực châu Phi. Đây là một
**Cộng hòa Guinea Xích Đạo** (phiên âm tiếng Việt: **Ghi-nê Xích Đạo**; tiếng Tây Ban Nha: _República de Guinea Ecuatorial_) là một quốc gia nằm ở bờ biển phía tây của Trung Phi, với diện
**Lạm phát kéo dài** là một hiện tượng kinh tế xảy ra khi một quốc gia có mức lạm phát cao trong một thời gian dài (vài năm hoặc vài thập kỷ) do cung tiền
**Thượng Hải** (chữ Hán: 上海, bính âm: _Shànghǎi_) là thành phố đông dân nhất Trung Quốc, và là thành phố không bao gồm vùng ngoại ô lớn nhất thế giới. Thượng Hải nằm ở bờ
phải|thumb|[[Puerto Rico đôi khi được gọi là thuộc địa lâu đời nhất thế giới.]] Trong chính trị và lịch sử, **thuộc địa** là một vùng lãnh thổ chịu sự cai trị trực tiếp về chính
**Jacob Benjamin Gyllenhaal** (; ; sinh ngày 19 tháng 12 năm 1980) là một nam diễn viên người Mỹ đã có sự nghiệp trải dài hơn ba mươi năm với nhiều đóng góp trên cả
**Mặt trận giải phóng Mozambique** (**FRELIMO**) (tiếng Bồ Đào Nha **_Frente de Libertação de Moçambique),_** là đảng chính trị cầm quyền ở Mozambique. Được thành lập vào năm 1962, FRELIMO bắt đầu như một phong
**Robert Gabriel Mugabe**, KCB (21 tháng 2 năm 1924 – 6 tháng 9 năm 2019) là cựu Tổng thống Zimbabwe. Ông đã giữ chức thủ tướng từ năm 1980 đến năm 1987 và chức chủ
**Vương quốc Lesotho** (phiên âm tiếng Việt: **Lê-xô-thô**; tiếng Sotho: _Muso oa Lesotho_; tiếng Anh: _Kingdom of Lesotho_) là một quốc gia tại cực Nam châu Phi. Nó nằm hoàn toàn bên trong nước Cộng
**Durban** (, có nguồn gốc từ từ _itheku_ nghĩa là "vịnh/phá") là thành phố đông dân thứ ba Nam Phi sau Johannesburg và Cape Town, và là thành phố lớn nhất của tỉnh KwaZulu-Natal. Nằm
Ngày **25 tháng 9** là ngày thứ 268 (269 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 97 ngày trong năm. ## Sự kiện *275 – Tacitus được Viện nguyên lão chọn làm hoàng đế mới
**Paulina "Poulli" Chiziane** (sinh ngày 4 tháng 6 năm 1955, Manjacaze, tỉnh miền nam Gaza, Mozambique) là một tác giả của tiểu thuyết và truyện ngắn bằng tiếng Bồ Đào Nha. bà học tại Đại
[[Tập tin:Socialist states by duration of existence.png|Đây là danh sách nước tự tuyên bố là nước xã hội chủ nghĩa dưới bất kỳ định nghĩa nào, số năm được mã màu khác nhau: Nhấn vào