✨Chiến dịch Cái Vòng (1943)

Chiến dịch Cái Vòng (1943)

Chiến dịch Cái Vòng (Операция Кольцо) là một hoạt động quân sự chiến lược lớn của Quân đội Liên Xô chống lại Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng thời là giai đoạn cuối cùng của Trận Stalingrad. Được khởi đầu vào ngày 1 tháng 12 năm 1942 và kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 1943, mục đích của chiến dịch là tiêu diệt hoàn toàn cụm quân Đức bị bao vây tại khu vực Stalingrad gồm toàn bộ Tập đoàn quân 6, một phần Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) và các đơn vị tàn quân Romania. Chiến dịch này cũng thủ tiêu mối nguy cơ đe dọa phía sau lưng các Phương diện quân Voronezh, Tây Nam và Stalingrad lúc này đã đánh bại các cuộc hành quân giải vây của Cụm tập đoàn quân Sông Đông (Đức) trong Chiến dịch Bão Mùa đông và đang tiến về phía Tây sau thắng lợi của Chiến dịch Sao Thổ; làm tiêu tan ý đồ của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức sử dụng Cụm quân Stalingrad (Đức) như một lực lượng để kìm chân và làm phân tán lực lượng của các phương diện quân Liên Xô để tranh thủ thời gian rút Cụm tập đoàn quân A khỏi Bắc Kavkaz và Kuban, chỉnh đốn lực lượng để tổ chức phòng thủ trên tuyến sông Bắc Donets và Sumy, chờ thời cơ phản công khi mùa hè đến.

Chiến dịch Cái Vòng được tiến hành trong ba giai đoạn. Trong đó, giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ ngày 1 tháng 12 và được đình chỉ sau hai tuần thực hiện không thành công. Tiếp theo là thời gian tạm dừng chiến dịch từ ngày 14 tháng 12 năm 1942 đến ngày 10 tháng 1 năm 1943. Trong thời gian này, quân đội Đức tập trung nỗ lực vào việc mở một cầu hàng không để tiếp tế cho Cụm quân Stalingrad của họ còn quân đội Liên Xô sử dụng các lực lượng phòng không và không quân để ngăn cản cầu hàng không này, thực hiện chiến thuật bóp nghẹt Tập đoàn cứ điểm Stalingrad của quân Đức. Giai đoạn thứ ba bắt đầu ngày 10 tháng 1 khi bức thư kêu gọi đầu hàng của Tư lệnh Phương diện quân Sông Đông (Liên Xô) bị từ chối và kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 1943 khi Thống chế Friedrich Paulus dẫn các sĩ quan dưới quyền ra hàng Phương diện quân Sông Đông sau gần một tháng kháng cự ác liệt và lệnh cho các đơn vị Đức và đồng minh của họ hạ vũ khí, chấm dứt chiến sự.

Bối cảnh

Sơ đồ bố trí lực lượng hai bên xung quanh cụm quân Đức bị vây tại Stalingrad Vị trí quân Đức bị bao vây có hình quả trứng, đầu nhỏ thuôn hướng về phía Tây, dài khoảng 50 km từ Đông sang Tây và rộng khoảng 40 km từ Bắc xuống Nam, có chu vi khoảng 170 km tại khu vực Tây và Tây Bắc Stalingrad. Địa hình khu vực này có con sông Rososhka ở chạy dọc theo tuyến mặt trận ở hướng Tây Nam. Phía Bắc là các dãy đồi thấp. Phía Đông và Đông Nam là thành phố Stalingrad đổ nát sau 5 tháng chiến sự, nơi đang diễn ra các trận chiến trên đường phố giữa 7 sư đoàn Đức và Tập đoàn quân 62 (Liên Xô) đang trấn giữ một trận tuyến tuyến dài hơn 40 km, có chiều sâu không quá 4 km có chỗ chỉ từ 1 dến 1,5 km dọc theo hữu ngạn sông Volga. Chính giữa khu vực bị bao vây là các dãy đồi cao thuộc các làng Gumrak và Potomnik, nơi phân chia lưu vực hai con sông Đông và Volga.

Một nguyên nhân quan trọng khiến Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô phải tạm hoãn Chiến dịch Cái Vòng là cuộc phản công Bão Mùa đông của Cụm tập đoàn quân Sông Đông (Đức) được triển khai ngày 12 tháng 12 với mục tiêu giải vây cho Cụm quân Đức tại Stalingrad. Quân đội Liên Xô buộc phải điều Tập đoàn quân cận vệ 2 và 5 quân đoàn độc lập dự định sử dụng cho Chiến dịch Cái Vòng ra hướng Kotelnikovo để chặn Cụm quân Hoth và tăng cường cho Phương diện quân Tây Nam mở Chiến dịch Sao Thổ nhỏ đánh vào sao lưng các cánh quân đi mở vây của thống chế Erich von Manstein. Trong thời gian tạm dừng chiến dịch này, quân Đức đã mở cầu hàng không tiếp tế cho Cụm quân Stalingrad với mục đích duy trì cụm quân này như một "cái dằm" lớn phía sau các Phương diện quân chủ lực của Liên Xô ở cánh nam Mặt trận Xô-Đức để tranh thủ thời gian rút Cụm tập đoàn quân A đang có nguy cơ bị mắc kẹt và cô lập tại khu vực Bắc Kavkaz - Kuban. Quân đội Liên Xô cũng tiến hành chiến dịch phong tỏa đường không để làm suy yếu sức chiến đấu của Cụm quân Stalingrad (Đức). Chỉ đến ngày 31 tháng 12 năm 1942, sau khi đánh bại hoàn toàn cuộc phản công Bão Mùa đông của quân Đức và tiến ra tuyến sông Bắc Donets, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô mới tập trung binh lực cho Phương diện quân Sông Đông mở lại Chiến dịch Cái Vòng, tiêu diệt và bắt làm tù binh toàn bộ số quân Đức trong vòng vây, trong đó có Thống chế Friedrich Paulus.

Theo ý kiến của đại tướng G. K. Zhukov, muốn thanh toán cánh quân Đức đang bị vây một cách chắc chắn, trước hết cần tập trung binh lực để đánh một đòn từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng đến Bolshaya Rososhka nhằm bổ đôi cánh quân của Paulus lúc này đang tập trung tại hai hướng: trong nội đô Stalingrad (8 sư đoàn) và hướng ra phía Tây (8 sư đoàn). Các sư đoàn xe tăng và cơ giới đều bố trí ở hướng Đông Bắc và Tây Nam vòng vây. Sau khi cắt đôi cánh quân này, sẽ tập trung binh lực loại khỏi vòng chiến đấu cánh quân phía Tây trước, cánh quân phía Đông sau. Tuy nhiên, I. V. Stalin cho rằng như thế sẽ mất quá nhiều thời gian nên muốn các chỉ huy Phương diện quân Sông Đông và Stalingrad phải mở một cuộc tấn công đồng loạt từ tất cả các hướng đồng quy đến trung tâm chiến trường tại điểm cao 135 trong làng Gumrak. Ngày 20 tháng 11, khi G. K. Zhukov được giao nhiệm vụ tổ chức một cuộc tấn công tại các Phương diện quân Tây và Kalinin nhằm không cho quân Đức rút quân từ Cụm tập đoàn quân Trung tâm xuống Stalingrad, I. V. Stalin giao cho Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị một kế hoạch khác mặc dù A. M. Vasilevsky vẫn kiên trì bảo vệ quan điểm của G. K. Zhukov.

Đêm 23 rạng ngày 24 tháng 11, đại tướng A. M. Vasilevsky chỉ thị cho các Phương diện quân Tây Nam, Sông Đông và Stalingrad, yêu cầu truyền đạt nhiệm vụ cho các đơn vị đang có mặt ở vòng vây phía trong. Theo kế hoạch:

  • Tập đoàn quân 21 được tăng cường Quân đoàn xe tăng 4 sẽ tấn công từ Tây sang Đông;
  • Các tập đoàn quân 24 và 65 sẽ tấn công từ Kletskaya và Katsalinskaya xuống phía Nam;
  • Tập đoàn quân 66 đánh đòn bổ trợ từ Dubrovka dọc theo sông Volga xuống phía Tây Nam vào trung tâm thành phố, trợ chiến cho Tập đoàn quân 62;
  • Tập đoàn quân 57 vượt sông Rososhka tấn công từ Tây Nam lên;
  • Tập đoàn quân 62 tấn công từ bàn đạp dài 25 km, rộng 1,5 km dọc bờ phải sông Volga từ thành phố đánh ra.
  • Tập đoàn quân 64 tấn công từ hướng Đông Nam lên phối hợp với tập đoàn quân 62 chiếm lại thành phố.

Hướng chung của các mũi tiến công đều nhằm đến Gumrak, nơi đóng Sở chỉ huy cánh quân Stalingrad của thống chế Paulus. Quân đoàn bộ binh 17, trong biên chế còn lại sư đoàn bộ binh 79; Quân đoàn bộ binh 51, trong biên chế còn đủ ba sư đoàn bộ binh 44, 71 và 297. Các đơn vị thuộc Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức): Quân đoàn xe tăng 14 gồm các sư đoàn xe tăng 14 và 24, các sư đoàn cơ giới 16 và 60; Quân đoàn bộ binh 4 gồm các sư đoàn bộ binh 44, 100 và 295; Thuộc tập đoàn quân 3 (Romania): *Sư đoàn bộ binh 86. Các đơn vị Đức đến tăng viện bị lọt vào vòng vây: Sư đoàn bộ binh 94; Sư đoàn bộ binh 305; Sư đoàn bộ binh 371; Sư đoàn bộ binh 384; *Sư đoàn bộ binh 389. Các đơn vị công binh, hậu cần, quân y, thông tin, kỹ thuật. *Các căn cứ không quân tại Gumrak và Potmonik, các sân bay dự bị tại Barbukin và Rynok.

Ý đồ tác chiến

Sau khi bị hợp vây trong chiến dịch Sao Thiên Vương, với lực lượng còn sung sức, tướng Paulus chưa nghĩ đến một kế hoạch phòng thủ và chuẩn bị một kế hoạch đột kích về phía Tây. Bức điện gửi về Sở chỉ huy Cụm tập đoàn quân B của Paulus ngày 24 tháng 11 năm 1942 cho thấy rõ điều đó:

Tuy nhiên, Adolf Hitler đã ngăn cản ý đồ này bằng một mệnh lệnh yêu cầu Tập đoàn quân 6 (Đức) phải giữ bằng được "Pháo đài trên sông Volga":

Friedrich Paulus buộc phải thay đổi ý định, một mặt ông ta tiếp tục sử dụng 7 sư đoàn dồn ép Tập đoàn quân 62 (Liên Xô), mặt khác, rải 7 sư đoàn bộ binh thành một vòng tròn bao bọc lấy ba phía Bắc, Tây và Nam của cụm quân. 6 sư đoàn xe tăng và cơ giới được bố trí ở hai hướng Đông Bắc và Tây Nam. Không còn tin tưởng ở sư đoàn 86 Romania, Paulus dùng sư đoàn này làm nhiệm vụ của công binh và hậu cần thay cho các đơn vị Đức được đưa ra tuyến trước. Sau khi cuộc hành quân giải vây Bão Mùa đông của Cụm tập đoàn quân Sông Đông thất bại, Paulus đã xây dựng Cụm quân của ông ta thành một tập đoàn cứ điểm mà giới quân sự vẫn quen gọi là "Chiến thuật con nhím". Trên địa bàn rộng 170 km², dựa vào địa hình gồm các dải đồi cao giữa sông Đông và sông Volga, quân Đức đã thiết lập hơn 250 cứ điểm hợp thành 21 cụm cứ điểm, mỗi cụm cứ điểm do một sư đoàn đóng giữ. Việc tiếp tế cho cụm quân này dựa vào hai sân bay chính ở Gumrak, Potomnik và hai sân bay dã chiến và một cầu hàng không do Tập đoàn quân không quân 4 phụ trách nối với các sân bay Salsk, Novocherkash, Tatsinskaya, Likhaya, Bataisk và Rostov, mỗi ngày cung cấp trên 200 tấn hàng các loại.

Đến ngày 30 tháng 11, bằng những nỗ lực của các Tập đoàn quân 57 và 64, Phương diện quân Stalingrad đã đẩy lùi phòng tuyến của Cụm quân Stalingrad (Đức) thêm 10 km về phía Bắc. Ngày 2 tháng 12, với 4 sư đoàn được tăng viện bằng đường không, tướng Paulus đã lập được tuyến phòng thủ thứ hai ở hướng Tây và Tây Nam cụm quân, chặn đứng cuộc tấn công của hai tập đoàn quân Liên Xô trên tuyến Orlovka - Dmitrievka - Tsybenko (???) - Kuporosnoye (???). Ngay từ đầu chiến dịch, Tướng K.K.Rokossovsky đã kiên trì quan điểm trước hết cần xóa sổ Tập đoàn quân 6 (Đức) rồi sau đó mới mở các cuộc tấn công theo mô hình lặp lại như ở Stalingrad để cô lập Cụm tập đoàn quân A (Đức) và khóa chặt nó lại ở Kavkaz. Tuy nhiên, sau một vài ngày tấn công đầu tiên, ông đã nhận thấy rằng chỉ mong muốn không thôi là chưa đủ, rằng chỉ một vài đòn tấn công đầu tiên không thể đem lại thắng lợi. Tập đoàn quân 21 đã suy yếu trong các trận tấn công vượt sông Đông; các tập đoàn quân 24 và 65 cũng phải dừng lại khi gặp phải tuyến phòng thủ mạnh của quân Đức tại Vertyashi. Duy nhất chỉ có Tập đoàn quân 66 đạt được một kết quả hạn chế khi nó chiếm được một bàn đạp nhỏ ở dãy đồi phía Bắc Cụm quân Paulus, giáp sông Volga nhưng cũng phải rất vất vả mới giữ được. Rõ ràng là cần phải có những nỗ lực lớn hơn nữa. Vì tất cả những điều trên đây, K.K.Rokossovsky đặt hy vọng vào việc Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô sẽ điều Tập đoàn quân cận vệ 2 đến cho ông như đã kế hoạch đã định. Ngày 1 tháng 2 năm 1942, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô điều động Tập đoàn quân cận vệ 2 do thiếu tướng R. Ia. Malinovsky từ lực lượng dự bị đến tăng viện cho Phương diện quân Sông Đông (Liên Xô) nhằm tăng tốc độ thanh toán cánh quân Đức tại Stalingrad.

Máy bay Ju-52 của Tập đoàn quân không quân 4 tiếp tế cho Tập đoàn quân 6 Đức đang chìm ngập trong vòng vây và bão tuyết

Việc này rõ ràng vượt quá khả năng của không quân Đức. Khả năng vận chuyển của Không quân Đức sau trận Crete không hề được củng cố, và số lượng 117,5 tấn họ có thể vận chuyển mỗi ngày sẽ là quá ít so với nhu cầu 800 tấn của lực lượng Đức đang bị vây. Để bổ sung cho số lượng có hạn các máy bay vận tải Junkers Ju 52, các máy bay ném bom với các trang thiết bị không hề thích hợp đã được đem ra để làm nhiệm vụ vận tải, ví dụ như những chiếc Heinkel He-111 và He-177. Tuy nhiên, Hermann Göring đã trấn an rằng Không quân Đức có thể tiếp tế cho tập đoàn quân số 6 bằng một cầu hàng không.

Để yểm hộ cho các đoàn bay vận tải, Thống chế Göring điều đến mặt trận Stalingrad phi đoàn tiêm kích "A tref" gồm các phi công nhà nghề có kỹ thuật bay điêu luyện với nhiều kinh nghiệm không chiến ở Anh và mặt trận Xô-Đức. Từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 12, phi đoàn này đã bắn rơi nhiều máy bay tiêm kích loại Yak-1 và gây ra mối lo ngại lớn cho không quân Liên Xô. Thậm chí, I. V. Stalin đã hỏi Tổng công trình sư A. S. Yakovlev (tác giả của kiểu máy bay Yak-1) rằng liệu mở rộng sản xuất loại máy bay này có còn đáp ứng được yêu cầu của mặt trận nữa không? Sau mấy ngày tìm hiểu và biết được sự có mặt của phi đoàn "A tref", không quân Liên Xô đã tổ chức các trung đoàn tiêm kích gồm toàn các phi công già dặn thay thế cho các phi công trẻ thuộc Tập đoàn không quân 16 do thiếu tướng S. I. Rudenko chỉ huy; đồng thời đưa ra chiến trường loại máy bay Yak-9 có tính năng cơ động dọc và cơ động ngang tốt hơn loại Yak-1. Và trong giai đoạn cuối của Chiến dịch Cái Vòng, các máy bay của phi đoàn "A tref" bắt đầu rơi ngày một nhiều hơn.

Để ngăn chặn các chuyến tiếp tế đường không của quân Đức cho Cụm quân Stalingrad của Paulus, quân đội Liên Xô đã áp dụng chiến thuật phòng không tổng hợp gồm ba binh chủng cùng phối hợp: Không quân và pháo cao xạ chịu trách nhiệm chặn đánh các máy bay Đức mới xâm nhập không phận trong vòng vây. Pháo binh chịu trách nhiệm bắn phá các máy bay Đức đang dỡ hàng trên các sân bay. Không quân và cao xạ tiếp tục chặn đánh máy bay Đức khi cất cánh. Chiến thuật phòng không tổng hợp này đã hạn chế rất nhiều khả năng tiếp tế của không quân Đức cho cụm quân bị bao vây.

Tính từ ngày 24 tháng 11 năm 1942 đến ngày 31 tháng 1 năm 1943, không quân Đức Quốc xã đã mất 488 máy bay gồm 256 chiếc Ju-52, 165 chiếc He-111, 42 chiếc Ju-86, 9 chiếc FW-200, 5 chiếc He-177 và 1 chiếc Ju-290 cùng khoảng 1.000 phi công trong các hoạt động tiếp tế cho Cụm quân Stalingrad. Đây là tổn thất lớn nhất đối với không quân Đức kể từ khi tiến hành các cuộc không kích vào nước Anh. Không chỉ đối với các lực lượng trên mặt đất, Stalingrad còn trở thành cỗ máy nghiền khổng lồ đối với các máy bay Đức.

Cửa hàng bách hóa trung tâm Stalingrad, dưới tầng hầm là Sở chỉ huy của tướng Paulus

Trong hai ngày 14 và 15 tháng 1, tướng K.K.Rokossovsky tạm dừng mũi tiến công chính của Tập đoàn quân 65 và điều tập đoàn quân 21 tiến lên phía trước, mở một mũi đột kích vào Novo Alekseyevsk. Tập đoàn quân 24 trên cánh Bắc và các tập đoàn quân 57 và 64 trên cánh Nam cũng tiếp tục tấn công, uy hiếp phía sau lưng cụm cứ điểm của quân Đức ở bờ Đông sông Rossoshka. Bất chấp sức kháng cự kịch liệt của quân Đức, sư đoàn bộ binh 214 của thiếu tướng N. I. Biryukov đã đưa cả pháo lớn vượt sông Rossoshka, đánh chiếm một căn cứ bàn đạp tại Nông trường quốc doanh số 1. Sau đó, họ lợi dụng địa hình khe sâu để cơ động lực lượng sang hai cánh, tấn công vào đội hình Sư đoàn cơ giới 3 Đức vừa rút lui qua sông.

Sau một tuần giao chiến, cả hai phía đều có những thiệt hại về xe tăng. Sư đoàn cơ giới 29 (Đức) mất 11 xe tăng, chỉ còn lại 4 xe Panzer III, 1 xe Panzer IV, 3 xe Panzer II và 1 xe bọc thép chỉ huy. Trung đoàn xe tăng cận vệ 47 (Liên Xô) cũng bị bắn hỏng 18 xe tăng, trong đó, 15 xe hỏng nhẹ đã được sửa chữa, phục hồi ngay sau trận đánh. Số xe tăng bị đối phương tiêu diệt gồm 2 chiếc KV và 1 chiếc T-34. Tập đoàn quân 65 bị thiệt hại nhiều nhất về người với 1.899 người chết, 6.379 người bị thương và 21 người mất tích. Binh lính Đức hoàn toàn mất tinh thần và không còn tin rằng Hitler có thể cứu thoát họ khỏi Stalingrad mà họ gọi là "bản sao của địa ngục". Và một số lính Đức khác lại cho rằng "địa ngục mới chính là bản sao của Stalingrad". Trong tình cảnh đó, tướng Paulus vẫn cố gắng ra lệnh cho binh sĩ của ông ta phải tiếp tục chiến đấu vì một lẽ đơn giản: đằng nào cũng chết. Trong bản mệnh lệnh số 383 ngày 17 tháng 1, ông ta viết:

Tuy nói với binh lính như vậy những ngày 20 tháng 1, Paulus vẫn phải gửi về Tổng hành dinh quân đội Đức Quốc xã một bức điện báo cáo rõ sự thiếu thốn về thực phẩm, nhiên liệu và đạn dược đã rơi xuống mức thảm trạng, 16.000 thương binh không được chăm sóc đúng cách, nhiều sĩ quan chỉ huy chết trận không có người thay thế và điều nghiêm trọng nhất được gọi là "sự phân rã về nhân tâm". Cuối bức điện, Paulus lại đề đạt yêu cầu cho cụm quân Stalingrad được tự do phá vây hoặc ngừng chống cự (Paulus không dám dùng từ "đầu hàng") để đội quân tránh được hậu quả bị tiêu diệt và những người bị thương có cơ hội được săn sóc. Hi vọng giải thoát cho cho các sĩ quan cao cấp của tập đoàn quân 6 cũng chấm dứt. Ngoài ra, việc tiếp tế cho quân Đức giờ đây chỉ còn có thể thực hiện được bằng cách thả dù. Tướng Paulus buộc phải chuyển sở chỉ huy lần thứ 5 và đây là lần di chuyển cuối cùng trước khi bị bắt. Tập đoàn quân 65 đánh chiếm Cụm cứ điểm Aleksandrovka. Các tập đoàn quân 21, 57 và 64 tràn qua các cụm cứ điểm Kuporosnoye, Elshanka, Peschanka, Voroponovo, Alekseevka và Sadovoi và tiến lên hướng Đông Bắc. Hạ sĩ Wilhelm Adam, người chứng kiến tại chỗ và sau này trở thành nhà văn Đức mô tả:

Ngày 24 tháng 1, Friedrich Paulus báo cáo qua radio về Tổng hành dinh tại Đông Phổ:

Nghe xong, Hitler quát vào micrôphôn:

Cùng ngày hôm đó, đại diện phía Liên Xô đi đến phòng tuyến của Đức với những yêu cầu và lời hứa như cũ nhưng Paulus, do lệnh "cấm đầu hàng" của Adolf Hitler đã không hồi âm.

Ngày 25 tháng 1, Phương diện quân Sông Đông đồng loạt đột phá vào Stalingrad từ bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Tập đoàn quân 62 cắt đứt cánh quân Đức đang bao vây đồi Mamayev với cánh quân đang trụ lại ở Nhà máy máy kéo và dồn đối phương về phía Nam thành phố. Trong khu vực Nhà máy sản xuất chướng ngại vật chống tăng, một số lớn sĩ quan chỉ huy Đức thuộc các quân đoàn 4, 8, 11, 51 và quân đoàn xe tăng 14 đã bị bao vây tại đây và bị bắt nhưng không có Paulus trong số đó. Ngày 26 tháng 1, mặc dù đã bị thương vong hơn 100.000 người nhưng quân Đức vẫn tiếp tục kháng cự. Cụm quân Đức tại khu vực phía Nam thành phố cũng bắt đầu bị chia cắt. Các lực lượng còn lại của Tập đoàn quân 6 (Đức) đã bị xé làm ba mảnh với sự tồn tại có thể tính được bằng ngày, bằng giờ. Khu vực quân Đức còn có thể hiện diện chỉ dài 20 km từ Bắc xuống Nam và chỗ rộng nhất chỉ 3,5 km từ Tây sang Đông. Các đơn vị quân đội Liên Xô bắt đầu mở những trận cận chiến trên đường phố Stalingrad. Thống chế Paulus và 24 tướng lĩnh dưới quyền được dẫn giải đến Sở chỉ huy Phương diện quân Sông Đông để trả lời những câu hỏi của các chỉ huy mặt trận của Liên Xô gồm Nguyên soái pháo binh N. N. Voronov, đại diện Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô, thượng tướng K.K.Rokossovsky, tư lệnh Phương diện quân Sông Đông, trung tướng M. S. Malinin, tham mưu trưởng Phương diện quân, thiếu tướng K. F. Teleghin chủ nhiệm chính trị. Đánh giá về cuộc bại trận của quân Đức tại Stalingrad, Heinz Guderian cho rằng thảm họa tầm cỡ quốc gia này gây nên nhưng tổn thất vô cùng nặng nề đối với nước Đức và những đồng minh của nó. Những đồng minh này đã tỏ rõ sự yếu kém đến mức không thể tin tưởng được họ khi giao phó tuyến phòng ngự tối quan trọng hai bên sườn Tập đoàn quân 6 vào tay họ và do đó, đã dẫn dến thảm họa này. Manstein cũng chỉ ra rằng tình báo Đức đã không phát hiện ra một khối quân khổng lồ từ hậu phương Liên Xô đã di chuyển đến hai bên sườn tập đoàn quân 6. Ông nhận xét rằng người Nga đã giữ kín các cuộc chuyển quân của họ và chắc chắn rằng họ không ngu si đến mức khua chiêng gióng trống về cuộc tấn công sắp tới. Và kết quả là Tập đoàn quân 6 (Đức) không hề được biết đến nguy cơ đang treo lơ lửng trên đầu họ.

Ảnh hưởng

Về quân sự

Ảnh hưởng trực tiếp rõ rệt nhất của đối quân đội Đức Quốc xã là về quân sự. Mặc dù quân số bị tiêu diệt và bị bắt tại Chiến dịch Cái Vòng chiếm không quá 6% tổng quân số của các binh đoàn Đức trên mặt trận Xô-Đức nhưng đó là những đơn vị thiện chiến đã dày dạn trận mạc trên chiến trường châu Âu và Liên Xô. Trong đó, đáng kể nhất là Tập đoàn quân 6 (Đức) đã từng có lịch sử xây dựng từ chiến tranh thế giới thứ nhất và là một trong các tập đoàn quân chủ lực của nước Đức trên mặt trận phía Đông. Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) bị mất Quân đoàn xe tăng 14 là đơn vị có bề dày kinh nghiệm chiến đấu ở Liên Xô, đã từng tham gia đội hình của 4 Cụm tập đoàn quân: Bắc, Trung tâm, B và Sông Đông.

Điều nguy hiểm nhất đối với quân đội Đức Quốc xã là trên mặt trận miền Nam Liên Xô đã xuất hiện một khoảng trống dài hơn 300 km từ Millerovo qua Sakhtinsk đến Rostov chỉ còn một số đơn vị mỏng yếu phòng ngự trong khi họ không còn nắm được thế chủ động chiến lược. Nguy cơ bị cô lập của Cụm tập đoàn đoàn quân A tại Bắc Kavkaz ngày một nặng nề hơn. Bộ Tổng tham mưu Đức đã phải rút sớm Tập đoàn quân xe tăng 1 khỏi Bắc Kavkaz, dự định lập một lá chắn xe tăng ở phía Bắc Rostov để ngăn chặn nguy cơ này. Ngay từ tháng 1 năm 1943, quân đội Liên Xô đã phát huy thắng lợi của Chiến dịch Sao Thổ và Chiến dịch Cái Vòng cũng như Chiến dịch Bão Mùa đông. Nắm quyền chủ động chiến lược trong tay, họ đã mở một cuộc tổng tấn công rộng khắp từ thượng lưu đến hạ lưu Sông Đông và vùng Bắc Kavkaz với một loạt các chiến dịch cùng lúc đánh vào ba cụm tập đoàn quân Đức trên cánh Nam của mặt trận Xô-Đức.

Về chính trị

Tại Hội nghị Tehran (1943), lễ trao tặng thanh gươm báu hiệp sĩ của Hoàng gia Anh tặng nhân dân Liên Xô để ghi nhận chiến thắng Stalingrad được cử hành trọng thể

Những gì xảy ra tại Stalingrad thực sự là một thảm họa đối với nước Đức. Lịch sử nước Đức chưa từng có sự đầu hàng của một đạo quân lớn như thế trên một mặt trận rộng như thế. Thảm họa quốc gia này gây nên những tổn thất lo lớn và có thể coi là một trong những thất bại nặng nề nhất đối với quân đội Đức Quốc xã. Các đồng minh của nước Đức với lực lượng yếu hơn đã không thể bảo vệ được hai bên sườn của Tập đoàn quân 6. Tất cả điều này đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Nhuệ khí của quân đội và tinh thần của người dân Đức đã giảm sút đáng kể. Do thất bại quân sự này của nước Đức mà cục diện quan hệ quốc tế cũng có những thay đổi rất nhanh. Các cường quốc phương Tây đã đổ bộ lên Bắc Phi và tại đây, họ cũng đạt được những kết quả to lớn. Việc hoạch định các hoạt động quân sự đã trở thành chương trình nghị sự trong cuộc gặp giữa Churchill và Roosevelt từ ngày 14 đến ngày 24 tháng 1 năm 1943 ở Casablanca cũng như Hội nghị Teheran mấy tháng sau đó.

Kết quả Trận Stalingrad mà Chiến dịch Cái Vòng đã đánh dấu chấm hết cho trận đánh ấy có một tác động ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý người dân Đức khi đó. Khi tang tóc đổ lên đầu hàng chục vạn gia đình người Đức, trong tâm trí người dân lúc đó và cho đến tất cả những người sống sót sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thảm kịch mang tên của thành phố trên sông Volga này như dường như một điềm gở báo trước một thảm họa cho họ với những âm hưởng kéo dài. Tia sét của sự sụp đổ tại Stalingrad đã chiếu một luồng ánh sáng mới vào bản chất chính trị, đạo đức và nền quân sự của chế độ Quốc xã. Nó làm bộc lộ bản chất vốn có của hệ thống chính trị kỳ quái mang tên "chủ nghĩa Hitler". Trong hệ thống này, những huyền thoại và truyền thuyết về sứ mệnh của một chủng tộc thượng đẳng và lãnh tụ của họ đã dẫn dắt dân tộc Đức đến một sự tự sát mù quáng.

Trên trường quốc tế, kết quả của Chiến dịch Cái Vòng được công bố rộng rãi đã củng cố vị thế của Liên Xô trong khối đồng minh chống phát xít. Nếu như chiến thắng của người Nga tại Poltava năm 1709 đánh dấu sự gia nhập của họ vào hệ thống quyền lực ở châu Âu thì Trận Stalingrad đánh dấu sự khởi đầu của một quá trình biến Liên Xô trở thành một trong hai cường quốc đứng đầu thế giới ở giai đoạn giữa thế kỷ 20.

Một năm sau ngày khởi đầu Trận Stalingrad, trong ngày khai mạc Hội nghị tam cường đồng minh Hoa Kỳ, Liên Xô và Anh tại Teheran, ngày 29 tháng 11 năm 1943, Thủ tướng Winston Churchill thừa ủy quyền của nhà vua nước Anh đã trao tặng đoàn đại biểu Liên Xô thanh kiếm báu của Hoàng gia Anh quốc có khắc dòng chữ:

Tại hội nghị này, các vấn đề về mở mặt trận thứ hai của Đồng minh được bàn thảo. Dự kiến mở mặt trận này tại bán đảo Balkan của thủ tướng Anh Winston Churchill đã bị phía Liên Xô bác bỏ. Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt ủng hộ Liên Xô về việc chuyển địa điểm đổ bộ đến Tây Bắc nước Pháp. Mặc dù biết rằng làm như thế thì toàn bộ vùng Đông và Trung Âu sẽ nằm dưới ảnh hưởng của người Nga nhưng Churchill vẫn phải chấp thuận vì phía Hoa Kỳ cũng không mặn mà lắm với phương án của Anh. Họ chú ý đến ảnh hưởng của mình đối với nước Pháp, nước Đức, nước Ý và toàn bộ Tây Âu hơn là vùng Đông Âu kém phát triển. Anthony Beevor cho rằng trận Stalingrad đánh dấu việc Liên Xô bắt đầu trở thành một siêu cường quốc. Trên dư luận quốc tế, nhiều nhà thơ, nhà điêu khắc, nhà văn đã dành nhiều công trình của họ để sáng tác riêng cho Stalingrad. Nhà thơ Chi Lê Pablo Neruda đã làm bài thơ "Khúc trữ tình cho Stalingrad" để ca ngợi chiến thắng này. Thế giới đánh giá cao những người bảo vệ thành phố Stalingrad đã đem lại niềm hi vọng cho nhân loại.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Cái Vòng** (_Операция Кольцо_) là một hoạt động quân sự chiến lược lớn của Quân đội Liên Xô chống lại Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Chiến dịch Donets** hay **Trận Kharkov lần thứ ba** là một chuỗi những chiến dịch phản công của quân đội Đức quốc xã nhằm vào Hồng quân Liên Xô tại gần khu vực Kharkov trong
**Chiến dịch Sao Thổ** (tiếng Nga: _Операция Сатурн_) là mật danh do Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô đặt cho cuộc tấn công quy mô lớn thứ hai của Chiến cục
**Chiến dịch Ngôi Sao** (Tiếng Nga: Oпераций «Звезда») là tên mã của **Chiến dịch Belgorod-Kharkov**, hoạt động quân sự lớn thứ ba do Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) tiến hành tại miền Trung nước
**Chiến dịch Bão Mùa đông** (Tiếng Đức: _Unternehmen Wintergewitter_) là một cuộc hành quân lớn tại phía Nam Mặt trận Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai do Cụm Tập đoàn quân Sông Đông
**Chiến dịch Ostrogozhsk–Rossosh** (_tiếng Nga: Острогожско-Россошанская операция_) là tên gọi chính thức trong lịch sử Liên Xô (trước đây) và Liên bang Nga (hiện nay) của cuộc tấn công mùa đông 1942-1943 tại khu vực
**Chiến dịch Sao Thiên Vương (Uranus)** (tiếng Nga: _Операция «Уран»_, phiên âm La Tinh: _Operatsiya Uran_; tiếng Đức: _Operation Uranus_) là mật danh của chiến dịch có tính chiến lược của Liên Xô thời gian
**Chiến dịch Kerch-Eltigen** là một chiến dịch đổ bộ đường biển do Hồng quân Liên Xô tổ chức, diễn ra trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Khởi sự ngày
**Chiến dịch tấn công Nevel** là một chiến dịch độc lập do cánh phải của Phương diện quân Kalinin tiến hành từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 10 năm 1943 tại thành phố Nevel
**Chiến dịch phòng thủ Mozdok–Malgobek** là hoạt động quân sự lớn của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz của quân đội Liên Xô chống lại cuộc tấn công của Cụm tập đoàn quân A (Đức) qua
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch Tunisia** (hay còn gọi là **Trận Tunisia**) là một loạt trận đánh diễn ra tại Tunisia trong Chiến dịch Bắc Phi thời chiến tranh Thế giới thứ hai, giữa các lực lượng Phe
**Chiến dịch Tia Lửa** (tiếng Nga: Операция Искра, _Operatsia Iskra_) là một chiến dịch quân sự diễn ra tại Mặt trận Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch do Hồng quân Liên
**Chiến dịch Smolensk** (7 tháng 8 năm 1943 – 2 tháng 10 năm 1943) hay còn gọi là **Trận Smolensk lần thứ hai** là một Chiến dịch tấn công chiến lược của Hồng quân Liên
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Chiến dịch Gorodok (1943)** là hoạt động quân sự quy mô lớn đầu tiên của Phương diện quân Pribaltic 1 (Liên Xô) kể từ khi nó được đổi tên từ Phương diện quân Kalinin ngày
**Chiến dịch Sa mạc Tây** hay **Chiến tranh Sa mạc** diễn ra tại Sa mạc Tây thuộc Ai Cập và Libya là giai đoạn đầu của Mặt trận Bắc Phi thuộc Chiến tranh thế giới
**Chiến dịch phản công Belgorod–Kharkov** là một chuỗi các hoạt động quân sự lớn do hai phương diện quân Voronezh và Thảo nguyên của Quân đội Liên Xô làm chủ lực, có sự hỗ trợ
**Chiến dịch đổ bộ đường không Rzhishchev-Bukrin** là một hoạt động quân sự nằm trong khuôn khổ Trận sông Dniepr. Ban đầu, chiến dịch này được coi là hoạt động tiền đề cho Trận Kiev
**Chiến dịch Voronezh–Kastornoye** (từ ngày 24 tháng 1 đến ngày 17 tháng 2 năm 1943) là một hoạt động quân sự chiến thuật của quân đội Liên Xô chống lại 10 sư đoàn Đức và
**Chiến dịch Kutuzov** là hoạt động quân sự lớn của Quân đội Liên Xô tại khu vực phía bắc vòng cung Kursk với trung tâm là thành phố Oryol tại khu vực trung tâm mặt
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**Chiến dịch Donbas** là một chiến dịch tấn công lớn của quân đội Liên Xô trong khuôn khổ chuỗi chiến dịch Dniepr. Trong khi các Phương diện quân Trung tâm đang hoàn tất Chiến dịch
**Chiến dịch Gomel–Rechitsa** là một trong hai hoạt động quân sự lớn đầu tiên của Phương diện quân Byelorussia (Liên Xô) được hình thành sau khi sáp nhập Phương diện quân Trung tâm và Phương
**Chiến dịch tấn công Spas–Demensk** là hoạt động quân sự mở đầu của Chiến dịch Smolensk (1943), diễn ra từ ngày 7 đến ngày 20 tháng 8 trên khu vực Sluena (???) - Dyuki (???)
**Chiến dịch Husky** là một cuộc xâm lược của phe đồng minh ở Sicilia, là một trong những chiến dịch lớn trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi phe Đồng Minh đã giành lại
**Chiến dịch Vitebsk–Orsha** là một trong ba chiến dịch mở màn cho các hoạt động tấn công lớn nhất năm 1944 của Quân đội Liên Xô trên Chiến trường Byelorussia, diễn ra từ ngày 23
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**Chiến dịch Chernigov-Poltava** là cuộc tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã tại giai đoạn đầu của Chiến dịch tấn công tả ngạn Ukraina trong Chiến
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
**Chiến dịch Market Garden** là một chiến dịch quân sự lớn của quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 17 tháng 9 năm 1944 tới ngày 25
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái
**Chiến dịch tấn công Bryansk** là chiến dịch tấn công lớn nhất của Phương diện quân Bryansk trong các hoạt động quân sự trên hướng Smolensk năm 1943 và là chiến dịch tấn công cuối
**Chiến dịch tấn công Dukhovshchina lần thứ nhất** là hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô trong khuôn khổ Chiến dịch Smolensk (1943) chống lại quân đội Đức Quốc xã. Diễn ra chỉ
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Chiến dịch hợp vây Korsun–Shevchenkovsky** còn được gọi là "Tiểu Stalingrad" hay "Stalingrad trên bờ sông Dniepr" là một chiến dịch lớn trong Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 24 tháng 1 đến 17
**Chiến dịch Demyansk** (_Демянская операция_) là tên của một chiến dịch quân sự do Liên Xô tổ chức trong Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 7 tháng 1 đến ngày 25 tháng 5 năm
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka** (6 tháng 3 - 18 tháng 3 năm 1944) là một chiến dịch tấn công cấp Phương diện quân thuộc các hoạt động quân sự tại hữu ngạn sông Dniepr
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani** hay _Chiến dịch tấn công Uman-Botoshany_ Chiến dịch này có quy mô lớn về binh lực của hai bên Liên Xô và Đức tại giai đoạn hai của các hoạt
**Chiến dịch Hailstone** (tiếng Nhật:トラック島空襲, _Torakku-tō Kūshū,_ tức _Không kích tại Đảo Truk_) là một chiến dịch không kích/bắn phá lớn của Hải quân Hoa Kỳ nhằm vào lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**Chiến dịch Debrecen** (6 tháng 10 - 28 tháng 10 năm 1944) là một chiến dịch tấn công do Hồng quân Liên Xô và quân đội România tổ chức nhằm tấn công quân đội Đức
**Chiến dịch Toropets–Kholm** là một chiến dịch phản công của Hồng quân Liên Xô diễn ra ở phía Nam Hồ Ilmen trong Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, kéo dài từ ngày 9 tháng
**Chiến dịch Polotsk** (29 tháng 6 - 4 tháng 7 năm 1944) là một chiến dịch quân sự diễn ra trong chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào