✨Chiến dịch Budapest
Chiến dịch Budapest (Tiếng Nga:Будапештская операция) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại Mặt trận Hungary thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong các năm 1944-1945. Cuộc chiến diễn ra chủ yếu trên địa bàn thủ đô Budapest của Hungary và một số vùng lân cận. Đây là một trong các chiến dịch phức tạp và khó khăn đối với quân đội Liên Xô tại Trung Âu. Chiến dịch này kéo dài qua gần 4 tháng kể từ ngày 29 tháng 10 năm 1944, khi STAVKA ra mệnh lệnh yêu cầu Phương diện quân Ukraina 2 tiến hành các cuộc tấn công trên hướng Budapest, cho đến lúc toàn bộ số quân Đức và Hungary còn sống sót tại Budapest hạ vũ khí đầu hàng ngày 13 tháng 2 năm 1945. Chiến thắng của Hồng Quân Liên Xô trước quân đội Hungary đã loại bỏ đồng minh cuối cùng của nước Đức Quốc xã ở châu Âu, mở ra cơ hội kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai ở Trung và Đông Âu trong một tương lai gần.
Chiến dịch Budapest bị ngắt quãng thành năm giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất diễn ra từ ngày 29 tháng 10 đến hết ngày 3 tháng 11 năm 1944. Trong giai đoạn này, các cuộc tấn công của quân đội Liên Xô trên toàn bộ mặt trận của Phương diện quân Ukraina 2 đã không đột phá được phòng tuyến của quân đội Đức Quốc xã trên tuyến sông Tisza. Tập đoàn quân 46 (Liên Xô) trên cánh trái chỉ tiến thêm được 4 đến 6 km/ngày và tiếp cận tuyến sông Danube ở Baja. Ở giữa mặt trận Tập đoàn quân cận vệ 7 hầu như bị kẹt trong bùn lầy đầu mùa đông. Các quân đoàn cơ giới cận vệ 2 và 4 cũng phải dừng lại khi còn cách ngoại ô Budapest 15 km về phía Đông Nam. Ở cánh phải, các tập đoàn quân 27, 40, 53 (Liên Xô), 4 (Romania) và Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev chưa có cách gì để vượt qua phòng tuyến cứng rắn của quân Đức trên tuyến sông Tisza. Giai đoạn thứ hai diễn từ ngày 7 tháng 11 đến hết ngày 24 tháng 11 năm 1944. Kết quả của giai đoạn này cũng như giai đoạn thứ nhất. Hai bên bất phân thắng bại với những tổn thất lớn về về người và vũ khí, phương tiện. Giai đoạn thứ ba diễn ra từ ngày 3 tháng 12 đến hết ngày 26 tháng 12 năm 1944. Lần này, với sự tham gia của Phương diện quân Ukraina 3 phối hợp với Phương diện quân Ukraina 2 làm cho mật độ tấn công của quân đội Liên Xô dày đặc hơn. Quân đội Đức Quốc xã cũng tập trung một lực lượng xe tăng rất mạnh để phòng thủ Budapest. Kết thúc giai đoạn này, hai cánh quân xung kích của Phương diện quân Ukraina 2 (Tập đoàn quân xe tăng 6) và Phương diện quân Ukraina 3 (Quân đoàn xe tăng 18) gặp nhau tại khu vực Esztergom, bao vây gần 190.000 quân Đức và Hungary trong vòng vây tại Budapest. Vì để thất lợi trên hướng Budapest, ngày 28 tháng 12, tướng Johannes Frießner bị cách chức; tướng Otto Wöhler được Bộ Tổng tư lệnh Lục quân Đức chỉ định là Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam. Giai đoạn thứ tư diễn ra từ đêm ngày 1 rạng ngày 2 tháng 1 năm 1945 đến ngày 26 tháng 1 năm 1945. Với sự tham gia của 13 sư đoàn xe tăng và 2 sư đoàn cơ giới, quân đội Đức Quốc xã mở cuộc phản công nhằm giải vây cho Cụm quân Budapest của tướng Karl Pfeffer-Wildenbruch. Ngày 20 tháng 1 năm 1945, xe tăng Đức đã vọt tiến đến sông Danube tại khu vực Dunapentele, phía Nam Budapest 25 km, đe dọa chia cắt đội hình của Phương diện quân Ukraina 2 trên hướng Nam Budapest. Ngày hôm sau, các trung đoàn pháo tự hành của Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 và 4 được điều đến bịt cửa đột phá. Đây là mũi phản công xa nhất mà quân đội Đức Quốc xã đạt được khi cố giải vây Budapest. *Giai đoạn thứ năm diễn ra từ ngày 27 tháng 1 đến ngày 13 tháng 2 năm 1945. Cụm quân Đức bị vây tại khu vực Budapest còn cố gắng kháng cự thêm nửa tháng nữa trước khi hạ vũ khí đầu hàng.
Xen giữa 5 giai đoạn này là những diễn biến chính trị, quân sự. Ngày 21 tháng 12 năm 1944, Mặt trận dân tộc độc lập Hungary đã họp tại thành phố Debrecen và lập ra Quốc hội lâm thời và Chính phủ lâm thời Hungary đối địch với Chính phủ của tướng Ferenc Szálasi. Thượng tướng Béla Miklós, nguyên tư lệnh Tập đoàn quân 1 (Hungary) được bầu làm Thủ tướng. Thượng tướng János Verijos, nguyên Tổng tham mưu trưởng quân đội Hungary dưới thời Horthy Miklós chạy sang phía quân đội Liên Xô sau vụ đảo chính ở Budapest được chỉ định làm Bộ trưởng chiến tranh trong chính phủ lâm thời. Chính phủ này đã ký hiệp định đình chiến với đồng minh Liên Xô, Anh và Mỹ.
Chiến dịch Budapest hầu như đã đánh sập những binh đoàn chủ lực của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức). Mặc dù đầu tháng 3, Quân đội Đức Quốc xã cố gắng mở một chiến dịch tấn công lớn bằng xe tăng tại khu vực hồ Balaton nhằm hất cẳng quân đội Liên Xô sang bên kia sông Danube nhưng không thành công. Quân đội Liên Xô và các đồng minh chống phát xít như Nam Tư, Romania, Bulgaria đã mở rộng con đường tấn công Viên, Tiệp Khắc và tiếp cận biên giới phía Nam nước Đức.
Bối cảnh quân sự, chính trị
Quân sự
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, quân đội Đức Quốc xã đã tạm thời chấm dứt được đà rút lui liên tục sau những thất bại hồi mùa hè năm 1944 trên cả Mặt trận Xô-Đức và Mặt trận phía Tây. Tuy nhiên, đến cuối tháng 10 năm 1944, tiềm lực quân sự của nước Đức Quốc xã đã bị phân tán trên cả ba chiến trường Đông Âu, Tây Âu và mặt trận Ý. Những lực lượng dự bị của quân Đức đã được huy động tối đa để ngăn chặn các chiến dịch tấn công của quân đội Liên Xô và đồng minh Anh-Mỹ-Pháp để bảo vệ biên giới nước Đức từ xa.
Ở Mặt trận phía Tây, quân đồng minh phương Tây đã vượt qua tuyến phòng thủ Siegfried và bắt đầu tác chiến trên vùng biên giới nước Đức. Trong tháng 9 và tháng 10 năm 1944, các Cụm tập đoàn C và D (Đức) liên tiếp để mất ba trung tâm phòng ngự quan trọng tại cảng Antwerp, các thành phố Aachen và Lorraine. Đến tháng 11 năm 1944 thì một loạt cứ điểm ở phía Tây sông Rhein như Belfort, Mulhouse và Strasbourg rơi vào tay quân Đồng Minh. Tháng 12 năm 1944, quân đồng minh Anh - Mỹ - Pháp đã có mặt ở bờ Tây sông Rhine. Cuối tháng 12 năm 1944, quân Đức cố gắng mở Chiến dịch phản công Ardennes và Chiến dịch phản công Alsace nhưng cũng chỉ đạt được kết quả tạm thời cầm chân quân đội đồng minh phương Tây tại biên giới phía Tây nước Đức đến đầu tháng 2 năm 1945. Ngoài ra, lãnh thổ nước Đức, đặc biệt là các trung tâm công nghiệp và các thành phố lớn, kể cả Berlin, thường xuyên bị không quân Đồng Minh Anh-Mỹ oanh tạc.
Ở Đông Âu, quân đội Đức Quốc xã phải đối phó với hai gọng kìm tấn công của Hồng quân Liên Xô tại các mặt trận Ba Lan và Hungary. Cũng như hai hướng Ardennes và Alsace ở mặt trận phía Tây, đây cũng là hai hướng chiến lược sinh tử đối với nước Đức Quốc xã ở mặt trận phía Đông. Tại hướng Đông, quân đội Đức Quốc xã tạm thời cầm chân được quân đội Liên Xô trên tuyến sông Wisla nhưng lại để mất ưu thế chiến lược trên vùng Pribaltic. Tại hướng Đông Nam, sau khi quân đội Đức Quốc xã liên tiếp thua trận tại Romania, Bulgaria, Nam Tư, phải rút quân khỏi Hy Lạp và Albania thì Budapest và toàn bộ tuyến phòng thủ Tisza - Danube là những chốt chặn cuối cùng ngăn cản quân đội Liên Xô tiến đến miền Nam nước Đức. Mặc dù một số chiến dịch phản công của quân Đức có thể làm chậm đà tấn công của quân đội Liên Xô nhưng xét cả về thế và lực, quân đội Đức Quốc xã không những không có ưu thế về binh lực mà còn luôn ở thế bị động đối phó.
Chính trị
Từ cuối năm 1944, các đồng minh của chế độ Quốc xã như Romania, Bulgaria đều lần lượt chuyển sang "phía bên kia" hoặc tuyên bố trung lập và rút khỏi chiến tranh như Phần Lan. Cuộc chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư kết thúc thắng lợi đã tước đi của nước Đức Quốc xã một vùng chiếm đóng rộng lớn ở Tây Balkan khả dĩ có thể che chắn từ phía Nam cho vùng công nghiệp dầu mỏ Hungary, một trong những nguồn nhiên liệu lỏng quan trọng cuối cùng mà nước Đức Quốc xã còn nắm giữ. Đồng minh Benito Mussolini của Hitler mặc dù được giải cứu và đưa về Milan để đóng đô nhưng thực chất chỉ còn là một chính phủ bù nhìn không có thực quyền, không có quân đội và không được một ai ngoài nước Đức Quốc xã công nhận. Trong khi đó, gánh nặng quân sự và kinh tế của nước Đức Quốc xã càng thêm nặng nề khi phải chống đỡ cho đồng minh Phát xít Ý giờ đây chỉ còn là một cái xác không hồn.
Từ ngày 4 tháng 11 năm 1944 đến tháng 2 năm 1945, Hội nghị tam cường đồng minh họp tại Yalta đã bàn đến tương lai của nước Đức sau khi thanh toán xong chế độ Quốc xã. Mặc dù còn không ít những điểm bất đồng trong việc phân chia ảnh hưởng trên thế giới và ở châu Âu nhưng có một điều chắc chắn là về nguyên tắc, các đồng minh Anh, Mỹ, Liên Xô đều nhất trí rằng phải thủ tiêu chế độ của Hitler và biến nước Đức trở thành một nước dân chủ, phi quân sự hóa và phi phát xít hóa. Thế nhưng, trước kết cục cáo chung, Đảng Quốc xã Đức và cá nhân Hitler vẫn sẵn sàng huy động hết mọi tiềm lực hiện có để chống giữ kịch liệt hơn và kết hợp các chiến dịch quân sự với những cố gắng ngoại giao và tuyên truyền nhằm chia rẽ khối đồng minh chống phát xít, đặc biệt là chia rẽ Anh - Mỹ với Liên Xô để có thể duy trì chế độ Quốc xã sau khi chiến tranh kết thúc.
Binh lực
Quân đội Liên Xô,Bulgaria và Romania
Giai đoạn 1 và giai đoạn 2
Trong hai giai đoạn này, STAVKA giao cho Phương diện quân Ukraina 2 (tư lệnh: Nguyên soái R. Ya. Malinovsky, tham mưu trưởng: thượng tướng I. Z. Susaykov) thực hiện toàn bộ chiến dịch trên các hướng dẫn đến Budapest. Sau Chiến dịch Debrecen, Phương diện quân Ukraina 2 vẫn có đủ số lượng, thành phần biên chế như đầu tháng 10 năm 1944 nhưng đã có một số sự thay đổi về chất và bố trí lại binh lực xe tăng, cơ giới.
- Do bị thiệt hại đáng kể trong các trận đánh tại khu vực Nyíregyháza, các cụm kỵ binh cơ giới của các tướng I. A. Pliyev và S. I. Gorskov được sáp nhập thành một cụm do tướng I. A. Pliyev chỉ huy. Trong đội hình vẫn có Quân đoàn cơ giới cận vệ 7
- Tập đoàn quân cận vệ 7 do thượng tướng Mikhail Stepanovich Shumilov chỉ huy, có thành phần biên chế như trong Chiến dịch Debrecen, được tăng cường quân đoàn cơ giới cận vệ 2 lấy từ Cụm kỵ binh cơ giới (cũ) của tướng S. I. Gorshkov.
- Tập đoàn quân 40 do trung tướng Filip Feodosyevich Zhmachenko chỉ huy được bổ sung quân số để chuyển các khung sư đoàn bộ binh 54 và 159 thành sư đoàn bộ binh nhẹ. Trong đó, Sư đoàn bộ binh 54 được tăng cường cho Quân đoàn bộ binh 50.
- Tập đoàn quân 27 do thượng tướng Sergey Grigorysvich Trofimenko chỉ huy. Thành phần cơ bản như trong Chiến dịch Debrecen. Riêng Quân đoàn bộ binh 33 được tăng cường Sư đoàn bộ binh 159.
- Tập đoàn quân 53 do thượng tướng Ivan Mefodievich Managarov chỉ huy. Thành phần cơ bản như trong Chiến dịch Debrecen, được tăng cường Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 lấy từ Phương diện quân Ukraina 3. Riêng Quân đoàn xe tăng 18 được điều động cho Tập đoàn quân 46.
- Tập đoàn quân 46 do trung tướng Ivan Timofeyevich Shlemin chỉ huy, được bổ sung Quân đoàn xe tăng 18 lấy từ Tập đoàn quân 53.
- Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 do thượng tướng xe tăng Andrey Grigoriyevich Kravchenko chỉ huy được rút về lực lượng dự bị của Phương diện quân để bổ sung xe tăng và các tổ lái. Riêng Quân đoàn cơ giới cận vệ 5 vẫn tiếp tục chiến đấu trong dải tiến công của Tập đoàn quân 53.
- Tập đoàn quân không quân 5 do thượng tướng Sergey Kondratievich Goryunov chỉ huy.
- Tập đoàn quân Romania 1 do trung tướng Vasile Atanasiu chỉ huy
- Tập đoàn quân Romania 4 do trung tướng Gheorghe Avramescu chỉ huy.
Toàn bộ binh lực của Phương diện quân Ukraina 2 trong các giai đoạn đầu của chiến dịch gồm 39 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn đổ bộ đường không, 9 sư đoàn kỵ binh, 3 quân đoàn cơ giới, 2 quân đoàn xe tăng, 3 lữ đoàn pháo tự hành, 1 lữ đoàn xe tăng độc lập, 1 lữ đoàn hải quân đánh bộ. Tổng quân số 787.000 người.
Từ giai đoạn 3
Chiến dịch Budapest từ giai đoạn 3 bắt đầu có sự tham gia tích cực của Phương diện quân Ukraina 3 (tư lệnh: Nguyên soái F. I. Tolbukhin, tham mưu trưởng: đại tướng S. P. Ivanov) lúc này đã hoàn thành xong chiến dịch giải phóng Beograd và bắt đầu tiếp cận khu vực hữu ngạn sông Danube ở phía Nam Budapest. Binh lực của Phương diện quân Ukraina 3 tham gia chiến dịch Budapest từ ngày 10 tháng 12 năm 1944 gồm có:
Tập đoàn quân cận vệ 4 do trung tướng I. V. Galanin chỉ huy. Thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 20 gồm các sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ 5 và 7, Sư đoàn bộ binh cận vệ 40. Quân đoàn bộ binh cận vệ 21 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 62 và 69. Quân đoàn bộ binh cận vệ 31 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 4, 34 và 80. Quân đoàn bộ binh 68 gồm các sư đoàn bộ binh 52, 93 và 223 Quân đoàn bộ binh 135 gồm các sư đoàn bộ binh 41 (cận vệ) 84 và 252. Pháo binh: Lữ đoàn lựu pháo 123, Trung đoàn pháo chống tăng 438, Trung đoàn súng cối 466, Trung đoàn phòng không 257. Công binh: Lữ đoàn hỗn hợp 56 Tập đoàn quân 46 do trung tướng Ivan Timofeyevich Shlemin chỉ huy được điều động từ Phương diện quân Ukraina 2 sang. Thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 10 gồm các sư đoàn cận vệ 49, 86, 109 và Sư đoàn 180 Quân đoàn bộ binh 23 gồm các sư đoàn bộ binh 99, 316 và Lữ đoàn hải quân đánh bộ 83 Quân đoàn bộ binh 37 gồm các sư đoàn cận vệ 59, 108 và sư đoàn 320. Pháo binh: Lữ đoàn lựu pháo cận vệ 45; Trung đoàn hỏa tiễn cận vệ 92, Trung đoàn pháo chống tăng 437, Trung đoàn súng cối 462, Trung đoàn phòng không 1651. Thiết giáp: Các trung đoàn pháo tự hành 1505, 1897. Công binh: Lữ đoàn hỗn hợp 51 *Tập đoàn quân 57 do trung tướng N. A. Gagen chỉ huy. Thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 6 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 20 và 61, các sư đoàn bộ binh 19, 113. Quân đoàn bộ binh 64 gồm Sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ 10, Sư đoàn bộ binh cận vệ 73 và Sư đoàn bộ binh 299. Quân đoàn bộ binh 75 gồm các sư đoàn bộ binh 74, 233, 236. Pháo binh: Lữ đoàn lựu pháo 160, Trung đoàn hỏa tiễn cận vệ 42, Trung đoàn pháo chống tăng 374, Trung đoàn súng cối 523, Sư đoàn phòng không 71. *Công binh: Lữ đoàn hỗn hợp 65 Tập đoàn quân không quân 17 do thượng tướng không quân V. A. Sudet chỉ huy. Thành phần gồm có: Máy bay tiêm kích: các sư đoàn 194, 236, 288, 295, 194. Máy bay cường kích: các sư đoàn 136, 189, 306. Máy bay ném bom: các sư đoàn 244, 262 và trung đoàn 371. Máy bay vận tải: các trung đoàn 39 và 96 Trinh sát, liên lạc, cứu hộ: các trung đoàn 3 và 282 Lực lượng mặt đất: Các căn cứ vùng 14 không quân, các trung đoàn phòng không 1614, 1615, 1654. Tập đoàn quân Bulgaria 1 do trung tướng Vladimir Stoychev chỉ huy, gồm gồm các sư đoàn bộ binh 3, 8, 10, 11, 12, 16, hai trung đoàn xe tăng, hai trung đoàn pháo binh và các phương tiện tăng cường khác. Các lực lượng trực thuộc phương diện quân: Bộ binh: Tiểu đoàn trinh sát 10 Khung sư đoàn cận vệ 1 Kỵ binh: Quân đoàn kỵ binh cận vệ 5 gồm các sư đoàn kỵ binh cận vệ 11, 12; Sư đoàn kỵ binh 63; Trung đoàn pháo tự hành 1896; các trung đoàn pháo chống tăng cận vệ 5 và 150; Tiểu đoàn xe tăng hạng nhẹ cận vệ 72; Trung đoàn cơ giới cận vệ 9 và Trung đoàn phòng không 585. Pháo mặt đất: Sư đoàn pháo binh hỗn hợp 7 gồm Lữ đoàn pháo nòng dài 11, Lữ đoàn lựu pháo cận vệ 9, các lữ đoàn hỏa tiễn 9 (cận vệ) và 25, Lữ đoàn súng cối 3. Sư đoàn pháo binh hỗn hợp 9 gồm Lữ đoàn pháo nòng dài 26, các lữ đoàn lựu pháo 30 và 115, các lữ đoàn hỏa tiễn 23 và 113, Lữ đoàn súng cối 10. Pháo nòng dài: Trung đoàn 506 Lựu pháo: các trung đoàn 152 và 274 Pháo chống tăng: Các lữ đoàn 7, 9, 10, 42 và 49; các trung đoàn 521 và 1312 Súng cối: và lữ đoàn cận vệ 23, 28, các trung đoàn cận vệ 25, 35, 45, 51, 58, 61 và 87. Pháo phòng không: **Sư đoàn 3 gồm các trung đoàn 1084, 1089, 1114 và 1118; Sư đoàn 4 gồm các trung đoàn cận vệ 253, 254, 268 và Trung đoàn 606; Sư đoàn 22 gồm các trung đoàn 1335, 1341, 1347 và 1353; Sư đoàn 35 gồm các trung đoàn pháo phòng không 772, 1390, 1396 và 1398 *Các trung đoàn độc lập 258 (cận vệ), 271 (cận vệ), 241, 247, 303, 470, 579, 626, 1384 và 1474. *Thiết giáp: Quân đoàn cơ giới cận vệ 1 gồm các lữ đoàn cơ giới cận vệ 1, 2, 3; Lữ đoàn xe tăng cận vệ 9; các trung đoàn pháo tự hành 382 (cận vệ), 1453, 1821; Trung đoàn súng cối 267; Tiểu đoàn mô tô cận vệ 407; tiểu đoàn trinh sát cận vệ 11 và Trung đoàn phòng không 1699. Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 gồm các lữ đoàn cơ giới cận vệ 4, 5, 6; Lữ đoàn xe tăng cận vệ 37; Trung đoàn xe tăng cận vệ 30; các trung đoàn pháo tự hành 251 (cận vệ) và 1509; Trung đoàn súng cối 524; Tiểu đoàn mô tô cận vệ 408; tiểu đoàn trinh sát cận vệ 99 và Trung đoàn phòng không 159. Quân đoàn cơ giới 7 gồm các lữ đoàn cơ giới 16, 63, 64; Lữ đoàn xe tăng cận vệ 41; Trung đoàn xe tăng cận vệ 78; các trung đoàn pháo tự hành 1289 và 1440; Trung đoàn pháo chống tăng 109, Trung đoàn súng cối 614; Tiểu đoàn mô tô cận vệ 40; tiểu đoàn trinh sát cận vệ 94 và Trung đoàn phòng không 1713. Quân đoàn xe tăng 18 gồm các lữ đoàn xe tăng 110, 170, 181; Lữ đoàn cơ giới 32; Trung đoàn pháo tự hành chống tăng cận vệ 363; Trung đoàn pháo tự hành 1438; Trung đoàn pháo nòng dài 452; Trung đoàn pháo chống tăng 1000; Trung đoàn súng cối 292; Tiểu đoàn mô tô cận vệ 106; Tiểu đoàn trinh sát 78 và Trung đoàn phòng không 1694. Xe tăng độc lập: Trung đoàn 249. Cơ giới độc lập: Lữ đoàn cận vệ 32, các trung đoàn 3 (cận vệ) và 53, tiểu đoàn mô tô 67 Pháo tự hành chống tăng: Trung đoàn cận vệ 366 ***Pháo tự hành: Trung đoàn cận vệ chống tăng 366; các trung đoàn 864, 1201, 1202 và 1891.
Hỗ trợ Phương diện quân Ukraina 3 trong việc tiến hành vượt sông Danube còn có Giang đoàn Danub do đô đốc S. G. Gorshkov làm tư lệnh.
Binh lực của Phương diện quân Ukraina 2 cũng có sự thay đổi. Tập đoàn quân 46 của tướng I. T. Shlemin được trả về Phương diện quân Ukraina 3. Quân đoàn kỵ binh cận vệ 5, các quân đoàn cơ giới 7 và cận vệ 2 cũng được điều sang Phương diện quân Ukraina 3. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 trở lại đội hình của Phương diện quân Ukraina 2 với 1 quân đoàn xe tăng (cận vệ 5), 2 quân đoàn cơ giới (cận vệ 9 và 47), 1 trung đoàn xe tăng, 4 trung đoàn pháo tự hành và 1 trung đoàn cơ giới độc lập. Phương diện quân Ukraina 2 vẫn duy trì các quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 và 6 trong đội hình dự bị chiến dịch. Ngoài ra, trong đội hình của Phương diện quân Ukraina 2 còn có Quân đoàn Tiệp Khắc 1 do tướng Ludvick Svoboda chỉ huy gồm 1 sư đoàn và 2 lữ đoàn bộ binh, 1 Lữ đoàn xe tăng và 1 trung đoàn pháo binh.
Quân đội Đức Quốc xã và Hungary
Đại tướng [[Johannes Frießner, tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Nam cho đến ngày 22 tháng 12 năm 1944.]] [[Thượng tướng Bộ binh Otto Wöhler, tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Nam từ ngày 22 tháng 12 năm 1944.]] Thượng tướng SS [[Karl von Pfeffer-Wildenbruch, chỉ huy lực lượng Đức-Hung bị bao vây trong Budapest.]] Đối diện với quân đội Liên Xô là Cụm Tập đoàn quân Nam (tư lệnh: Đại tướng Johannes Frießner) với 35 sư đoàn, trong đó có 9 sư đoàn thiết giáp và cơ giới hóa và 3 lữ đoàn, cùng với những gì còn lại của quân đội Hungary thân Đức sau trận đánh dữ dội tại Debrecen. Tổng cộng phía Đức có 190.000 binh sĩ và sĩ quan, bố trí trên 3 lớp chiến tuyến dọc theo sông Danube ở phía Bắc và Nam thành phố Budapest (một phần của hệ thống phòng thủ đó là "tuyến Margarita" nằm trên sông Drava, bờ hồ Balaton và hồ Velence và tiếp tục chạy song song với biên giới Tiệp Khắc-Hungary. Bản thân thành phố Budapest cũng được bố trí thành một pháo đài khổng lồ do các đơn vị Đức và Hungary chống giữ.
Từ tháng 11 đến tháng 12 năm 1944
Trong hai tháng đầu của chiến dịch, lực lượng quân sự Đức Quốc xã và Hungary tại Budapest và các khu vực lân cận gồm có:
Tập đoàn quân 8 (Đức) do tướng Otto Wöhler (đến ngày 22 tháng 12), tướng Ulrich Kleemann (đến ngày 28 tháng 12) và tướng Hans Kreysing lần lượt chỉ huy. Thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh 29 (Đức-Hungary) của tướng Kurt Röpke. Trong biên chế có: Sư đoàn cảnh vệ thiết giáp 4 SS (Đức). Sư đoàn kỵ binh 8 SS (Đức) Sư đoàn bộ binh 9 (Hungary) Quân đoàn bộ binh 9 (Hungary). Trong biên chế có: **Sư đoàn cảnh vệ thiết giáp 3 SS (Đức) Sư đoàn bộ binh 2 (Hungary) Quân đoàn bộ binh 17 (Đức) của tướng Hans Kreysing (đến 28 tháng 12) và tướng Otto Tiemann. Trong biên chế có: **Sư đoàn sơn chiến 3 (Đức) Sư đoàn bộ binh 8 (Đức) Sư đoàn bọ binh nhẹ 27 (Hungary) Lữ đoàn biên phòng 9 (Hungary) Tập đoàn quân 6 (Đức) do tướng Maximilian Fretter-Pico (đến ngày 22 tháng 12) và tướng Hermann Balck lần lượt chỉ huy. Thành phần gồm có: Quân đoàn xe tăng 3 của tướng Hermann Breith. Trong biên chế có: Sư đoàn xe tăng 13 (Đức) Sư đoàn xe tăng 23 (Đức) Sư đoàn cơ giới "Feldhernhalle" (Đức) Sư đoàn bộ binh 46 (Đức) Cụm tác chiến Sư đoàn kỵ binh 22 (Đức) Quân đoàn xe tăng 4 của tướng Ulrich Kleemann. Trong biên chế có: **Sư đoàn xe tăng 1 (Đức) Sư đoàn xe tăng 24 (Đức) *Sư đoàn xe tăng 2 (Hungary) *Quân đoàn bộ binh 72 (Đức-Hungary) của tướng August Schmidt (đến 15 tháng 1 năm 1945) và tướng Anton Grasser. Trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh 76 (Đức) Sư đoàn bộ binh 4 (Hungary) Sư đoàn bộ binh 7 (Hungary) Sư đoàn bộ binh 12 (Hungary) Tập đoàn quân 2 (Hungary-Đức) của tướng Verress Lajos. Thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh 2 (Hungary-Đức). Trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh 15 (Đức) Sư đoàn bộ binh 2 (Hungary) *Lữ đoàn dự bị huấn luyện *Quân đoàn bộ binh 7 (Hungary). Trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh 7 (Hungary) Sư đoàn bộ binh 25 (Hungary) __'Tập đoàn quân 3 (Hungary-Đức) của tướng Heszlényi József. Trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng 57 (Đức-Hungary) của tướng Friedrich Kirchner. Trong biên chế có: Sư đoàn xe tăng 20 (Đức) Sư đoàn bộ binh 4 SS (Đức) Sư đoàn kỵ binh 1 (Hungary) Cụm tác chiến sư đoàn Winkler Quân đoàn bộ binh 8 (Hungary). Trong biên chế có: **Sư đoàn xe tăng 1 (Hungary) Sư đoàn bộ binh 8 (Hungary) ***Sư đoàn bộ binh 23 (Hungary)
Từ đầu năm 1945
Từ đầu năm 1945, chủ lực Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) ở Hungary được tăng cường 5 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn kỵ binh và 1 sư đoàn bộ binh: Sư đoàn xe tăng 3 (Đức) được lấy từ lực lượng dự bị của Cụm tập đoàn quân Trung tâm nhập vào biên chế của Tập đoàn quân 6 Sư đoàn xe tăng 6 (Đức) được lấy từ lực lượng dự bị của Cụm tập đoàn quân Trung tâm nhập vào biên chế của Tập đoàn quân 6 Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) được lấy từ Tập đoàn quân xe tăng 1 ở Slovakia về. Sư đoàn xe tăng 12 SS "Hitlerjugend" được lấy từ lực lượng dự bị của Cụm tập đoàn quân B nhập vào biên chế của Tập đoàn quân 8. Sư đoàn xe tăng 18 SS ""Horst Wessel" được điều động từ mặt trận Ý, nhập vào biên chế Tập đoàn quân 6. Sư đoàn kỵ binh 22 SS "Maria Theresia". Sư đoàn kỵ binh 37 SS "Florian Geyer". Sư đoàn bộ binh 13 SS "Handschar" rút từ Croatia về.
Kế hoạch
Quân đội Liên Xô
Giai đoạn 1
Việc hoàn thành mục tiêu giải phóng Budapest trong thời gian này trở thành một mục tiêu chính trị đặc biệt quan trọng, giải phóng được Budapest sẽ mang ý nghĩa lớn trong việc củng cố vị thế và tiếng nói của phía Liên Xô trong bàn đàm phán tại Yalta. Nhận thức rõ điều này, Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin đã ra chỉ thị cho Phương diện quân Ukraina 2 cần phải nhanh chóng tổ chức ngay cuộc tấn công vào Budapest, không thể chần chừ. Đồng thời, việc nhanh chóng giải phóng thủ đô Hungary sẽ có tác động lớn đến cán cân giữa các thế lực chính trị tại đất nước này. Không lâu sau đó, chỉ thị về cuộc tấn công đã được phê chuẩn vào lúc 22 giờ ngày 28 tháng 10 năm 1944. bằng cách chuyển mũi tấn công chính sang cánh trái của Phương diện quân Ukraina 2.
Giai đoạn 2
Do không đủ lực lượng xe tăng cơ giới, cuộc tấn công đầu tiên của Phương diện quân vào Budapest từ một dải hẹp trên hướng Nam và Đông Nam bắt đầu ngày 29 tháng 10 đã sớm kết thúc ngày 3 tháng 11. Bộ Tổng tham mưu Liên Xô không thuyết phục được I. V. Stalin thay đổi quyết định trước khi ông đi Yalta dự Hội nghị tam cường và buộc phải loay hoay tìm lối thoát.
Bộ Tổng tham mưu Liên Xô quyết định mở rộng chính diện tấn công ra cả khu vực sườn phải của Phương diện quân Ukraina 2 trên hướng Miskolc - Hatvan chứ không chỉ bó hẹp ở hướng Nam và Đông Nam Budapest. Tại khu vực của Tập đoàn quân số 46 vẫn duy trì các hoạt động tấn công. Các quân đoàn cơ giới cận vệ 2 và 4 tại hướng Đông Nam Budapest, phía Bắc Szeged sẽ mở đường cho Tập đoàn quân cận vệ 7 tổ chức một mũi phụ công ở hướng Tây Bắc của thành phố Szolnok vào nơi tiếp giáp giữa tuyến phòng thủ của Tập đoàn quân 6 (Đức) và Tập đoàn quân 3 (Hungary) với mục tiêu thiết lập một đầu cầu bên bờ Tây sông Tisza. Cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 sẽ tiến công đồng loạt trên hướng Miskolc, Eger và Hatvan với nhiệm vụ găm giữ chủ lực quân Đức tại đây và không cho phép quân Đức điều quân đến tăng viện cho hướng chính tại Budapest. Trong khi đó, Phương diện quân Ukraina 3 sẽ tiếp tục cấp tốc hành tiến đến vùng Banat và sử dụng các đơn vị tiên phong của họ để đánh chiếm một đầu cầu bên hữu ngạn của sông Danube tại Tây Nam Budapest. Bộ Tổng tham mưu Liêm Xô còn tính toán rằng việc gia tăng tăng sức ép của Phương diện quân Ukraina 2 sẽ kéo bớt các lực lượng Đức ở Slovakia về hướng Budapest, giúp cho Phương diện quân Ukraina 4 vượt qua điểm nút ở Chov để chia cắt Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) với Tập đoàn quân 8 (Đức).
Giai đoạn 3
Vì mở rộng diện tấn công trên mấy hướng nên binh lực của Phương diện quân Ukraina 2 bị phân tán. Thêm vào đó là những hao tổn không nhỏ qua hai giai đoạn tấn công nên ngày 24 tháng 11 năm 1944, quân đội Liên Xô phải dừng tấn công lần thứ hai để làm lại kế hoạch tấn công Budapest gần như từ đầu. Theo kế hoạch cũ, cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 tấn công trên 3 hướng gần như đồng đều nhau về binh lực: Hướng Miskolc: Tập đoàn quân 27 phụ trách chính diện 50 km Hướng Eger: Tập đoàn quân 53 phụ trách chính diện 45 km *Hướng Hatvan: Tập đoàn quân cận vệ 7 phụ trách chính diện 55 km
Trong báo cáo ngày 24 tháng 11 gửi về STAVKA, Nguyên soái S. K. Timoshenko cho rằng cần coi hướng Hatvan - Balassagyarmat là hướng chính; hướng Miskolc chỉ là hướng phụ.
Việc Phương diện quân Ụkraina 3 hoàn thành nhiệm vụ ở Nam Tư và tiến ra biên giới Hungary đã tạo cơ hội cho Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô sửa chữa những sai lầm đã mắc phải trong hai giai đoạn đầu của chiến dịch. F. I. Tolbukhin cho rằng dùng phương diện quân của ông tiến sang phía Tây Hungary là thất lợi về thế trận quân sự mà nên sử dụng cánh quân này phối hợp với Phương diện quân Ukraina 2 để bao vây, tiêu diệt cụm quân Đức tại Budapest. Sau đó mới có thể tính đến chuyện tấn công theo hướng Viên. STAVKA đã chấp nhận sáng kiến của F. I. Tolbukhin. Do đó, kết quả chiến sự tại Hungary có ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ đó của Ban lãnh đạo nước Đức Quốc xã.
Diễn biến
Giai đoạn thứ nhất
Kế hoạch tấn công Budapest của Liên Xô trong giai đoạn 1
22 giờ ngày 28 tháng 10 năm 1944, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô có văn bản quyết định khẳng định mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin: "Ngày mai, phương diện quân Ukraina 2 phải mở ngay cuộc tấn công vào Budapest".
Giai đoạn thứ hai
Sĩ quan và các binh sĩ xe tăng Liên Xô nhận nhiệm vụ tấn công Budapest
Ngày 4 tháng 11, Đại bản doanh ra lệnh cho Phương diện quân Ukraina 2 mở rộng khu vực tấn công nhằm đánh bại cụm quân phòng thủ Budapest của Đức từ các hướng Bắc, Nam và Đông. Chiến sự lại bùng nổ dữ dội xung quanh Budapest.
Tại cánh Bắc, tướng Johannes Frießner đã điều các sư đoàn cảnh sát thiết giáp SS 3 và 4 từ hướng bắc Miskolc về gần Budapest, phối hợp với Quân đoàn xe tăng 3 và Tập đoàn quân 2 (Hungary) tăng mật độ phòng thủ trên hướng Đông Budapest. Ngày 11 tháng 11, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng Pliyev đã tiến công được 100 km dọc bờ Tây sông Tisza. Ngày 14 tháng 11, chủ lực của các tập đoàn quân 40, 27 và 53 (Liên Xô) đã tập kết đủ bên hữu ngạn sông Tisza và bắt đầu tấn công. Tuy nhiên, trước sức phòng thủ của 11 sư đoàn Đức - Hungary, cuộc tấn công phát triển rất chậm chạp trong bùn lầy. Dựa vào hệ thống phòng thủ thứ 2 được chuẩn bị trước, liên quân Đức - Hungary vẫn giữ được tuyến phòng thủ trên các dãy đồi từ Miskolc qua Eger và Hatvan đến Szegled. Các sư đoàn kỵ binh và các lữ đoàn cơ giới Liên Xô mở nhiều cuộc đột kích nhưng vẫn không vượt qua được tuyến phòng thủ này.
Ngày 24 tháng 11 năm 1944, Nguyên soái S. K. Timoshenko sử dụng quyền của đại diện Đại bản doanh tại hướng Tây Nam quyết định dừng tấn công. Trong báo cáo cùng ngày gửi về STAVKA, ông nêu rõ nguyên nhân của quyết định đó:
Giai đoạn thứ ba
Xe tăng IS-2 của quân đội Liên Xô tham chiến ở khu vực Tây Nam Budapest
Những kiến giải của S. K. Timoshenko được Đại bản doanh chấp nhận và ngày 26 tháng 11, Phương diện quân Ukraina 2 nhận được chỉ thị phải tái tổ chức và củng cố lực lượng để nhanh chóng đạt được ưu thế lớn về binh lực so với quân Đức trong khu vực, đặc biệt phải tập trung một lực lượng lớn các đơn vị xe tăng và pháo binh nhằm tăng cường sức mạnh đột phá. Mũi tấn công chính do Tập đoàn quân cận vệ số 7 đảm nhiệm. Sự tham gia của Phương diện quân Ukraina 3 trên hướng Budapest đã tăng cường đáng kể binh lực tấn công của quân đội Liên Xô tại hướng này, làm tăng mật độ tập trung binh lực cũng như sức mạnh đột phá của các mũi tiến công của Hồng Quân thêm rất nhiều. Quân đội Liên Xô đã có thể thực hiện kế hoạch tấn công Budapest từ nhiều hướng: Đông, Bắc, Đông Nam, Nam và Tây Nam. Ý định của quân đội Liên Xô trong giai đoạn này là bao vây thành phố này bằng hai gọng kìm lớn: gọng phía Bắc bao gồm Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 và Cụm kỵ binh cơ giới hóa Pliyev đánh từ Sahy và gọng phía Nam do quân đoàn cơ giới cận vệ số 2 đánh từ một đầu cầu nhỏ trên sông Danube, gần Szekesfehervar lên Esztergom ở phía Tây Budapest.
Trong khi Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam Đức còn đang tranh cãi về việc bố trí lực lượng tăng viện thì ngày 20 tháng 12 năm 1944, các Phương diện quân Ukraina 2 và 3 đồng loạt chuyển trạng thái tấn công vào Budapest. Mũi đột kích phía Bắc gồm Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6, Cụm Kỵ binh cơ giới hóa Pliyev và Tập đoàn quân cận vệ 7 đã đánh vào sau lưng các tuyến phòng ngự của quân Đức và đến ngày 27 tháng 12 đã tiếp cận sông Danube đối diện phía Bắc Esztergom. Mũi đột kích phía Nam bao gồm Tập đoàn quân 46, Tập đoàn quân cận vệ 4 được mở đường bởi Quân đoàn xe tăng 18, Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 đã đập nát phòng tuyến Margareithe, đánh bại các sư đoàn xe tăng Đức không được bộ binh hỗ trợ. Ngày 25 tháng 12, các quân đoàn xe tăng và cơ giới Liên Xô đánh chiếm Szekesferhervar, Zamoi (???), Mor và vọt tiến lên phía Bắc. Ngày 26 tháng 12 năm 1944, Quân đoàn xe tăng 18 (Liên Xô) đánh chiếm Esztergom.
Sự việc xảy ra tại Phương diện quân Ukraina 2 còn bi thảm hơn. 11 giờ sáng ngày 29 tháng 12, tại phòng tuyến của Quân đoàn bộ binh 30 ở Kispest, đại úy Miklós Steinmetz cùng trung úy N. V. Kuznetsov và hạ sĩ tùy tùng P. A. Filimonenko di chuyển trên một chiếc xe con hiệu Volkswagen có cắm cờ trắng sang phòng tuyến của quân Đức để đàm phán ngừng bắn. Bất chấp nhưng lời kêu gọi liên tục của đại úy Miklós Steinmetz bằng cả tiếng Đức và tiếng Hungary, hỏa lực súng máy Đức từ ba phía đã quét ngang chiếc xe. Đại úy Miklós Steinmetz cùng trung úy N. V. Kuznetsov và hạ sĩ tùy tùng P. A. Filimonenko đều thiệt mạng.
Quân Đức và Hungary phản công
Sư đoàn kỵ binh 8 SS "Florian Geyer" tham gia chiến dịch phản công Konrad I
Trong thời gian này, phương diện quân Ukraina 2 bắt đầu tập trung một lực lượng lớn dùng vào việc thủ tiêu "cái chảo" Budapest và, vô hình trung, đã làm binh lực tại vòng vây phía Tây thành phố trở nên mỏng đi. Người Đức đã không bỏ qua cơ hội này. Quân đội Đức Quốc xã không chấp nhận dễ dàng để mất thành phố và bắt đầu dốc toàn lực để phá vỡ vòng vây của quân đội Liên Xô tại đây. Từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 1 năm 1945, Đại tướng Heinz Guderian, Tổng tham mưu trưởng mới của Bộ Tổng tư lệnh Lục quân Đức đã đến Komarno để kiểm tra tình hình sau khi tướng Otto Wöhler được cử thay tướng Johannes Frießner chỉ huy Cụm tập đoàn quân Nam. Otto Wöhler báo cáo cho Heinz Guderian biết ông ta đã nhận được tăng viện 5 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn kỵ binh, 1 sư đoàn bộ binh lấy từ lực lượng dự bị, từ Ý, từ Cụm tập đoàn quân B và từ Croatia rút về.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại Szekesferhervar, trinh sát của Tập đoàn quân cận vệ 4 (Liên Xô) thu được hai tấm bản đồ của Sư đoàn xe tăng 20 (Đức). Trên bản đồ có đánh dấu vị trí của cơ quan chỉ huy các quân đoàn xe tăng 3 và 57 (Đức), các sở chỉ huy của các sư đoàn xe tăng 1, 3, 6, 8, 23 và trung đoàn xe tăng hạng nặng 130 (Đức) ở khu vực hồ Balaton. Ngày 1 tháng 1 năm 1945, trinh sát của cả hai phương diện quân Liên Xô đã xác định được lực lượng thiết giáp Đức tập trung tại khu vực xung quanh Budapest gồm 13 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn cơ giới hóa và một lữ đoàn cơ giới hóa, một mật độ tập trung binh lực xe tăng cao hiếm có đối với quân đội Đức Quốc xã ở mặt trận phía Đông. Bộ Tổng tham mưu Liên Xô nhận định, việc tập trung xe tăng với mật độ cao như vậy chắc chắn chỉ để nhằm phản công.
Ở Tây Nam Budapest, quân Đức vẫn không dừng lại. Ngày 7 tháng 1, tận dụng thành quả của Quân đoàn xe tăng 4 SS, Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) cũng tổ chức tấn công gần Esztergom và Szekesfehervar trong giai đoạn II của Chiến dịch Konrad nhằm chiếm lại sân bay Budapest để cải thiện khả năng tiếp tế cho số quân bị vây. Giống như lần trước, đợt tấn công này đã bị Tập đoàn quân cận vệ 4 (Liên Xô) chặn đứng gần khu vực sân bay. Quân đoàn xe tăng 4 SS và Tập đoàn quân 3 Hungary đã tạo ra mối đe dọa thực sự cho vòng vây của quân đội Liên Xô tại khu vực giữa hồ Balaton và hồ Velence. Huy động 560 xe tăng có trong tay, ý đồ của tướng Otto Wöhler là dùng ba mũi tấn công bằng xe tăng. Mũi thứ nhất từ Đông Bắc Inota tấn công theo hướng Zamoj (???) và Szakvar (Csakvar), hội quân với mũi tấn công phía Bắc ở Bizhke (Bicske), bao vây chia cắt Quân đoàn kỵ binh cận vệ 5 và Tập đoàn quân 68 (Liên Xô) ở khu vực Hant (Gant) - Szakvar. Mũi thứ hai có chiều sâu lớn hơn, từ phía Đông Veszprem đánh sang phía Đông, đến Sapozd (Sarosd) thì chia làm hai cánh. Cánh phải tiến ra sông Danube tại Dunapentele (???) che chở sườn phải cho mũi tấn công chính. Cánh trái vòng qua phía Đông hồ Vemnce lên hướng Bắc đến Barazka (Baracska), đánh vào sau lưng quân đoàn bộ binh 135, các quân đoàn bộ binh cận vệ 20, 21 và Quân đoàn cơ giới 7 tại khu vực ngoại vi phía Tây Budapest. Ngoài ra, Tập đoàn quân 3 (Hungary) cũng được giao nhiệm vụ tấn công dọc theo kênh Szio, che chắn sườn phải cho toàn bộ cánh quân xe tăng Đức.
Đối phó lại, Phương diện quân Ukraina 3, lực lượng chủ yếu chịu các cuộc tấn công của quân Đức, đã xây dựng một hệ thống phòng ngự chiều sâu nhiều tầng nhiều lớp dựa theo kinh nghiệm của trận Vòng cung Kursk (với chiều sâu trận tuyến lên đến 25-50 cây số) cùng một hệ thống pháo chống tăng và pháo binh dày đặc, có nơi lên tới 160-170 khẩu/km chính diện. Thông tin tinh báo chính xác cũng đã giúp phía Liên Xô kịp thời phát hiện và điều động các đơn vị xe tăng và pháo tự hành đến những nơi nguy hiểm, chặn đứng các mũi công kích mạnh của phía Đức. Ngày 20 tháng 1, Nguyên soái F. I. Tonbukhin đã thành lập được hai cụm quân xung kích mạnh để chống lại cuộc phản công của quân đội Đức Quốc xã. Cụm Bắc tập kết ở sát phía Tây Budapest gồm Quân đoàn xe tăng 23 và các quân đoàn kỵ binh 1 và 5. Cụm Nam tập kết ở khu vực Dunafioldvar (Dunafoldvar) gồm Quân đoàn xe tăng 18 và các quân đoàn bộ binh 30 và 133. Bộ Tổng tham mưu Liên Xô cũng điều Tập đoàn quân 27 từ Phương diện quân Ukraina 2 sang tăng cường cho Phương diện quân Ukraina 3 giữ tuyến sông Danube từ Erszi đến Dunapentele. Tập đoàn quân 26 được đưa từ lực lượng dự bị của STAVKA đến khu vực Szesze (???) sẵn sàng tham chiến cùng với cánh quân xung kích. Những gì diễn ra trong giai đoạn đầu của cuộc bao vây đã cho thấy tiêu diệt "cái chảo" Budapest đòi hỏi một nỗ lực và thời gian không nhỏ. Đồng thời, trong tình thế bị bao vây, số đạn dược và nhiên liệu, quân nhu dự trữ có hạn của quân đồn trú dần dần vơi cạn. Các xe tăng và đại bác của họ không còn phát huy hỏa lực mạnh mẽ vốn có của nó. Ngày 12 tháng 1 năm 1944, quân đội Liên Xô đã đoạt được một tuyến đường băng quan trọng vốn là nơi hạ cánh khẩn cấp cho các máy bay vận tải Ju-52 làm nhiệm vụ tiếp tế. Sang ngày 14, quân đội Liên Xô tại Pest đã tiếp cận được sông Danube, chia cắt khối quân Đức đồn trú tại Pest thành hai mảnh. Đảo Csepel, nơi trú đóng của các cơ sở sản xuất đạn dược và súng chống tăng cho quân Đức, cũng bị đánh chiếm vào giữa tháng 1.
Tháng 11 năm 1944, tại Debrecen vừa được giải phóng trước đó ít ngày, các đại biểu của Mặt trận Hungary tự do đã bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc Hungary với nhiệm vụ chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở Budapest. Mặt trận Hungary tự do cũng được đổi tên thành Mặt trận Tổ Quốc Hungary. Tuy nhiên, cuộc đảo chính quân sự lật đổ nhiếp chính Horthy Miklós đã làm hỏng cuộc khởi nghĩa. Lực lượng SS và Gestapo không chỉ truy bắt những người thuộc phe Horthy Miklós mà còn truy bắt cả những người cộng sản hoạt động bí mật. Nhiều cơ sở của Mặt trận Hungary tự do ở Budapest bị phá vỡ. Ngày 1 tháng 12 năm 1944, những người yêu nước Hungary đã tổ chức đánh bom nhà hát thành phố Budapest, nơi đang tập trung các sĩ quan Đức trong một cuộc họp. Tuy nhiên, do thiếu lực lượng hỗ trợ, vụ đánh bom đã không thể châm ngòi cho một cuộc khởi nghĩa.
Ngày 21 tháng 12 năm 1944, tại Debrecen, Quốc hội lâm thời Hungary được thành lập do Giáo sư luật học Zsedényi Béla, người vừa trốn thoát khỏi nhà tù của Gestapo tại Miskolc làm Chủ tịch và thông qua "Cương lĩnh khôi phục nền dân chủ và phát triển Hungary". Ngày 22 tháng 12, Quốc hội lâm thời đã bầu ra Chính phủ lâm thời Hungary do thượng tướng Miklós Béla đứng đầu. Thành phần Chính phủ lâm thời gồm các đại biểu của Đảng Xã hội dân chủ Hungary, Đảng Dân tộc đại diện cho tầng lớp điền chủ, Đảng Độc lập đại diện cho các tiểu nông và các đại biểu của Đảng Cộng sản Hungary. Một số tướng lĩnh và chính khách của chính phủ Horthy Miklós đã bị lật đổ cũng tham gia chính phủ như tướng Gábor Farago, tướng Janós Veriosz và bá tước Géza von Teleki. Nhiệm vụ đầu tiên mà Quốc hội lâm thời Hungary giao cho chính phủ của tướng Miklós Béla là phải ký kết càng sớm càng tốt một hiệp định đình chiến giữa Hungary với Liên Xô, các nước đồng minh Anh - Mỹ và các nước mà Hungary đang trong tình trạng chiến tranh với họ.
Quân đội thực sự của nước Hungary mới được hình thành bằng một con đường khác. Đó là các tù binh Hungary bị quân đội Liên Xô bắt giữ và những người lính Hungary tự nguyện ra đầu hàng phía Liên Xô. Những binh sĩ Hungary bày tỏ nguyện vọng muốn được tham chiến bên hàng ngũ Hồng Quân và các chỉ huy Liên Xô đã ủng hộ họ. Tại các sư đoàn bộ binh 180, 297, 320, Sư đoàn cận vệ 108 và Lữ đoàn hải quân đánh bộ 83 đều lập ra các đại đội tình nguyện Hungary. Bước ngoặt quyết định dẫn đến việc thành lập trung đàn tình nguyện Hungary đầu tiên đến vào ngày 11 tháng 2 năm 1945 khi trung tá Variháza Oscar, chỉ huy trưởng Trung đoàn bộ binh 6 thuộc Sư đoàn bộ binh 10 (Hungary) ra hàng Hồng Quân Liên Xô, mang theo cả cơ quan tham mưu trung đoàn và khoảng 300 binh sĩ Hungary. Đơn vị này đã trở thành nòng cốt để thành lập "Trung đoàn tình nguyện Buda". Trung đoàn gồm 2.534 sĩ quan và binh sĩ, đã tham gia giải phóng Budapest và Chiến dịch Viên.
Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng
Kết quả
Tổn thất về quân sự
Những gì xảy ra tại Budapest là một đòn nặng giáng vào binh lực của quân đội Đức Quốc xã và lực lượng Hungary thân Đức khi một phần rất lớn binh lực Đức Quốc xã và Hungary đã bị loại khỏi vòng chiến, trong đó có nhiều sư đoàn bị xóa sổ hoàn toàn như Sư đoàn xe tăng 13, Sư đoàn bộ binh xung kích "Feldherrnhalle", Sư đoàn kỵ binh SS số 8 "Florian Geyer" và Sư đoàn kỵ binh tình nguyện SS số 22 "Maria Theresa". Về phía Hungary, Quân đoàn Hungary số 1 gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Ngoài ra các sư đoàn bộ binh số 10, 12 và Sư đoàn xe tăng 1 (Hungary) cũng bị xóa sổ. Theo các tài liệu Liên Xô, trong số 188.000 quân Đức và Hungary đã bị nhốt trong "cái chảo" Budapest có 49.000 người thiệt mạng, 110.000 người bị bắt làm tù binh. Khoảng 28.000 quân Đức và Hungary thoát khỏi vòng vây bằng nhiều con đường khác nhau, chủ yếu là đường không. Quân đội Liên Xô thu giữ từ đối phương 15 máy bay, 269 xe tăng và pháo tự hành, 1.257 pháo, 467 súng cối, 1.431 súng máy hạng nặng, 83 xe bọc thép, 5.153 ô tô, 1.326 mô tô, 194 đầu máy xe lửa, 3.925 toa xe chở hàng quân sự, 9.475 toa xe khác, 46 kho vũ khí, đạn dược và thực phẩm. Một số nguồn tài liệu cũng cáo buộc một bộ phận quân đội Liên Xô - trong cơn giận dữ và căm thù về những tội ác mà phe Trục gây ra cho đất nước mình - đã gây nên những tổn thất cho dân thường Hungary. Một số cáo buộc cho rằng 50.000- 200.000 phụ nữ Hungary đã bị hãm hiếp. 330.000 người Hungary cùng 170.000 người gốc Đức đã bị bắt giam và giải về các trại tù nhân ở Liên Xô.
Thay đổi lãnh thổ
Sau khi quân đội Liên Xô bao vây Budapest, chính phủ của Ferenc Szálasi chạy về Sopron sát biên giới nước Áo và chỉ còn là một chính phủ bù nhìn. Tuy Ferenc Szálasi vẫn còn một số tàn quân của Tập đoàn quân 3 (Hungary) đang chiến đấu tại vùng hồ Balaton, nhưng đạo quân này đã mất hết tinh thần và giảm sút sức chiến đấu, không đủ kiểm soát phần lãnh thổ còn lại của Hungary.
Theo hiệp định đình chiến với phe Đồng Minh do Chính phủ lâm thời Hungary ký kết với đại diện chính phủ các nước Liên Xô, Anh, Mỹ và các đồng minh chống phát xít ngày 20 tháng 1 năm 1945 tại Moskva, Hungary hứa sẽ trả lại vùng Transilvania cho Romania, trả lại tỉnh Vojvodina và các quận Csártonyai, Perlaky cho Nam Tư, trả lại vùng đất ven biên giới phía Bắc từ Somorjai đến Ungvary cho Slovakia (Tiệp Khắc). Các quận Ungi, Beregi, Maramaros bị cắt trả cho Ukraina. Những thay đổi này được khẳng định tại Hiệp ước Hòa bình Paris năm 1947.
Đánh giá
Chiến dịch Budapest là một trong các chiến dịch ác liệt nhất trên chiến trường Đông Âu vào giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai. Về quy mô sử dụng binh lực, nó chỉ thua kém chiến dịch Berlin và tương đương với các chiến dịch tại Warszava, Đông Phổ. Do là một trong ba hướng sinh tử đối với nước Đức Quốc xã nên cả quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã đều đưa đến đây những binh đoàn mạnh nhất của hai bên.
Chiến thuật đánh nhanh, thắng nhanh của quân đội Liên Xô đã bị phá sản khi hai cuộc đột kích của Phương diện quân Ukraina 2 không thành công trong thời gian ngắn cuối tháng 10, đầu tháng 11 và trong tháng 11 năm 1944. Quân đội Liên Xô buộc phải điều chỉnh kế hoạch từ tấn công đột phá sang đánh công kiên lâu dài. Trong các giai đoạn cuối của chiến dịch, sự tham gia trực tiếp của Phương diện quân Ukraina 3 và việc điều bớt binh lực của Phương diện quân Ukraina 2 cho Phương diện quân Ukraina 3 là một quyết định chính xác của Bộ Tổng tham mưu Liên Xô. Không thể chống nổi hai mũi tiến công có sức mạnh tương đương nhau ở phía Đông Bắc và Tây Nam Budapest, quân đội Đức Quốc xã và Hungary lần lượt để mất những cụm cứ điểm quan trọng và cuối cùng, một cụm quân lớn bị vây tại Budapest chiếm hơn 30% binh lực của quân đội Đức Quốc xã và chư hầu Hungary tại Hungary khi đó.
Cuộc tấn công phá vây của quân đội Đức Quốc xã ban đầu đạt được một số kết quả, song vẫn không đạt được mục tiêu. Sở dĩ nó thất bại là vì các tướng lĩnh tại Bộ Tổng tham mưu Lục quân Đức đã không căn cứ vào thực lực để đề ra mục tiêu chiến dịch với những tham vọng lớn: không chỉ chiếm lại Budapest mà còn hất quân đội Liên Xô trở lại bên kia sông Danube. Chỉ một nhiệm vụ giải vây cho Cụm quân Budapest đã là tương đối khó khăn cho dù quân Đức được tăng viện nhiều xe tăng và kỵ binh cơ giới. Việc trao thêm một nhiệm vụ thứ hai, bao vây 2 quân đoàn bộ binh, 1 quân đoàn kỵ binh và 1 quân đoàn cơ giới Liên Xô tại phía Tây Budapest là một nhiệm vụ quá sức đối với cả ba cánh quân xe tăng Đức. Nó làm cho binh lực của quân Đức bị phân tán ra 3 đến 4 hướng và cuối cùng, không một hướng nào đạt được mục tiêu đề ra. Trong khi đó, cả hai phương diện quân Liên Xô đang nắm trong tay những lực lượng dự bị rất mạnh gồm ba quân đoàn xe tăng, 1 quân đoàn cơ giới, 1 quân đoàn kỵ binh, 3 quân đoàn bộ binh, chưa kể các tập đoàn quân 26 và 27 (17 sư đoàn bộ binh) và Tập đoàn quân cận vệ 9 (9 sư đoàn bộ binh) được điều từ lực lượng dự bị của STAVKA đến ngày 26 tháng 1 đã có mặt tại chiến trường. Trong khi đó, Tập đoàn quân xe tăng 6 SS (Đức) được điều từ biên giới Pháp - Đức sang vẫn còn đang trên đường đi và chỉ có thể tập kết tại Hungary vào cuối tháng 2 năm 1945.
Quân đội Liên Xô có những sai lầm ban đầu về chiến thuật, song họ đã nhanh chóng điều chỉnh và tăng cường binh lực để tạo thế áp đảo trên những hướng tấn công chính. Căn bệnh chủ quan khinh địch phát sinh trong quân đội Liên Xô sau những chiến thắng ở Romania cũng được khắc phục triệt để. Ngược lại, quân Đức sau những thành công ban đầu ở Debrecen và phía Đông Budapest, cùng với lực lượng dự bị dồi dào được kéo đến đã nuôi những tham vọng quá lớn và kết quả là họ đã không sử dụng có hiệu quả những lực lượng đó. Một số nhà quân sự phương Tây cho rằng nếu quân đội Đức Quốc xã gộp lực lượng tham gia các chiến dịch giải vây Budepest (Konrad I) và Chiến dịch phản công hồ Balaton (Konrad II) và gộp cả hai chiến dịch này làm một thì quân đội Liên Xô sẽ còn gặp khó khăn hơn nữa trên chiến trường Hungary đầu năm 1945.
Ảnh hưởng
Chiến dịch Budapest thành công đã giáng những đòn nặng nề vào Đế chế thứ ba với việc đánh sập những lực lượng chủ lực của Cụm Tập đoàn quân Nam, gần như giải phóng toàn bộ lãnh thổ Hungary và xóa bỏ những nút chặn con đường dẫn tới Tiệp Khắc và Áo, mở đường cho thành công của Chiến dịch Viên diễn ra chỉ hai tháng sau đó. Chiến thắng tại Budapest cũng tước đi đồng minh chính trị cuối cùng của nước Đức Quốc xã tại Đông Âu cũng như nguồn dầu mỏ và lúa mì có tầm quan trọng sống còn trong việc nuôi sống bộ máy chiến tranh phát xít Đức.
Quân đội Liên Xô cũng chịu những tổn thất không nhỏ trong chiến dịch này, làm tăng nặng thêm mối lo về nhân sự vốn đã hiện hữu từ đầu năm 1944 cho các sĩ quan chỉ huy Hồng Quân. David M. Glantz đã nhận xét rằng, nguồn nhân lực của quân đội Liên Xô trong thời gian này đã gặp nhiều khó khăn lớn. Để khắc phục những khó khăn càng ngày càng lớn về quân số, bộ máy chỉ huy các cấp của quân đội Xô Viết đã càng lúc càng sử dụng nhiều các vũ khí hạng nặng như xe tăng, đại bác, máy bay trong các cuộc công kích nhằm hạn chế tối đa thương vong, đồng thời những trận đánh cam go trong suốt thời gian qua đã giúp Hồng Quân có cơ hội áp dụng các lý thuyết quân sự của mình vào điều kiện thực tế phức tạp và phong phú của chiến trường và từ đó tích lũy được nhiều kinh nghiệm về chiến thuật trên nhiều loại địa hình khác nhau. Có thể nói, bước vào năm 1945, quân đội Liên Xô đã có trong tay một đội ngũ sĩ quan với trình độ tác chiến và chỉ huy đạt đến mức hoàn thiện nhất. *Trung sĩ Pyotr Kornilovich Koryagin chỉ huy tiểu đoàn bộ binh cơ giới bắc cầu phao số 44 thuộc tập đoàn quân số 46. Ông chỉ huy tiểu đoàn tổ chức cuộc vượt sông Danube ngày 4 tháng 12 năm 1944 gần Sigetuyfalu, 20 cây số ở phía Nam Budapest. Đơn vị của Koryagin đã đổ bộ thành công tại một cầu tàu ở Érd, đánh lui quân Đức và thiết lập một đầu cầu bên tả ngạn sông Danube.
Huy chương giải phóng Budapest
Ngày 9 tháng 6 năm 1945, Xô viết tối cao Liên Xô ra quyết định ban hành Huy chương giải phóng Budapest với bản mẫu do họa sĩ A. I. Kuznetsov thiết kế. Huy chương làm bằng đồng đúc nổi hình tròn, đường kính 32 mm. Dải huy chương làm bằng lụa màu cam được gấp chéo rộng 24 mm, ở giữa có vạch màu xanh da trời rộng 8 mm. Huy chương được trao cho các nhà chỉ huy quân sự, các sĩ quan, binh sĩ quân đội và hải quân Liên Xô, các sĩ quan và binh sĩ NKVD đã lập công trạng trong chiến dịch Budapest. Theo thống kê của Ủy ban quốc gia về các giải thưởng nhà nước Liên bang Nga, đến ngày 1 tháng 1 năm 1995, đã có 362.050 người được trao huy chương này.
Chiến dịch Budapest trong văn hóa đại chúng
Sự khốc liệt của Chiến dịch Budapest đã trở thành cảm hứng cho nhà thơ Mikhail Vasilyevich Isakovsky sáng tác bài thơ "Kẻ thù thiêu đốt cháy những túp lều trên quê hương". Bài thơ được đăng lần đầu tiên trên Tạp chí Cờ đỏ số 7 năm 1946. Lời bài thơ có đoạn viết:
Bài thơ phảng phất tưởng của Aleksandr Trifonovich Tvardovsky đã được nhạc sĩ, nghệ sĩ nhân dân Liên Xô Matvey Isaakovich Blanter phổ nhạc và trở thành một bài hát. Tuy nhiên, vào những năm 1947-1959, bài hát này bị cấm phổ biến do Hội đồng nghệ thuật Nhà nước Liên Xô đánh giá rằng nó quá bi lụy, không phù hợp với tinh thần quật khởi của quân đội Liên Xô.
Đến năm 1960, nhạc sĩ Mark Naumovich Bernes đã làm một "cú liều lĩnh", dựng bài hát này trong một chương trình biểu diễn ca nhạc chính thức với lời cuối được sửa lại cho "hoành tráng" hơn:
Bài hát nhận được sự hoan nghênh của công chúng trong lần sinh ra thứ hai. Năm 1965, Nguyên soái V. I. Chuikov tham gia chương trình "Ánh sáng xanh", một chương trình âm nhạc và giải trí của Đài truyền hình trung ương Liên Xô đã tự mình hát bài hát này.
Bài hát được sử dụng trong nhiều bộ phim Liên Xô về đề tài chiến tranh, trong đó có bộ phim "Tấm gương dành cho các anh hùng" của đạo diễn Vladimir Khotinenko do Xưởng phim Sverdlovsk sản xuất năm 1987. Ngày nay, bài hát "Kẻ thù thiêu đốt cháy những túp lều trên quê hương" lại được các nghệ sĩ quân đội Nga hát với lời thơ nguyên bản của Mikhail Vasilyevich Isakovsky hay bản lời đã được Mark Bernes chỉnh sửa. Cả hai bản đều có giá trị như nhau.
Sự kiện quân đội Liên Xô giải phóng Budapest cũng được nhà soạn nhạc, nhạc trưởng Semyon Aleksandrovich Chernetsky soạn một bài hành khúc dành cho dàn quân nhạc và biểu diễn lần đầu năm 1945 với nhan đề: "Hồng Quân tại Budapest".