✨Chiến dịch Barbarossa
Chiến dịch Barbarossa (), còn được gọi là Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Với tên ban đầu là kế hoạch Otto và được đích thân Adolf Hitler đổi thành "Barbarossa" theo biệt hiệu của vị Hoàng đế La Mã Thần thánh Friedrich I ở thế kỷ XII vào ngày 18 tháng 12 năm 1940, chiến dịch có mục tiêu nhanh chóng chiếm đóng phần lãnh thổ phía Tây đường ranh giới nối liền giữa hai thành phố Arkhangelsk và Astrakhan (thường gọi là tuyến A-A) của Liên Xô, được mở màn vào sáng Chủ nhật ngày 22 tháng 6 năm 1941 trên toàn bộ tuyến biên giới phía Tây của Liên Xô và thực tế kết thúc vào cuối năm 1941 trước cửa ngõ Moskva.
Trong toàn chiến dịch, mặc dù Quân đội Đức Quốc xã đã giành được một số chiến thắng vang dội ở cấp độ chiến thuật, chiếm được phân nửa lãnh thổ thuộc châu Âu của Liên Xô trong đó có một số vùng kinh tế quan trọng, nhưng không hoàn thành mục tiêu mà kế hoạch đã đề ra. Kể từ sau khi đợt tấn công Moskva bị bẻ gãy vào tháng 1 năm 1942, Quân đội Đức Quốc xã không còn đủ sức tổ chức một đợt tổng tấn công nào khác trên toàn bộ mặt trận, khiến chiến lược đánh nhanh thắng nhanh trước mùa đông 1941-1942 của Hitler hoàn toàn thất bại.
Thất bại về mặt chiến lược của chiến dịch Barbarossa là một bước ngoặt quan trọng, buộc Hitler phải tham gia vào một cuộc chiến tranh tổng lực mà nước Đức Quốc xã và đồng minh phe Trục kém thế tương quan về năng lực sản xuất công nghiệp và khả năng tổng động viên so với Liên Xô và phe Đồng minh, dẫn tới sự suy yếu rồi thất bại hoàn toàn trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Về mặt lịch sử, thì chiến dịch Barbarossa được ghi nhận là chiến dịch quân sự có quy mô lớn nhất về quân số tham chiến và cũng là chiến dịch đẫm máu nhất với con số thương vong lớn chưa từng có trong lịch sử thế giới.
Bối cảnh trước chiến dịch
Liên Xô
Từ năm 1933, sau khi Adolf Hitler lên cầm quyền và tái quân sự hóa nước Đức, chính sách nhất quán của Liên Xô là thiết lập một nền an ninh chung tại châu Âu, duy trì vào bảo vệ những điều khoản của Hiệp ước Versailles năm 1919. Chính sách này đã được thể hiện qua việc Liên Xô kiên trì đàm phán với các nước Tây Âu về một hiệp ước an ninh chung nhưng lại gặp phải thái độ nghi ngờ từ phía các đồng minh trong tương lai. Theo nhà sử học Henry Peyner: "Bằng Hiệp ước Munich năm 1938, họ đã thừa nhận việc Đức thôn tính Áo, bỏ mặc Tiệp Khắc cho Đức xâm chiếm và mở cửa cho Đức tấn công sang phía Đông".
Mặc dù đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế - quốc phòng nhưng trang bị vật chất dành cho chiến tranh của Liên Xô vào năm 1941 vẫn thua kém về số lượng so với nước Đức. Các biện pháp tổ chức lại quân đội và thực tập tác chiến theo chiến tranh hiện đại vẫn còn đang trong giai đoạn triển khai. Xét về từng khía cạnh thì mặc dù đã có ý thức và những hành động thiết thực để bảo vệ đất nước nhưng trên cách nhìn tổng thể, Liên Xô vẫn chưa hoàn toàn được chuẩn bị tốt để đón nhận một cuộc chiến tranh tổng lực. Cuộc tấn công bất ngờ ngày 22 tháng 6 năm 1941 của quân đội Đức đã làm bộc lộ toàn diện những điểm yếu của Liên Xô trong chiến lược phòng thủ quốc gia và nó chỉ được sửa chữa triệt để sau những ngày tháng thất bại trên các mặt trận.
Đức Quốc xã
Giới tuyến Liên Xô - Đức vào thời điểm ngay trước khi Chiến dịch bắt đầu. Năm 1939, với thuyết "Không gian sống" (Lebensraum) do Hitler khởi xướng, phe Trục (Đức, Ý, Nhật) đã có thỏa thuận chia nhau các phần lãnh thổ trên toàn cầu. Đến giữa năm 1941, nước Đức Quốc xã cùng với đồng minh là nước Ý dưới chế độ phát xít Mussolini đã thôn tính hầu hết phần phía Tây lục địa châu Âu (trừ Thụy Sĩ, Thụy Điển) và Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco là một đồng minh thân cận của Hitler.
Bắt đầu từ nước Áo năm 1937, Tiệp Khắc năm 1938, nước Đức tấn công Ba Lan tháng 9 năm 1939, chính thức mở màn Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngày 9 tháng 4 năm 1940, Đức tấn công Na Uy và Đan Mạch. Ngày 10 tháng 5, Đức tiếp tục chuyển sang tấn công Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và liên quân Pháp – Anh trên lãnh thổ Pháp. Chỉ trong vòng sáu tuần, nước Pháp dưới sự lãnh đạo của Thống chế Philippe Pétain phải ký văn kiện đầu hàng tại rừng Compiègne. Cùng lúc đó, nước Đức cũng chiếm xong Đan Mạch, Na Uy, khống chế Biển Bắc và Biển Baltic. Từ ngày 7 tháng 9 năm 1940, Không quân Đức Quốc xã (Luftwaffe) mở đầu kế hoạch Kế hoạch Sư tử biển tấn công nước Anh và Hải quân Hoàng gia Anh nhằm dọn đường cho quân Đức đổ bộ. Ngày 14 tháng 11 năm 1941, trung tâm công nghiệp Coventry của Anh bị ném bom hủy diệt. Ngày 6 tháng 4 năm 1941, Đức Quốc xã tấn công Nam Tư và Hy Lạp, buộc Nam Tư đầu hàng ngày 18 tháng 4 và Hy Lạp đầu hàng ngày 27 tháng 4. Ngay sau đó, nhiếp chính vương Hungary Miklós Horthy, thủ tướng Romania Ion Antonescu và vua Bulgaria Boris III cũng tuyên bố đặt đất nước mình dưới sự bảo hộ của Đế chế thứ ba.
Trong các chiến dịch ở thời gian này, Quân đội Đức Quốc xã nhanh chóng giành những thắng lợi vang dội bằng phương thức "Chiến tranh chớp nhoáng" (Blitzkrieg), trong đó các mũi thọc sâu tốc độ cao của lực lượng thiết giáp hùng hậu được hỗ trợ của Không quân với mật độ áp đảo. Với sự tự tin cao độ, Adolf Hitler và các nhà hoạch định quân sự của nước Đức cho rằng đã đến lúc chĩa mũi Blitzkrieg vào Liên Xô để kết thúc cuộc chiến.
Ý đồ tấn công Liên Xô của nước Đức Quốc xã
Vào mùa hè năm 1940, khi nước Đức bắt đầu gặp phải cuộc khủng hoảng về nguồn nguyên liệu dành cho công nghiệp và khả năng về một cuộc xung đột với Liên Xô tại khu vực Balkan đang đến gần, một cuộc tấn công xâm lược Liên Xô gần như là giải pháp duy nhất đối với Hitler. Trong khi chưa có một kế hoạch cụ thể nào được lập ra, tháng 6 năm 1940, Hitler nói với một trong những tướng lĩnh của ông rằng những chiến thắng ở Tây Âu "cuối cùng đã khiến ông ta rảnh tay để lo cho kế hoạch quan trọng thật sự của mình: cuộc quyết đấu một mất một còn với những người Bolshevik". Mặc dù các tướng lĩnh của Hitler cố khuyên ông rằng chiếm đóng miền Tây nước Nga sẽ rút cạn sinh lực nhiều hơn là giảm nhẹ gánh nặng cho nền kinh tế Đức vào thời điểm hiện tại, nhưng vị quốc trưởng Đức lại đề cập đến những lợi ích có được khi đánh bại Liên Xô:
- Khi Liên Xô bị đánh bại, tình trạng khan hiếm nhân lực trong nền công nghiệp Đức sẽ chấm dứt do một phần lớn binh sĩ Đức sẽ được giải ngũ sau chiến tranh.
- Ukraina sẽ trở thành nguồn cung cấp lương thực lớn cho Đức Quốc xã.
- Biến Liên Xô thành nguồn cung cấp lao động nô lệ sẽ góp phần rất lớn trong việc tăng cường vị thế địa chính trị của nhà nước Đức phát xít.
- Đánh bại Liên Xô sẽ khiến các quốc gia Đồng Minh, đặc biệt là nước Anh, bị cô lập sâu sắc hơn nữa.
- Nền kinh tế Đức Quốc xã đang cần một nguồn cung cấp dầu mỏ lớn: chiếm được vựa dầu Baku của Liên Xô sẽ giúp Đức đạt được điều đó. Tại tòa án Nürnberg, Albert Speer—Bộ trưởng Bộ Vũ trang và Công nghiệp Chiến tranh của Đức—đã nói trong cuộc thẩm vấn ông: "nhu cầu về dầu mỏ là một động lực chủ yếu" trong quyết định xâm lược Liên Xô của phát xít Đức.
Kế hoạch Barbarossa hình thành trong tình hình chính trị - ngoại giao tại châu Âu có nhiều diễn biến phức tạp. Ngày 29 tháng 9 năm 1938, nước Đức Quốc xã ký kết với Ý, Anh và Pháp Hiệp ước München và kết quả của nó là nước Đức đã thôn tính Tiệp Khắc. Ngày 20 tháng 8 năm 1939, cuộc đàm phán tay ba gồm Liên Xô, Anh, Pháp đã kết thúc thất bại "do một quyết định được coi là dại dột về chính trị của Ba Lan" và thái độ thiếu hợp tác của phía Anh. Thất bại lớn nhất trong cuộc đàm phán tay ba tại Moskva là đã không lập được khối liên minh quân sự giữa ba cường quốc này để bảo đảm cho chính sách an ninh chung châu Âu. Nhằm tránh một cuộc đối đầu Xô-Đức, ngày 23 tháng 8 năm 1939, Liên Xô đã ký kết với nước Đức Quốc xã Hiệp ước không xâm phạm Xô-Đức kèm theo một nghị định thư bí mật về phân chia vùng ảnh hưởng của hai bên ở Đông Âu. Ngày 1 tháng 9 năm 1939, nước Đức Quốc xã đã tấn công Ba Lan và chiếm 2/3 lãnh thổ phía Tây nước này chỉ sau 10 ngày. Liên Xô cũng đưa quân đội vào vùng Đông Ba Lan để thu hồi lại vùng lãnh thổ phía Tây của Đế quốc Nga trước đây, vốn bị mất vào tay Ba Lan từ thập niên 1920. Ngày 23 tháng 11 năm 1939, chỉ ba tháng sau khi ký hiệp ước không xâm lược với Liên Xô, Hitler tuyên bố:
Như vậy ý định tấn công Liên Xô đã được Hitler ấp ủ từ năm 1939. Đức chưa tiến hành ngay vì họ muốn đánh bại 2 đối thủ là Pháp và Anh để giải quyết mặt trận phía Tây, sau đó mới dồn toàn lực tấn công Liên Xô.
Binh lực các bên
Quân đội Đức Quốc xã và các nước phụ thuộc Đức
Bộ máy công nghiệp quân sự khổng lồ của nước Đức đến năm 1940 đã cho sản lượng tăng 76% so với năm 1939 và gấp 2,2 lần năm 1938. Năm 1940, nước Đức sản xuất được hơn 19 triệu tấn thép, 14 triệu tấn gang, 63 tỷ KWh điện. Nền công nghiệp và quân đội này cần một khối lượng dầu hoả khổng lồ nhưng nước Đức và các vùng Đức chiếm đóng đều không có nhiều dầu hoả. Ba trung tâm sản xuất dầu lửa lớn nhất nằm dọc lưu vực sông Danube (phía Nam thành phố Viên, đồng bằng Hungary và vùng phụ cận Ploesti của România) chỉ cung cấp sản lượng không quá 2 triệu thùng mỗi năm. Đến năm 1940 quân đội Đức (không kể đồng minh của Đức) đã có 214 sư đoàn trong đó có 21 sư đoàn xe tăng, 14 sư đoàn cơ giới, tổng cộng 7,2 triệu quân (trong đó có hơn 5 triệu quân thường trực và 2 triệu quân dự bị). Lục quân Đức được trang bị tốt với các loại tiểu liên Mauser và MP-38/40 dần dần thay thế súng trường bắn phát một.
Theo Grigori Doberin thì tính đến ngày 21 tháng 6 năm 1941, Quân đội phát xít Đức và đồng minh phe Trục (gồm Phần Lan, Ý, Hungary, Romania, Croatia, Slovakia và quân Tây Ban Nha của Franco) bao gồm 190 sư đoàn trong đó có 152 sư đoàn Đức, 38 sư đoàn các nước đồng minh với tổng quân số 5,3 triệu người, tập trung dọc theo hơn 2.900 km biên giới (1800 dặm) từ bờ biển Baltic phía Bắc đến bờ biển Đen phía nam. Một số lượng khổng lồ phương tiện chiến tranh được triển khai gồm có:
- Xe tăng và pháo tự hành: khoảng 5.000 chiếc (trong đó có hơn 2.500 chiếc hạng trung gồm các loại: Panzer III, Panzer IV, StuG-3 cùng một số loại xe chiến lợi phẩm thu được từ Ba Lan, Pháp, Tiệp Khắc)
- Xe bọc thép: 3.410 chiếc
- Xe cơ giới (không kể xe tăng xe bọc thép) khoảng 600.000 chiếc gồm: xe kéo pháo, xe vận tải, xe công trình, xe thông tin, mô tô ba bánh của bộ binh cơ giới
- Pháo: khoảng 47.000 khẩu (trong đó có hơn 10.000 trọng pháo cỡ nòng trên 85 mm)
- Máy bay chiến đấu: 4.940 chiếc (trong có hơn 2.000 chiếc ME-109 các kiểu C, D, E)
- Máy bay vận tải quân sự: 60 chiếc
- Tàu chiến: hơn 300 chiếc (trong đó có 85 tàu tuần dương, 105 tàu khu trục, 86 tàu ngầm các loại)
Do yêu cầu của chiến tranh, công nghiệp quốc phòng của Liên Xô có bước phát triển lớn. Tới năm 1938, so với đầu những năm 1930, sản xuất xe tăng Liên Xô đã tăng hơn gấp 3. Kể từ 1-1-1939 tới 22-6-1941, Hồng quân đã được trang bị hơn 7.000 xe tăng và nếu chỉ tính riêng năm 1941 thì Hồng quân đã được cung cấp gần 5.500 xe, 29.637 pháo dã chiến, 52.407 súng cối. Tổng số pháo và súng cối tính cả đại bác trên xe tăng là 92.578. Theo tướng Zhukov thì về mặt số lượng và chất lượng, các súng cối của Liên Xô đã vượt khá xa các súng cối Đức.
Năm 1939, Liên Xô cho xây thêm 9 nhà máy sản xuất máy bay và 7 nhà máy sản xuất động cơ, ngoài ra còn có 7 nhà máy khác chuyển sang chế tạo sản phẩm cho máy bay. Cuối năm 1940, công nghiệp sản xuất máy bay Liên Xô đã tăng lên 70%. Tướng Zhukov khẳng định rằng chỉ sau một năm đến một năm rưỡi, Không quân Liên Xô đã được nâng cấp bằng các loại máy bay mới có sức chiến đấu rất mạnh mẽ. Tuy nhiên số lượng máy bay kiểu mới chưa được chế tạo đủ nhiều, nên khoảng 75 - 80% tổng số máy bay Liên Xô vẫn là những loại cũ sản xuất từ trước năm 1937, các máy bay đời cũ này bị thua những loại máy bay kiểu mới của Đức về các chỉ tiêu kỹ thuật..
- Pháo binh: 29.673 pháo dã chiến, 52.407 súng cối các cỡ.
- Xe tăng: gần 20.000 chiếc (trong đó khoảng 12.000 chiếc đóng ở phần lãnh thổ châu Âu). Tuy số lượng đông đảo nhưng phần lớn là xe tăng hạng nhẹ có giáp mỏng và hỏa lực yếu như T-26, BT-5... (theo tiêu chuẩn ngày nay thì chúng giống xe thiết giáp hơn là xe tăng). Liên Xô lúc đó chỉ có 1.861 xe tăng hạng trung và hạng nặng, trong đó có 508 chiếc KV-1, KV-2 và 967 chiếc T-34. Khi chiến sự nổ ra, các đơn vị thiết giáp vẫn còn trong quá trình xây dựng, các tổ lái chưa được huấn luyện đầy đủ, nhiều đơn vị thiếu đạn dược, nhiên liệu, thậm chí thiếu cả tổ lái và đội kỹ thuật. Do vậy, nhiều xe đã bị trục trặc hoặc hết nhiên liệu và bị loại khỏi vòng chiến dù chưa hề giao chiến với địch.
- Máy bay: 17.745 chiếc, trong đó có 3.719 chiếc kiểu mới gồm: 2.030 chiếc tiêm kích các loại Yak-1, MiG-3, LaGG-3, 460 chiếc Pe-2, 249 chiếc IL-2, 980 chiếc I-16. Những chiếc còn lại là loại cũ và tốc độ chậm, thậm chí có cả những máy bay 2 tầng cánh làm bằng gỗ từ thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Việc huấn luyện phi công chưa tiến hành xong, phi công đã qua đào tạo đầy đủ cũng rất ít, ví dụ: Không quân Liên Xô có 201 chiếc MiG-3 và 37 chiếc MiG-1 hoạt động được vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, nhưng chỉ có 4 phi công đã được huấn luyện để sử dụng các máy bay này., nhiều phi công Liên Xô ở tiền tuyến chỉ từng lái máy bay có 4 tiếng đồng hồ
Lực lượng hải quân Liên Xô sát chiến tranh có gần 600 tàu chiến, 211 tàu ngầm, hơn 1.000 pháo phòng thủ bờ biển với trên 2.500 máy bay. Gần 270 tàu các loại được đóng vào sát cuối năm 1940. Nhiều căn cứ hải quân mới được xây dựng trong khi các khu vực ở vùng Baltic, Biển Đen và biển Bắc cực được Hồng quân củng cố thêm.
Phương án tác chiến
Quân đội Đức
Trang đầu bản Chỉ thị số 21 của [[Adolf Hitler về việc thi hành Kế hoạch Barbarossa]] Ngày 21 tháng 7 năm 1940, Adolf Hitler giao cho Bộ Tổng chỉ huy lục quân Đức soạn thảo Kế hoạch Otto. Tại Chỉ thị số 21 của Bộ Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang của Đế chế (Reich) ngày 18 tháng 12 năm 1940 và Chỉ thị về việc tập trung và triển khai có tính chiến lược các lực lượng quân đội ngày 31 tháng 1 năm 1941 đã chỉ ra những phương án cuối cùng được duyệt của kế hoạch này, đồng thời, thông báo lệnh của Quốc trưởng đổi tên thành Kế hoạch Barbarossa. Kế hoạch này dự định khởi sự ngày 15 tháng 6 năm 1941, tấn công và đánh chiếm Liên Xô (chủ yếu là phần lãnh thổ thuộc châu Âu) trong một thời gian ngắn ngay trước khi kết thúc chiến tranh với Anh. Ý đồ chiến lược của kế hoạch này là dùng ba đòn vu hồi liên tiếp chia cắt chính diện mặt trận Xô-Đức; hợp vây các lực lượng chủ yếu của quân Nga trên các vùng Pribaltic, Belorussia, Ukraina và miền Tây nước Nga (vùng phụ cận Smolensk). Trọng tâm tác chiến là sử dụng các tập đoàn quân xe tăng tiến hành những đòn đột kích sâu ở phía Bắc và phía Nam khu vực đầm lầy Pripiat (khu tiếp giáp giữa Belorussia và Ukraina), tiêu diệt những cách quân đã bị chia cắt trước khi tiến chiếm Moskva, Leningrad, vùng công nghiệp Donbass cũng như vùng đồng bằng trung và hạ lưu sông Volga.
Để có thể giành được một chiến thắng chớp nhoáng, quân Đức buộc phải nhanh chóng hủy diệt Hồng quân Liên Xô trong những chuỗi tấn công và hợp vây trên. Vì vậy mục tiêu chính yếu trước mắt của kế hoạch Barbarossa chính là Hồng quân Liên Xô và sau đó mới là đánh chiếm những vùng đất đai quan trọng hay đạt được những thắng lợi về chính trị. Bản thân Hitler đã nói: so với việc tiêu diệt Hồng quân thì "đánh chiếm Mạc Tư Khoa không thật sự quá quan trọng". Chỉ thị số 21 đã nêu rõ ý định của Hitler như sau:
Phương án tác chiến ban đầu của Kế hoạch Otto tháng 12 năm 1940 là dùng các đòn đột kích liên tiếp của nhiều thê đội xe tăng - thiết giáp mạnh (4 tập đoàn quân xe tăng), sử dụng chiến thuật "luân xa chiến", mở đường tấn công một mạch từ Brest qua Minsk (cách Brest gần 350 km)) và Smolensk (cách Minsk hơn 380 km) đến Moskva (cách Smolensk chừng 400 km) theo lối đánh "gạt đối phương ra để tiến"; nhanh chóng đánh tan cơ quan lãnh đạo tối cao của Nhà nước và quân đội Liên Xô tại Moskva và kết thúc sớm chiến tranh trong vòng vài tuần lễ. Đến ngày 3 tháng 2 năm 1941, nhận thấy phương án này khá phiêu lưu do kéo dài tuyến mặt trận hai bên sườn và các đường tiếp tế cũng phải kéo dài, rất dễ bị Quân đội Liên Xô công kích và chia cắt từ hai phía Bắc và Nam (như đã xảy ra với quân đội của Napoleon năm 1812), các tướng lĩnh Đức Quốc xã đưa ra phương án cuối cùng, chia quân đội Đức ở mặt trận phía Đông thành ba cụm tập đoàn quân, tấn công trên ba hướng chiến lược:
Cụm tập đoàn quân Bắc
Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb, tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc
Cụm tập đoàn quân phụ trách hướng tấn công vào Tây Bắc Liên Xô, do Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb chỉ huy. Trên chính diện từ phía Bắc Goldapa đến Klaipeda trên bờ biển Baltic, cụm quân này được giao nhiệm vụ mở hai mũi vu hồi bằng đường bộ và đường biển, hợp vây các đơn vị thuộc Quân khu Pribaltic của Quân đội Liên Xô, tấn công dọc theo bờ biển Baltic hướng về Leningrad, bao vây và đánh chiếm thành phố này cùng với các cảng trên biển Baltic, bao gồm Tallinn và Kronstadt. Cụm tập đoàn quân này gồm 29 sư đoàn, được biên chế vào các đơn vị:
- Tập đoàn quân xe tăng 4 của do tướng Erich Höpner chỉ huy
- Tập đoàn quân 16 binh chủng hợp thành
- Tập đoàn quân 18 binh chủng hợp thành
- Quân đoàn xe tăng 56, một sư đoàn bộ binh cơ giới mô tô hóa và một sư đoàn pháo binh cơ giới.
Phối hợp với cụm tập đoàn quân này có Tập đoàn quân sơn cước 20 (còn gọi là tập đoàn quân Lapland), bảy sư đoàn bộ binh Phần Lan tấn công từ phía Bắc eo đất Karelia, phân hạm đội Đông Baltic của Hải quân Đức từ phía biển và Tập đoàn quân không quân 3 yểm hộ từ trên không.
Cụm tập đoàn quân Trung tâm
Đây là cụm quân chủ lực, có binh lực, hỏa lực và phương tiện mạnh nhất trong ba cụm tập đoàn quân Đức Quốc xã trong chiến dịch (hai trong số 4 tập đoàn quân thiết giáp của Đức - tập đoàn quân số 2 và số 3 - nằm trong cụm quân này.
Cụm tập đoàn quân Nam
Đây cũng là một cụm quân rất mạnh của Quân đội Đức Quốc xã do Thống chế Gerd von Rundstedt chỉ huy, gồm 46 sư đoàn (trong đó có 9 sư đoàn xe tăng). Chính diện tấn công từ Lublin đến cửa sông Danube trên bờ Biển Đen được chia làm hai hướng. Hướng đánh từ Tây sang Đông ở miền Bắc Ukraina qua Shepetivka - Kiev gồm có 34 sư đoàn (trong đó có 7 sư đoàn xe tăng, hai sư đoàn cơ giới) mục tiêu hợp vây Quân đội Liên Xô được hoạch định là Kiev. Hướng đánh từ phía Tây xuống Đông Nam Ukraina qua Tarnopol - Odessa có 11 sư đoàn (trong đó có hai sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn cơ giới), hợp vây quân đội Liên Xô ở bán đảo Krym. Biên chế của cụm quân này gồm có:
- Tập đoàn quân xe tăng 1 do tướng Paul Ludwig Ewald von Kleist chỉ huy
- Tập đoàn quân 6 binh chủng hợp thành do thống chế Walther von Reichenau chỉ huy
- Tập đoàn quân 17 binh chủng hợp thành do tướng Carl-Heinrich von Stülpnagel chỉ huy
- Tập đoàn quân 11 binh chủng hợp thành do tướng Eugen Ritter von Schobert chỉ huy
- Quân đoàn xe tăng 40
- 5 sư đoàn pháo binh cơ giới. Các đơn vị này được sự yểm hộ từ trên không của tập đoàn quân không quân 4 của tướng Wolfram Freiherr von Richthofen.
Lực lượng dự bị chiến dịch
Ngoài 153 sư đoàn có mặt ở tuyến đầu, Quân đội Đức Quốc xã cùng chuẩn bị một lực lượng dự bị tuyến hai để phát huy chiến quả hoặc tiếp quản những vùng đất đã chiếm được sau khi các lực lượng tuyến một đẩy mặt trận lên phía trước. Tổng số lực lượng này có 24 sư đoàn.
Quân đội Liên Xô
Toàn bộ Quân đội Liên Xô tại phần lãnh thổ châu Âu của họ được bố trí trên 10 quân khu.
Quân khu Đặc biệt Tây có bộ tư lệnh đóng ở thành phố Bialystok và có các tập đoàn quân số 3 của tướng V. I. Kuznetsov, số 4 của tướng A. A. Korobkov, số 10 của thiếu tướng A. N. Chernikov và quân đoàn 13.
Các quân khu trong nội địa
- Quân khu Volkhov: Bố trí phía sau các Quân khu Leningrad và Pribaltic.
- Quân khu Moskva: Bố trí phía sau Quân khu đặc biệt miền Tây.
- Quân khu Privolga: Bố trí phía sau Quân khu đặc biệt Kiev.
- Quân khu Zakavkaz: Bố trí tại vùng thảo nguyên Kuban và vùng núi Kavkaz
- Quân khu Ural: Bố trí tại phía tây dãy núi Ural
Kế hoạch KOVO-41
Từ giữa năm 1940, Bộ Quốc phòng Liên Xô đã giao cho Bộ Tổng tham mưu mà trực tiếp là tổ kế hoạch tác chiến lần lượt do nguyên soái B. M. Shaposhnikov, đại tướng K. A. Meretskov và trung tướng N. F. Vatutin phụ trách xây dựng kế hoạch phòng thủ biên giới quốc gia. Sau ba bốn lần được đưa ra Hội đồng Quốc phòng Liên Xô để bàn thảo và chỉnh sửa; đến tháng 4 năm 1941, bản Kế hoạch được đích thân Stalin phê chuẩn và chính thức mang mật danh "KOVO-41".
Nội dung kế hoạch gồm 4 điểm cơ bản cần thực hiện:
- Trong trường hợp có nguy cơ chiến tranh, các lực lượng vũ trang phải ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.
- Lập tức tiến hành động viên quân dự bị trên toàn liên bang.
- Phát triển các đơn vị đúng với biên chế thời chiến theo kế hoạch động viên.
- Tập trung và triển khai tất cả các lực lượng được động viên trên các vùng biên giới phía Tây theo kế hoạch của các quân khu biên giới và Bộ Tổng tư lệnh.
Theo kế hoạch này, hướng tấn công được coi là nguy hiểm nhất của quân đội Đức Quốc xã vào Liên Xô là hướng Tây Nam (Quân khu đặc biệt Kiev và Quân khu Odessa). Stalin hoàn toàn đồng ý với nhận định này. Kế hoạch "KOVO-41" được chia ra theo các nhiệm vụ cụ thể của từng quân khu và lần lượt được gửi kèm theo các Chỉ thị số UN/584814 và UN/584815 ngày 8 tháng 4 năm 1941 của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Liên Xô đến các Quân khu để hướng các hoạt động triển khai kế hoạch này. Các chỉ thị yêu cầu: :Cho đến khi có chỉ thị đặc biệt các khu phòng thủ giữ nguyên trạng thái cũ. Khi chiến tranh nổ ra, cần tiến hành các biện pháp:
- Thành lập bộ máy chỉ huy các vùng phòng thủ.
- Củng cố hệ thống hỏa lực, gia cố công sự bằng đất, gỗ, bê tông, đá hộc.
- Tính toán nhu cầu về vũ khí và trang thiết bị bên trong; chú ý đến các công sự bê tông cốt sắt đã được xây dựng trong các năm 1938-1939 (trên đường biên giới cũ).
Cũng trong khuôn khổ "KOVO-41", ngày 13 tháng 5, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô điều động 28 sư đoàn từ các quân khu ở sâu trong nội địa ra phía Tây: Tập đoàn quân 22 từ quân khu Ural đến Velikiye Luki để tăng cường cho phía Tây Bắc, tập đoàn quân 21 từ quân khu Privolga đến Gomel để tăng cường cho phía Tây, tập đoàn quân 19 từ Bắc Kavkaz đến Belaya Tserkov và tập đoàn quân 16 từ Zabaikal đến Shepetivka để tăng cường cho phía Tây Nam, quân đoàn bộ binh nhẹ 25 từ Kharkov đến Tây Dvina.
Bốn điểm mấu chốt của "KOVO-41" mãi đến sáng ngày 22 tháng 6 mới có quyết định thi hành và được diễn giải bằng một bức điện khá dài và không rõ nghĩa trong khi hàng trăm sư đoàn Đức đã vượt biên giới và hàng nghìn máy bay Đức đã trút bom xuống lãnh thổ Liên Xô. Khi các Phòng tác chiến của các Quân khu biên giới mở các phong bì tuyệt mật chứa kế hoạch "KOVO-41" thì Quân đội Đức Quốc xã đã bắt đầu tấn công được hơn 3 giờ đồng hồ. Theo nguyên soái I. Kh. Bagramian (khi đó là Đại tá, Trưởng phòng tác chiến Quân khu đặc biệt Kiev), chỉ cần Bộ Tổng tham mưu phát một bức điện ngắn với nội dung "KOVO-41 có hiệu lực" là đủ.
Diễn biến quốc tế trước chiến dịch
Thái độ của Hoa Kỳ và Anh
Trong khi Hoa Kỳ tạm giữ thái độ của "người ngoài cuộc" giống như giai đoạn mở đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất thì Anh lại "chơi cả hai con bài" Đức và Liên Xô. Một mặt, chính phủ Anh do Neville Chamberlain và sau này là Winston Churchill đứng đầu ra sức đẩy Liên Xô và Đức đối đầu nhau, cung cấp tin giả cho người Đức về mối đe dọa quân sự của Liên Xô cũng như cung cấp tin thật cho Liên Xô về mối đe dọa của Đức. Hệ thống thông tin báo chí của Anh và sau này là cả Hoa Kỳ đều thường xuyên đăng những tin tức về cuộc chuyển quân của các hai bên đến vùng biên giới mà hãng TASS của Liên Xô đã nhiều lần lên tiếng bác bỏ.
Sau chuyến công cán đặc biệt của Rudolf Hess, phó thủ lĩnh Đảng Quốc xã sang Anh tháng 5, tháng 6 năm 1940 và bị phía Anh bắt bỏ tù cho tới khi chết năm 1987, đại sứ Đức tại Luân Đôn báo cáo về nước những chính sách có chiều hướng xây dựng trong giới cầm quyền Anh. Cũng tại thời điểm đó, từ Moskva, đại sứ Đức tại Liên Xô Schulenburg lại báo cáo với Berlin rằng: Chính phủ Liên Xô, trong tình hình quốc tế hiện nay mà họ coi là nghiêm trọng, vẫn tìm cách tránh cuộc xung đột với Đức. Đến tháng 4 năm 1941, chính phủ Anh đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động thúc đẩy nước Đức gây hấn với Liên Xô. Trung tâm cơ quan MI6 đặt tại New York đã chuyển đến Đại sứ quán Đức ở Hoa Kỳ tin tức về việc người Nga có kế hoạch hoạt động quân sự mạnh ngay sau khi nước Đức bị lôi kéo vào cuộc chiến với Anh.
Trong khi đó, Thủ tướng Anh Winston Churchill lại thông báo cho Stalin rằng cuộc khởi nghĩa của Serbia do người Anh giúp đỡ tháng 3 năm 1941 đã làm cho quân Đức không thể điều động thêm ba sư đoàn xe tăng từ đây sang Nam Ba Lan.
Khi quân Đức bắt đầu xâm lược Liên Xô, các nước Anh - Mỹ đều tuyên bố ủng hộ nhà nước Liên Xô. Thủ tướng Anh Winston Churchill cam đoan rằng Anh quốc sẽ không chấp nhận hòa bình với Đức để giúp Stalin thì đáp trả lại, Stalin lại cử người đi Berlin để cầu hòa, đề xuất cắt cho Đức Quốc xã các nước vùng Baltic, Bessarabia và thậm chí cả một phần Ukraina để đổi lấy hòa bình. Liên Xô còn tuyên bố cuộc tấn công của Đức là một cuộc "tấn công hòa bình".
Các nước đồng minh phe Trục
Lễ ký Hiệp ước trung lập thân thiện Xô - Nhật Tại Châu Âu, chỉ có Ý đã tham gia hiệp ước phân chia thế giới và Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Franco được coi là đồng minh thực sự của Đức Quốc xã; các nước châu Âu khác không phải là đồng minh của Đức theo đúng nghĩa của từ này, mà đúng ra thì đó là những nước chư hầu. Bởi từ năm 1938 đến 1940, nước Đức đã dùng sức mạnh quân sự khổng lồ của mình để đặt các nước này dưới sự cai trị của mình. Ngoại trừ Thụy Sĩ và Thụy Điển là hai nước trung lập và nước Anh đang chiến đấu chống lại máy bay Đức; Quân đội Đức có mặt gần như khắp châu Âu, từ Pháp đến Ba Lan, từ Na Uy, Đan Mạch đến Hy Lạp, Nam Tư.
Trong số các đồng minh của nước Đức, có năm "đồng minh" tích cực nhất đã gửi quân đội của mình tham gia đội quân xâm lược của Đức Quốc xã chống Liên Xô là Ý, Hungary và România, nhưng mỗi nước đều có một lý do địa-chính trị riêng với những lời hứa chia phần khác nhau từ Đức:
- Nhà độc tài Romania Antonescu được Hitler hứa sẽ trao cho vùng Bessarabia.
- Nhiếp chính Hungary Miklos Hórthy cũng hi vọng lấy được vùng Transilvania và bắc Serbia.
- Nhà độc tài Ý Mussolini muốn chia phần chiến thắng theo hiệp ước chung của phe Trục.
- Bộ trưởng quốc phòng Phần Lan C. G. E. Mannerheim hy vọng lấy lại vùng Petsamo đã bị Liên Xô chiếm trong cuộc chiến mùa Đông năm 1939-1940.
- Nhà độc tài Tây Ban Nha Franco cử quân tình nguyện do tướng Munoz Grandes chỉ huy tham chiến để trả đũa việc Quân tình nguyện Liên Xô đã giúp những người Cộng hòa trong chiến tranh Tây Ban Nha những năm 1936-1937.
Điều quan trọng nhất là nước Đức đã huy động được nguồn nhân lực và kinh tế rất lớn vào cuộc chiến chống Liên Xô, nắm toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ bộ máy công nghiệp quân sự của Tây Âu vào cuộc chiến.
Tại Phương Đông, Nhật Bản tuy ký hiệp ước phe Trục nhưng có thái độ khác trong việc đối xử với Liên Xô vì dù sao, Nhật Bản cũng đã chiếm được những vùng giàu có ở Trung Quốc, Đông Dương và đang nhằm vào Miến Điện cùng các quốc đảo ven bờ châu Á. Vùng Siberia của Nga tuy hẫp dẫn thật nhưng chưa phải là cấp thiết. Sau các thất bại quân sự tại vùng Khalkhyl Gol và hồ Khasan, chính phủ của Thủ tướng Konoe đã đi đến kết luận: Chưa đến lúc xé bỏ hiệp ước trung lập thân thiện với Liên Xô. Họ chờ đợi sự suy yếu của Liên Xô trong cuộc chiến Xô - Đức nay mai. Họ muốn bày tỏ với nước Đức rằng: Chúng ta là đồng minh, nhưng ngoại trừ việc chống Liên Xô. Song phải đến khi Quân đội Đức chỉ còn cách Moskva trên dưới 20 km, tin tức về việc Nhật Bản "không vào cuộc" mới được Richard Sorge khẳng định và báo về Moskva.
Chiến dịch nghi binh của Đức Quốc xã
Tuy đã chuẩn bị lên kế hoạch tấn công Liên Xô nhưng Đức Quốc xã vẫn chơi trò "bắt cá hai tay". Ngoài hiệp ước liên minh phe Trục ký với Nhật Bản và Ý năm 1938 phân chia vùng chiếm đóng trên thế giới kể cả Hoa Kỳ, Volthard - cố vấn của Hermann Göring - vẫn có cuộc đàm phán với Bộ trưởng thương mại Anh Hudson về việc phân chia ba khu vực hoạt động kinh tế chủ yếu của hai nước gồm hệ thống thuộc địa Anh, Nga và Trung Quốc. Chân dung nhà tình báo Liên Xô [[Richard Sorge]]
Ngày 3 tháng 2 năm 1941, Hitler ra "Chỉ thị đặc biệt về việc đánh lạc hướng đối phương". Trong đó, các cơ quan tình báo và phản gián Đức được giao nhiệm vụ tung ra những tin đồn về việc quân Đức chuẩn bị chiến dịch đổ bộ lên các đảo của nước Anh với hai kế hoạch có mật danh "Đinh ba" (Harpune) và "Cá mập" (Haifisch). Để cho mọi việc diễn ra "như thật", Hitler còn làm trò nổi nóng và doạ xử bắn tại chỗ hai sĩ quan Đức đã để lộ tin tức về kế hoạch "Sư tử biển". Các quân đoàn đổ bộ (chỉ có bộ khung) được thành lập, nhiều nhân viên phiên dịch tiếng Anh được điều đến các đơn vị quân đội Đức đóng trên bờ biển Manche của Pháp. Bộ máy tuyên truyền của nước Đức Quốc xã do Joseph Goebbels cầm đầu liên tục tung ra những thông tin về việc Đức giả tập trung quân ở biên giới Liên Xô để nghi binh, thực chất là tấn công Anh; những thông tin về khả năng quân Đức sẽ viễn chinh sang Ấn Độ. Tất cả động thái đó đều nhằm đánh lạc hướng bộ máy tình báo của Liên Xô, che giấu ý đồ thật sự của "Kế hoạch Barbarossa".
Vượt lên trên tất cả những màn kịch ngoại giao, những tấm mạng nhện bùng nhùng các tin tức đồn đại thật có, giả có và cả giả lẫn thật cũng có, ngày 15 tháng 6 năm 1941, cơ quan GPU của Liên Xô nhận được tin tức của điệp viên Nga gốc Đức Richard Sorge từ Tokyo, Nhật Bản: "Chiến tranh sẽ bắt đầu ngày 22 tháng 6". Sau đó sáu ngày, Richard Sorge gửi tiếp một tin nữa để xác nhận: "Cuộc tiến công sẽ được thực hiện trên toàn mặt trận lúc rạng sáng ngày 22 tháng 6". Cùng thời điểm này, một tùy viên lục quân Liên Xô tại Berlin cũng gửi báo cáo về Moskva khẳng định: Chiến sự chống Liên Xô sẽ khởi sự trong khoảng từ 15 tháng 5 đến 15 tháng 6 năm 1941. Nhưng người đứng đầu cơ quan tình báo GRU F. I. Golikov đã không nhận thức được ý nghĩa thực sự của những thông tin quý giá này. Và cả Stalin cũng đã xử lý chậm chạp do nghi ngờ tính xác thực của các thông tin đó với niềm tin thái quá vào các nỗ lực ngoại giao để tránh một cuộc chiến tranh. Ngay cả đô đốc Tư lệnh hải quân Liên Xô N. G. Kuznetsov khi nhận được báo cáo ngày 6 tháng 5 của Tùy viên hải quân Liên Xô tại Berlin về việc quân Đức có thể khởi chiến vào 14 tháng 5 cũng coi đó chỉ là tin giả do phía Đức tung ra để thăm dò phản ứng của Liên Xô.
Diễn biến chiến dịch
Khái quát
Mở màn chiến dịch, Không quân Đức Quốc xã (Luftwaffe) tấn công các sân bay và các mục tiêu quân sự bên trong lãnh thổ Liên Xô từ ven biển Barents đến ven bờ Biển Đen. Trong vòng vài giờ sau đó, 152 sư đoàn gồm hơn 3,2 triệu quân Đức, cộng thêm 38 sư đoàn quân các nước chư hầu, dẫn đầu bởi các sư đoàn thiết giáp ồ ạt vượt biên giới, bắt đầu chiến dịch quân sự theo đường lối chiến tranh chớp nhoáng (blitzkrieg) lớn nhất trong lịch sử nhắm vào mục tiêu đánh bại Hồng quân và xoá sổ Liên Xô trong vòng 2-3 tháng.
Theo kế hoạch, chiến dịch được tiến hành bởi ba mũi. Mũi thứ nhất của Cụm tập đoàn quân Bắc gồm 26 sư đoàn, trong đó có 3 sư đoàn thiết giáp và 2 sư đoàn cơ giới hóa, tấn công qua các nước Cộng hòa vùng Baltic vào Bắc Nga, hướng tới Leningrad. Mũi thứ hai của Cụm tập đoàn quân Trung tâm gồm 49 sư đoàn, trong đó có 9 sư đoàn thiết giáp và 6 sư đoàn cơ giới hóa, tấn công Smolensk sau đó qua Belarus tới Moskva. Mũi thứ ba của Cụm tập đoàn quân Nam gồm 41 sư đoàn, trong đó có 5 sư đoàn thiết giáp và 4 sư đoàn bộ binh cơ giới hóa, tấn công vào vùng đông dân trù phú Ukraina, chiếm Kiev sau đó triển khai xuống phía Nam, tới sông Volga và vùng dầu hỏa Caucasus.
Ở giai đoạn đầu của chiến dịch, Hồng quân Liên Xô hoàn toàn bị bất ngờ và không kịp phản ứng. Chỉ trong 3 ngày đầu, gần 4.000 máy bay bị phá hủy khi đang đậu trên sân bay, các đồn biên phòng nhanh chóng bị tràn ngập. Ở phía Bắc, tập đoàn quân thiết giáp số 4 của Đức xuyên qua giữa 2 quân đoàn Hồng quân, sau đó bao vây và tiêu diệt 2 quân đoàn này. Ở mặt trận trung tâm, tập đoàn quân thiết giáp số 2 vượt sông Tây Bug ở phía Nam, tập đoàn quân thiết giáp số 2 đột phá qua khe giữa 2 phương diện quân Hồng quân ở sông Neman, vận động thành hai gọng kềm thọc sâu hợp điểm tại Minsk, khiến 32 sư đoàn Hồng quân bị bao vây trong túi và sau đó bị tiêu diệt. Đến ngày 9 tháng 7, quân Đức liên tục đánh bại quân đội Liên Xô trên lãnh thổ phía Tây, lãnh thổ Litva và Latvia và hầu khắp lãnh thổ Belarus cũng như miền Tây Ukraina. Ngày 29 tháng 6 năm 1941, Minsk rơi vào tay quân Đức. Pskov rơi vào tay quân Đức ngày 9 tháng 7 năm 1941. Ngày 10 tháng 7 năm 1941, quân Đức đột kích Leningrad rồi tiền hành bao vây.
Ở giai đoạn hai, trên mặt trận trung tâm, tập đoàn quân thiết giáp số 2 của Đức vượt sông Dniepr vận động bao vây Smolensk từ phía Nam, tập đoàn quân thiết giáp số 3 tiến công Smolensk từ phía Bắc. Sau khi hợp điểm thành công, hai gọng kềm phong tỏa 3 tập đoàn quân Hồng quân trong túi, bắt sống 18 vạn tù binh. Chiếm xong Smolensk vào ngày 10 tháng 9 năm 1941, tập đoàn quân thiết giáp số 2 được lệnh quay về phía Nam, phối hợp với cụm tập đoàn quân Nam đánh về phía Bắc thành hai gọng kềm bao vây Kiev, tiêu diệt và bắt giữ 43 sư đoàn Hồng quân với tổng số 60 vạn người cùng với nhiều vũ khí nặng. Đến ngày 1 tháng 9, quân Đức đã đánh bại Hồng Quân ở miền Đông Belarus, Estonia và vùng giáp ranh với Nga, gần như toàn bộ Ukraina. Đến cuối tháng 10, phần còn lại của Ukraina trừ Krym thất thủ. Uman bị chiếm ngày 10 tháng 8 năm 1941. Kiev, Riga thất thủ ngày 30 tháng 9 năm 1941. Ngày 16 tháng 10 năm 1941, Odessa thất thủ. Kharkov, trung tâm công nghiệp lớn thứ hai ở Ukraina rơi vào tay quân Đức ngày 24 tháng 10 năm 1941 nhưng Liên Xô đã kịp sơ tán các nhà máy, kỹ sư và công nhân về phía đông.
Bước vào giai đoạn ba, các tập đoàn quân đoàn thiết giáp Đức lặp lại bài bản tấn công bằng hai gọng kềm thắng lợi thêm một lần nữa ở Vyazma, bao vây 4 tập đoàn quân Hồng quân trong túi, tiêu diệt hoặc bắt sống gần 60 vạn người, nâng tổng số Hồng quân bị tổn thất lên xấp xỉ 3 triệu. Nhưng đây cũng là dấu chấm hết cho những thắng lợi của quân Đức trong chiến dịch Barbarossa khi sau đó Hồng quân phản công thành công ở trận Moskva, tiêu diệt hoặc đánh thiệt hại nặng 50 sư đoàn Đức. Ở phía nam, Liên Xô cũng phản công thắng lợi trong trận Rostov, ở phía bắc thì Leningrad vẫn kiên trì cố thủ. Quân Đức thất bại trong mục tiêu đánh nhanh thắng nhanh, biến mặt trận phía Đông thành một cuộc chiến tranh tiêu hao tổng lực.
Mặt trận Belorussia và vùng Pribaltic
Các hướng tấn công của Quân đội Đức Quốc xã và các mũi phản kích của Quân đội Liên Xô tại mặt trận Belorussia trong tuần đầu của cuộc chiến
Tại mặt trận Belorussia
Tại hướng Belorussia, Tổng hành dinh quân đội Đức tập trung lực lượng mạnh nhất của chiến dịch gồm 29 sư đoàn trên đất Ba Lan và 21 sư đoàn ở Đông Phổ, trong đó có 15 sư đoàn xe tăng. Hai mũi tiến công vu hồi sâu ở hai hướng Bắc và Nam thành phố Brest - Litovsk. Cánh quân phía Bắc do Tập đoàn quân xe tăng 3 của tướng Hermann Hoth dẫn đầu có tập đoàn quân 9 tiến theo sau mở mũi đột kích từ Belostok (Bialystok) vượt qua Lida và Molodechno (maladzyechna) đến Borisov (Barysaw). Tại phía cực Bắc của hướng này, tập đoàn quân 2 có quân đoàn xe tăng 8 dẫn đầu phát triển tấn công đến Vilnius. Cánh quân phía Nam có Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Heinz Guderian dẫn đầu và tập đoàn quân 4 tiến theo sau đột kích từ Nam Brest qua Kobryn, Baranovichi, Slutsk, Pukhavichy (Puchavicy) đến Berezina (Byerazino). Ngay trong ngày 22 tháng 6, Bộ chỉ huy tối cao Liên Xô hầu như bị đứt liên lạc hoàn toàn với Quân khu đặc biệt miền Tây. Chỉ biết được không quân của Quân khu bị thiệt hại rất lớn. Trinh sát đường không chỉ nắm được tình hình chung nhất là quân Đức đã đột nhập lãnh thổ với chiều sâu từ 15 đến 20 km. Quân dự bị động viên của Liên Xô tiến ra mặt trận, Moscow 23/6/1941. Bảng trên cây bên trái ảnh có gi dòng chữ: "Chính nghĩa thuộc về chúng ta. Kẻ thủ sẽ bị tiêu diệt. Chiến thắng sẽ thuộc về chúng ta" (Ảnh của RIA NOVOSSTI)|alt=Quân dự bị động viên của Liên Xô tiến ra mặt trận. Bảng trên cây bên trái ảnh có ghi dòng chữ: "Chính nghĩa thuộc về chúng ta. Kẻ thủ sẽ bị tiêu diệt. Chiến thắng sẽ nằm trong tay chúng ta"
Cũng ngay trong ngày đầu chiến tranh, nhiều sư đoàn và quân đoàn thuộc Quân khu đặc biệt Miền Tây (từ ngày 23 tháng 6 đổi tên là Phương diện quân Tây) đã độc lập tác chiến với quân Đức. Thông tin liên lạc bị đứt làm cho việc chỉ huy chung không thể thực hiện được. Ngay cả khi liên lạc được nối lại, đại tướng D. G. Pavlov, tư lệnh Phương diện quân cũng thường có những quyết định không còn phù hợp với tình hình. Kết quả là ngày 25 tháng 6, các tập đoàn quân 3 của trung tướng V. I. Kuznesov và tập đoàn quân 4 của thiếu tướng A. A. Korobkov ngay cả khi được tăng cường quân đoàn cơ giới 14 vẫn rút lui vô tổ chức khỏi Grodno và Brest. Hành động đó đã đẩy đồng đội của họ là tập đoàn quân 10 do thiếu tướng K. D. Golubev chỉ huy vào tình trạng bị nửa hợp vây tại khu phòng thủ Ossoved (osowiec Twierdza) trên bờ sông Narew. Phó tư lệnh phương diện quân Tây, Trung tướng I. V. Boldin đã sử dụng quân đoàn kỵ binh 6, các quân đoàn cơ giới 6 và 11 tổ chức phản kích từ Sokolka vào sườn trái của tập đoàn quân xe tăng 3 Đức. Mặc dù cuộc phá vây không thành công nhưng đòn phản kích này đã buộc tập đoàn quân xe tăng 3 Đức phải phân chia lực lượng để "nhổ cái dằm" Sokolka - Ossoved. Tại Slonim, một bộ phận lớn Quân đoàn cơ giới 6 Liên Xô được trang bị các loại xe tăng cũ BT-7, T-26 và T-28 đã bị tập đoàn quân xe tăng 2 Đức bao vây tại đây. Quân đoàn phải bỏ lại hầu hết xe tăng sau khi đã sử dụng đến những viên đạn, những giọt dầu cuối cùng và chiến đấu như bộ binh để mở đường máu rút lui. Tư lệnh quân đoàn cơ giới 6, tướng M.G. Khaskilevik và tư lệnh quân đoàn kỵ binh 6, tướng I.S. Nikitin tử trận.
Ngày 26 tháng 6, quân đoàn cơ giới 39 thuộc tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) đã tiếp cận khu phòng thủ Minsk và chạm súng với Quân đoàn khinh binh 5 (Liên Xô) do tướng V. D. Yushenko chỉ huy. Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây lấy từ lực lượng dự bị của họ Quân đoàn khinh binh 2 do tướng A. N. Yermakov chỉ huy (chỉ có hai sư đoàn 100 và 161), tăng cường cho khu phòng thủ. Đêm 26 tháng 6, quân đoàn cơ giới 47 thuộc tập đoàn quân xe tăng 2 Đức cũng tấn công Minsk từ phía Nam. Minsk đứt liên lạc với Moskva từ rạng sáng 26 tháng 6. Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô triệu tập đại tướng Zhukov đang chỉ đạo mặt trận Tây Nam về Moskva để tìm biện pháp khôi phục tình hình mặt trận miền Tây.
Trong hai ngày 27 và 28 tháng 6, do vẫn không có tin tức gì về đại tướng D. G. Pavlov; bằng tất cả các kênh liên lạc có thể có, Zhukov đã lập tức nắm tình hình và chỉ đạo tướng V.Ye. Klimovskikh, tham mưu trưởng Phương diện quân Tây tập hợp tất cả các lực lượng còn lại để chặn đường hợp vây của hai cánh quân xe tăng Đức đang tiến đến hợp điểm tại Borisov. Song, tất cả đã quá muộn, chiều tối 28 tháng 6, tập đoàn quân xe tăng 2 Đức đã chiếm thành phố Minsk. Binh lính Liên Xô bị quân Đức bắt làm tù binh ở Minsk tháng 7 năm 1941
Ngày 27 tháng 6, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Liên Xô đề nghị thành lập Phương diện quân Dự bị gồm các tập đoàn quân 13, 19, 20, 21, 22 và bố trí nó ở Đông Belorussia trên tuyến Bắc Dvina, Polotsk, Vitebsk, Orsa, Mogilev và Mozyr; điều động các tập đoàn quân 24 và 28 bố trí phía sau Phương diện quân này tại tuyến Selizharovo, Smolensk, Roslavl, Gomel. Nguyên soái Liên Xô S. M. Budionny được đề nghị chỉ định làm tư lệnh phương diện quân. Stalin chuẩn y ngay tức khắc đề nghị này. Ngày 30 tháng 6, Stalin ra lệnh triệu tập về Moskva đại tướng D.G. Pavlov, tư lệnh; thiếu tướng, V.Ye. Klimovskikh tham mưu trưởng, thiếu tướng Klish (?), tư lệnh pháo binh, thiếu tướng A.T. Grigoryev, chủ nhiệm thông tin Phương diện quân miền Tây. Họ đều bị cách chức ngay lập tức và bị đưa ra xét xử tại tòa án binh sau đó ít ngày. Nguyên soái Liên Xô S. K. Timoshenko được cử làm tư lệnh Phương diện quân Tây, Phó tư lệnh: trung tướng A. I. Yeryomenko. Phương diện quân Dự bị chuyển thuộc toàn bộ sáu tập đoàn quân cho Phương diện quân Tây, lùi về giữ tuyến Selizharovo, Smolensk, Roslavl, Gomel để cơ cấu lại với hai tập đoàn quân 24 và 28 vừa được chuyển thuộc cùng ba tập đoàn quân đang trong quá trình tập hợp từ lực lượng dự bị động viên. Trong chiến dịch ở Minsk, không tính 93.000 binh sĩ chết và bị thương, 324.000 quân Liên Xô đã bị quân Đức bắt giữ cùng 2.300 xe tăng, thiết giáp bị phá hỏng hay loại khỏi vòng chiến.
Tại vùng Pribaltic
Tại hướng Pribaltic, Cụm tập đoàn quân Bắc của thống chế Wilhelm Ritter von Leeb nắm trong tay 29 sư đoàn triển khai tấn công dọc theo bờ biển và khép chặt sườn phải với Cụm tập đoàn quân Trung tâm tại tuyến Vilnius - Pskov. Ngày 26 tháng 6, Tập đoàn quân 8 của Liên Xô (bao gồm 5 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn tăng, 1 sư đoàn cơ giới hóa, 3 trung đoàn pháo binh và 1 lữ đoàn pháo chống tăng) bị đứt liên lạc, bị thiệt hại nặng và phải lùi về Riga trên chính diện bị đẩy sâu vào đến 100 km thuộc Quân khu Pribaltic. Tập đoàn quân 11 (gồm 8 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn tăng với 640 xe tăng, 1 sư đoàn cơ giới hóa, 1 trung đoàn xe mô tô, và 1 trung đoàn pháo binh) bị đẩy lùi về Polotsk. Bộ Tổng tham mưu Quân đội Liên Xô điều Quân đoàn cơ giới 21 từ Quân khu Moskva đi ứng cứu cho hướng này trong khi mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với Quân đội Liên Xô lại không phải ở đây mà là ở khu vực phụ cận Minsk (tại đây, ba tập đoàn quân 3, 4 và 10 của Quân đội Liên Xô đang có nguy cơ bị hợp vây). trái|nhỏ|Xác một chiếc xe tăng Đức [[Panzer IV bị phá hủy tại Kaunas (Litva) năm 1941]]
Sau khi Quân khu Pribaltic chuyển đổi thành Phương diện quân Tây Bắc, các tập đoàn quân 8 và 11 (Liên Xô) đã thoát khỏi vòng vây nhưng do không có chỉ huy (tham mưu trưởng, tướng P. S. Klyonov bị cơ quan phản gián quân sự NKVD bắt, không rõ số phận của tư lệnh F. I. Kuznessov và chính ủy P. A. Dibrova), các tập đoàn quân này đã tản mát trên nhiều hướng và hầu như tan rã. Đại bản doanh quân đội Liên Xô đã cử trung tướng N. F. Vatutin làm tham mưu trưởng phương diện quân này; đồng thời điều Quân đoàn cơ giới 21 của tướng D. D. Lelyushenko tiến ra chặn quân Đức tại Daugapinsk. Quân đoàn này chỉ chặn được quân đoàn xe tăng 56 của Đức trong một tuần rồi buộc phải lui về dải phòng ngự của Tập đoàn quân 27 do thiếu tướng N. E. Berzarin chỉ huy. Thừa thắng, tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) của tướng Erich Höpner tiếp tục ép tập đoàn quân 27 (Liên Xô) phải lùi và đánh chiếm thành phố Pskov. Đến ngày 30 tháng 7, Phương diện quân Tây Bắc (Liên Xô) đã để mất hầu như toàn bộ vùng Pribaltic với các trung tâm quan trọng như: Vilnius, Lida, Riga, Pskov, Luga. Quân số còn lại của tập đoàn quân 8 (Liên Xô) bị vây tại Tallinn và đến ngày 28 tháng 8 phải bỏ Tallinn, rút lui theo đường biển về Leningrad..
Kết thúc cuộc hội chiến biên giới Xô-Đức tại Belorussia và các nước cộng hòa vùng Baltic, Quân đội Đức Quốc xã đã chiếm đóng toàn bộ khu vực này.
Hội chiến biên giới tại Ukraina
Tình hình phía Nam mặt trận Tây Nam từ 22-6 đến 10-7-1941
Chiến cuộc tại miền Tây Ukraina bắt đầu bằng đòn đột kích của tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân 6 (Đức) vào dải phòng ngự của các tập đoàn quân 5 (Liên Xô) ở khu vực Liuboml, Vladimir - Volynski, Ustyluh và dải phòng ngự của tập đoàn quân 6 (Liên Xô). Ngay từ sáng sớm, tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã chiếm được thị trấn biên giới Parkhash và bốn điểm dân cư khác. Cũng ngay từ 5 giờ sáng 22 tháng 6, không quân của Quân khu đặc biệt Kiev đã mất 180 máy bay chiến đấu, phần lớn bị không quân Đức ném bom phá hủy ngay tại sân bay. Mặc dù Bộ Quốc phòng Liên Xô chỉ thị cho không quân của quân khu phải dùng máy bay tập kích vào lãnh thổ Ba Lan - Đức sâu từ 100 đến 150 km nhưng chỉ có những tốp nhỏ máy bay Liên Xô vượt qua được hàng rào máy bay tiêm kích của Đức chi viện cho bộ binh mặt đất. Quân khu không còn đủ máy bay để oanh kích hậu phương quân Đức. Chiều tối 22 tháng 6, Stalin yêu cầu đại tướng Zhukov tới ngay Kiev để chỉ đạo mặt trận Tây Nam và đổi tên Quân khu này thành Phương diện quân Tây Nam.
Sáng 23 tháng 6, tập đoàn quân 6 (Đức) mở rộng khu vực đột phá đến Sokal, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) tấn công địa đoạn tiếp giáp giữa hai tập đoàn quân 5 và 6 (Liên Xô) ở Rava - Russkaya và Peremyshliany. Trong tác chiến mặt đất, điển tiếp giáp giữa các đơn vị luôn là chỗ hiểm yếu nhất. Tại thê đội một, quân Đức có 10 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn xe tăng. Ngay phía sau là thê đội hai với 2 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn cơ giới và 1 sư đoàn xe tăng được thống chế Walther von Reichenau sử dụng để phát huy chiến quả. Tại cánh Nam, tập đoàn quân 17 của tướng Carl-Heinrich von Stülpnagel hướng đòn tấn công vào Tomashuv (Tomashivtsi) và Tarnopol (Ternopil) với ý đồ khép vòng vây quanh hai tập đoàn quân Liên Xô trên vùng sát biên giới. Quân Đức tấn công một ngôi làng ở miền Nam Liên Xô
Ngày 24 tháng 5, Phương diện quân Tây Nam điều các quân đoàn cơ giới 9 và 19 để phản kích vào Kovel và Dubno với ý định chia cắt phía sau tập đoàn quân 6 (Đức). Quân đoàn cơ giới 22 do tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovsky chỉ huy sẽ đảm bảo hậu cần cho các đơn vị này. Cũng trong ngày 24 tháng 6, Quân đoàn cơ giới 8 của tướng D. I. Riabyshev phản công trên hướng Berestechko, Quân đoàn cơ giới 15 của tướng I. I. Karpezo cũng tấn công vào Radekhov, đánh tan sư đoàn bộ binh 57 ở sườn phải Quân đoàn cơ giới 58 (Đức). Thống chế Walther von Reichenau phải tung Quân đoàn 44 từ lực lượng dự bị để giải nguy cho Quân đoàn 58; đồng thời đưa Quân đoàn cơ giới 14 (cũng lấy từ lực lượng dự bị) tăng cường cho hướng Rava - Russkaya; điều quân đoàn 55 tăng cường cho cánh quân tấn công Dubno. Toàn bộ 30 xe tăng KV của Liên Xô tại khu vực phòng thủ Kovel - Dubno đều thiếu đạn chống tăng. Zhukov đã lệnh cho tướng M. I Potapov, tư lệnh Tập đoàn quân 5 (Liên Xô) cung cấp cho họ loại đạn phá bê tông 09-30г để diệt xe tăng Đức. Đến ngày 27 tháng 6, tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân 6 (Đức) đã chịu những thiệt hại đáng kể và vẫn chưa tiến qua được khu vực hành lang biên giới rộng 50 km.
Mặt trận Xô-Đức tháng 8 năm 1941. Khu phòng thủ Kiev trở thành một mũi đất nhô về phía Tây, chia cắt Cụm tập đoàn quân Trung tâm và Cụm tập đoàn quân Nam của Đức
Ngày 28 tháng 6, tướng Paul Kleist điều sư đoàn xe tăng 11 của tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) bất ngờ đột kích chiếm Dubno. Trong khi Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam phán đoán rằng, cánh quân này sẽ tiến xuống phía Nam để hợp vây tập đoàn quân 6 (Liên Xô) thì trên thực tế, cánh quân xe tăng này tiếp tục vượt qua Ostroh và lao về Kiev. Trên hướng này, tập đoàn quân 16 lại đang lên tàu chuyển quân đi tăng cường cho Phương diện quân Tây. Vì lợi ích chung, tướng M. F. Lukin, tư lệnh tập đoàn quân đã ra lệnh cho hai sư đoàn xuống tàu, quay về phòng thủ Shepetivka và yêu cầu Ủy viên hội đồng quân sự Phương diện quân Tây Nam N. X. Khrushov báo cáo về Moskva xin giữ lại các đơn vị còn lại của tập đoàn quân 16. Cuộc phản kích dự kiến có sự tham gia của các quân đoàn cơ giới 8, 9, 15 và 19 nhưng trên thực tế, chỉ có quân đoàn cơ giới 8 và 15 thực hiện. Mũi đột kích đơn độc của Quân đoàn cơ giới 8 (Liên Xô) hướng về Dubno đã bị Quân đoàn xe tăng 40 (Đức) hợp vây tại khu vực Brody và bị tổn thất nặng. Trên chính diện của Phương diện quân Tây Nam xuất hiện một lỗ hổng lớn ở Đông Nam Dubno. Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã lợi dụng lỗ hổng này lao về phía Kiev. Không chịu đựng được thất bại, Chính ủy quân đoàn N. N. Vashughin, Ủy viên hội đồng quân sự Phương diện quân Tây Nam đã tự sát.
Ngày 1 tháng 7, quân đoàn bộ binh 15 (Liên Xô) bỏ Kovel rút về Prokhod trước nguy cơ bị hợp vây. Để thu hẹp chính diện mặt trận do quân số thương vong nhiều, Bộ tư lệnh phương diện quân Tây Nam cũng lui binh về tuyến sông Ikhva, Zbytyn, Kremenets, Zloshev, Bobrka, Slavuta và mở đợt phản kích vào hướng Tsuman, Stavok (Tây bắc Rovno) để lấp lỗ hổng giữa hai tập đoàn quân 5 và 6. Kết quả phản công không như ý muốn của Bộ tư lệnh phương diện quân Tây Nam. Ngày 7 tháng 7, thống chế Reichenau tập trung lực lượng về phía Nam Novograd - Volynsky, đánh chiếm Berdichev, ngày 9 tháng 7 chiếm Jitomir. Một lỗ hổng còn lớn hơn lỗ hổng tại vùng Dubno lại xuất hiện làm cho các tập đoàn quân 6, 12, 26 của Liên Xô có nguy cơ bị hợp vây. Từ ngay 9 đến ngày 16 tháng 7, Phương diện quân Tây Nam đã tổ chức tập kích liên tục vào các cánh quân Đức, rút được phần lớn lực lượng của ba tập đoàn quân nói trên về củng cố phòng thủ Kiev. Trận hội chiến trên vùng biên giới Ukraina kết thúc. Tuyến mặt trận tại Phương diện quân Tây Nam hình thành một mũi nhô về phía quân Đức trên địa đoạn Kremenchuk, Kiev, Korosten, Kremenets, Pripyat.
Cuộc phòng thủ tại Pháo đài Brest
Bản đồ pháo đài Brest, thành phố Brest và vùng phụ cận năm 1912
Là thành phố địa đầu miền Tây Belorussia, thành phố Brest - Litovsk đã chứng kiến lễ ký kết hiệp định đình chiến Nga - Ba Lan, kết thúc cuộc chiến tranh giữa hai nước năm 1920. Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Pháo đài Brest trở thành một trong những địa điểm đầu tiên bị Quân đội Đức Quốc xã tấn công. Sau chiến tranh, Pháo đài Brest trở thành một trong những biểu tượng cho lòng dũng cảm của Quân đội và nhân dân Liên Xô trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Nằm giữa ngã ba sông Mukhavets hợp lưu với sông Bug Tây, từ thế kỷ thứ XVIII, pháo đài Brest là vị trí có ý nghĩa địa quân sự quan trọng, được các kỹ sư quân sự Nga thời kỳ Sa hoàng thiết kế và tổ chức xây dựng như một tòa thành đồ sộ gồm pháo đài chính và 5 đồn binh phụ thuộc, trở thành căn cứ phòng thủ quân sự tiền tiêu trọng yếu ở phía Tây Đế quốc Nga. Trong thời đại công nghiệp quân sự phát triển cao với xuất hiện đại bác nòng rãnh, xe tăng, máy bay, Pháo đài Brest dần mất đi sức mạnh của nó