✨Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr

Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr

Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm 1944, là một chiến dịch tấn công chiến lược do các Phương diện quân Ukraina 1, 2, 3 và 4 cùng với cánh Nam của Phương diện quân Byelorussia 1 thực hiện, nhằm vào Cụm Tập đoàn quân Nam của Đức.

Chiến dịch này có quy mô lớn không kém Chiến dịch tả ngạn Ukraina. Nước Đức Quốc xã đã huy động tham gia khoảng 1.800.000 quân Đức và quân từ các nước đồng minh của họ. Quân đội Liên Xô cũng đưa đến mặt trận 2.086.000 quân. Với ưu thế chung 1,1/1 về quân số, 1,5/1 về pháo và súng cối, 1,5/1 về máy bay, chỉ thua kém chút ít về xe tăng trong giai đoạn đầu chiến dịch (1/1,1); Quân đội Liên Xô dự định sẽ đẩy quân Đức ra khỏi biên giới quốc gia năm 1941, lấy lại toàn bộ lãnh thổ của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukraina và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Moldavia đang bị phát xít Đức chiếm đóng. Trên cánh Bắc, Phương diện quân Ukraina 1 tiến ra biên giới Liên Xô - Ba Lan. Ở giữa mặt trận, Phương diện quân Ukraina 2 tiến ra chân núi Carpath, đến biên giới Liên Xô - Slovakia (Tiệp Khắc cũ). Ở hướng Tây Nam, Phương diện quân Ukraina 3 chiếm lại Moldavia, tiến đến biên giới Liên Xô - Romania. Ở cánh cực Nam, Phương diện quân Ukraina 4 dành phần lớn binh lực tiến ra hạ lưu sông Dniestr trên biên giới cũ năm 1939, dành một phần lực lượng phối hợp với Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải tiến hành Chiến dịch giải phóng Krym.

Kết thúc chiến dịch, Quân đội Liên Xô đã thu hồi phần lớn lãnh thổ Ukraina và Moldavia, tiến ra các khu vực biên giới với Ba Lan, Slovakia và România, tiêu diệt 18 sư đoàn và đánh thiệt hại nặng (tức tiêu diệt hơn 50% quân số) 68 sư đoàn Đức và Romania.. Ở phía Nam, các Tập đoàn quân cận vệ 2 và 51 (Phương diện quân Ukraina 4) đã phối hợp với Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải bao vây và tiêu diệt phần lớn Tập đoàn quân 17 Đức) tại Krym, giải phóng hoàn toàn bán đảo này.

Kết quả trực tiếp của chiến dịch không chỉ đem lại cho quân đội Đức Quốc xã những thiệt hại về người và vật chất mà quan trọng hơn là việc Đức Quốc xã đã mất nốt những vùng công nghiệp quan trọng cuối cùng ở Ukraina, mất các hầu hết các bến cảng lớn trên Biển Đen mà họ chiếm được ở Ukraina như Odessa, Nikolayev, Sevastopol. Vùng dầu mỏ Ploieşti, nơi sản xuất dầu mỏ lớn thứ hai của nước Đức Quốc xã (sau vùng Tây Bắc Hungary) bị đe dọa. Về quân sự, Cụm Tập đoàn quân Nam (Đức) bị cắt làm đôi. Cánh Bắc chuyển thành Cụm Tập đoàn quân Bắc Ukraina, cánh Nam chuyển thành Cụm Tập đoàn quân Nam Ukraina. Trong thế phòng ngự và bị chia cắt ở hậu tuyến bởi dãy núi Carpath, hai cụm tập đoàn quân này rất khó chi viện cho nhau bằng đường bộ.

Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr không những đã đưa chiến tranh đến gần biên giới các nước đồng minh của nước Đức Quốc xã mà còn đe dọa Quân đội Đức ở hướng trung tâm, hướng tiếp cận gần nhất với nước Đức Quốc xã. Do cánh phải của Phương diện quân Ukraina 1 và cánh trái của Phương diện quân Byelorussia 1 đã tiến ra biên giới với Ba Lan, sườn phải của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm (Đức) bị hở một đoạn rất dài dọc theo đầm lầy Pripiat đến phía Đông Kovel, tạo thành cái gọi là "ban công Byelorussia" mà chẳng bao lâu sau, sẽ trở thành chiến trường chính của mặt trận Xô-Đức trong các hoạt động quân sự mùa hè 1944 giữa Quân đội Liên Xô và Quân đội Đức Quốc xã.

Bối cảnh

Bối cảnh kinh tế - chính trị - quân sự

Bước sang năm 1944, nước Đức Quốc xã đứng trước nguy cơ phải đối đầu với nhiều mặt trận. Ở Bắc Phi, Tập đoàn quân 20 của Thống chế Erwin Rommel đã bị đánh bại hoàn toàn tại Chiến dịch Tunisia với những tổn thất rất lớn về người và phương tiện chiến tranh. Quân Đồng Minh quét sạch quân đội phe Trục phát xít ra khỏi Châu Phi, mở cuộc đổ bộ vào đảo Sicilia của Ý vào tháng 7 năm 1943. Đến đầu năm 1944, họ đã tác chiến trên lãnh thổ miền Nam nước Ý. Từ ngày 28 tháng 11 đến 1 tháng 12 năm 1943, lãnh đạo ba nước đồng minh chủ chốt chống phát xít Joseph Stalin (Liên Xô), Franklin D. Roosevelt (Hoa Kỳ) và Winston Churchill (Anh Quốc) họp tại Tehran, Iran đã nhất trí mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu sau tháng 3 năm 1944 và thiết lập mối quân hệ chặt chẽ hơn giữa quân đội các nước Đồng Minh. Sau những sự kiện đó, quân đội Đồng Minh Anh - Mỹ ráo riết xúc tiến việc chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên nước Pháp.

Ở Mặt trận phía Đông, Quân đội Đức Quốc xã đã mất vùng công nghiệp giàu có Donbas, bị đẩy lùi về biên giới Nga - Byelorussia và hữu ngạn sông Dniepr. Cuộc bao vây Leningrad cũng thất bại sau gần 900 ngày đêm, Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) bị đẩy ra khỏi lãnh thổ Nga. Quân đội Đức Quốc xã cũng phải rút khỏi Kiev và bị đánh bại trong trận phản công nhằm lấy lại thành phố quan trọng này. Ở phía Nam, họ cũng thất bại trong việc ngăn cản Quân đội Liên Xô đánh chiếm Dniepropetrosk và để xuất hiện hai bên sườn Cụm Tập đoàn quân Nam hai cụm bàn đạp hết sức quan trọng ở khu vực Kiev và khu vực Znamenka - Aleksandrya - Piatikhatka. Trong khi Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã tổ chức phòng ngự khá chặt chẽ ở phòng tuyến sông Berezina và thượng nguồn sông Dniepr thì nguy cơ Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) bị đột kích từ hai bên sườn đã thể hiện rõ ràng nhất.

Những thất bại liên tiếp trên chiến trường đã làm lay động các nước đồng minh châu Âu của nước Đức Quốc xã. Phong trào du kích chống lại sự chiếm đóng của phát xít Đức đã bùng lên tại Pháp, Ba Lan, Tiệp Khắc, Nam Tư, Na Uy, Bulgaria, Romania và ngay tại nước Ý, đồng minh thân cận của nước Đức Quốc xã. Hầu hết các đồng minh thân cận của nước Đức Quốc xã tại châu Âu (trừ Tây Ban Nha) đều gặp phải những biến cố chính trị. Các tổ chức cộng sản tại Hungary, Bulgaria, Romania, Tiệp Khắc, Nam Tư, Ba Lan, Albania, Phần Lan đều tăng cường các hoạt động chống phát xít, thậm chí, đã đẩy mạnh đấu tranh vũ trang như ở Bulgaria, Nam Tư, Tiệp Khắc và Albania. Tuy nhiên, nước Đức Quốc xã vẫn còn khá nhiều tiềm lực dự trữ và có thể huy động những nguồn lực rất lớn từ nền công nghiệp chiến tranh hiện đại của họ cùng với công sức của hơn 30 triệu lao động người Đức và hơn 7 triệu lao động khổ sai trong các trại Holocaust.

Tính đến tháng 1 năm 1944, nước Đức Quốc xã vẫn đang sở hữu một quân đội khổng lồ gồm 10.598.000 người (Lục quân: 7.255.000 người; Không quân: 2.149.000 người; Hải quân: 763.000 người; Lực lượng SS: 430.000 người). Trong đó có 6.906.000 quân thường trực (Lục quân: 4.399.000 người; Không quân: 1.612.000 người; Hải quân: 572.000 người; Lực lượng SS: 323.000 người); 3.692.000 quân dự bị động viên (Lục quân: 2.856.000 người; Không quân: 537.000 người; Hải quân: 191.000 người; Lực lượng SS: 107.000 người). Tài sản quân sự chủ yếu của lục quân Đức Quốc xã gồm 5.202 xe tăng, 4.333 pháo tự hành, 68.000 pháo và súng cối. Trong đó có 4.702 xe tăng, 4.280 pháo tự hành, 65.4000 pháo và súng cối được bố trí tại các đơn vị trên các mặt trận. Dự trữ chiến lược về phương tiện của lục quân Đức cũng còn đến 500 xe tăng, 53 pháo tự hành, 2.600 pháo và súng cối. Không quân Đức vẫn còn sở hữu 5.400 máy bay và hàng nghìn máy bay vận tải dân sự có thể huy động được trong tác chiến (chủ yếu dùng để ném bom) và vận tải quân sự. Đây là điều nguy hiểm trong chiến tranh tổng lực, khi các đối phương của họ (Liên Xô và các đồng minh chống phát xít) chú trọng vào tăng mạnh sản lượng hơn là đưa ra những thay đổi lớn về thiết kế, cấu tạo, tính năng mới để tránh làm xáo trộn dây chuyền sản xuất hiện có. Thậm chí, người Nga còn hi sinh sự tiện nghi của trang bị phục vụ người lính trên xe tăng để đối lấy giá rẻ, sức cơ động và tính năng chiến đấu cao. Ví dụ rõ rệt nhất là trường hợp của xe tăng T-34-85 được tiếp tục đẩy mạnh sản xuất trong khi kiểu T-43-85 bị hạn chế mặc dù có những ưu việt nhất định nhưng giá thành sản xuất cao hơn nhiều. Sản lượng máy bay chiến đấu của nước Đức cũng giảm sút, đặc biệt là máy bay tiêm kích, do nước Đức đã san sẻ tiền của và sức lao động để phát triển các loại máy bay mới Fw 190 A-7, Fw 190 G-8,Me-110 và Me-210. Các dự án Me-163, Me 262 và Me-264 cũng "ngốn" một số kinh phí, nguyên nhiên vật liệu và công lao động không nhỏ.

Sau 30 tháng chiến tranh, Liên Xô, đối thủ chính của nước Đức Quốc xã đã phục hồi hoàn toàn nền công nghiệp quốc phòng và tăng gấp bội sản lượng vũ khí, phương tiện cung cấp cho mặt trận. Từ 6 tháng cuối năm 1943 đến tháng 2 năm 1944, 1.523 nhà máy công nghiệp quốc phòng chủ chốt của Liên Xô đã cung cấp cho mặt trận hơn 29.000 xe tăng, khoảng 34.000 máy bay, trên 101.000 pháo và súng cối và đến 7,4 tỷ viên đạn các loại. Đầu năm 1944, Quân đội Liên Xô trên mặt trận Xô-Đức có 6.100.000 quân, 4.900 xe tăng và pháo tự hành, 8.500 máy bay chiến đấu, 91.000 pháo và súng cối. Với ưu thế 1,3/1 về người, 1,7/1 về pháo binh và 2/1 về không quân, Quân đội Liên Xô đã có thể tập trung binh lực và phương tiện tại mặt trận hữu ngạn Ukraina nhằm đánh tan Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) và tiêu diệt Tập đoàn quân 17 (Đức) đang bị cô lập tại Krym..

Tình huống mặt trận

Bản đồ các chiến dịch tấn công của Quân đội Xô Viết tại hữu ngạn Ukraina - 1944 Sau khi Chiến dịch Nizhni Dnieprovsk kết thúc vào cuối tháng 12 năm 1943, Quân đội Liên Xô đã thu hồi toàn bộ tả ngạn Ukraina, cắt đứt đường rút lui trên bộ và cô lập Tập đoàn quân số 17 (Đức) ở Krym với Cụm tập đoàn quân Nam (Đức). Không dừng lại bên tả ngạn, Quân đội Liên Xô đã đánh chiếm hai đầu cầu lớn rất quan trọng gồm khu vực Kiev - Fastov (ở cánh Bắc) và khu vực Znamenka - Piatikhatka ở phía Nam, sau đó mở rộng chúng thành hai bàn đạp chiến lược trên hữu ngạn sông Dnepr để tiến hành các cuộc tấn công lớn trong chiến dịch Dnepr—Carpath. Các chiến dịch tấn công cuối năm 1943 của quân đội Liên Xô trên hữu ngạn sông Dniepr đã "để lại" vài "chỗ lồi" trên ở trung lưu sông Dnepr. Trong đó có một chỗ lồi rất lớn ở Nam Kiev với trung tâm chính là thành phố Korsun nằm giữa các phương diện quân Ukraina 1 và 2, và một chỗ lồi nhỏ hơn ở khu vực Krivoy Rog - Nikopol.

Đây là hai khu vực tập trung binh lực rất lớn của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức), trong đó có Tập đoàn quân xe tăng 1 từng một thời tung hoành trên các cánh đồng lúa mì Nam Nga, Nam Ukraina và thảo nguyên Kuban. Chủ lực quân Đức trên khu vực này là 18 sư đoàn xe tăng và cơ giới, gần bằng số sư đoàn xe tăng và cơ giới trước trận vòng cung Kursk. Trong ba cụm tập đoàn quân chủ yếu của Quân đội Đức Quốc xã trên mặt trận Xô-Đức, Cụm tập đoàn quân Nam vẫn là cụm mạnh nhất do được biên chế gần 65% số xe tăng, 55% số pháo, cối và 45% số máy bay chiến đấu so với toàn bộ phương tiện của quân Đức trên mặt trận Xô-Đức.

Chính sách "cấm rút lui" của Adolf Hitler mà Hitler kiên trì từ sau Trận Stalingrad đã buộc quân Đức phải căng sức ra giữ các vị trí nguy hiểm, bất chấp sự phản đối của Erich von Manstein, Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Nam. Quân đội phát xít Đức cũng chịu một số bất lợi do Chỉ thị số 51 được Hitler ban hành mà không tính đến so sánh lực lượng trên Mặt trận phía Đông. Mặc dù trong chỉ thị này, ông ta cho phép các tướng lĩnh ở Mặt trận Xô-Đức được quyền tùy nghi tổ chức phòng thủ chủ động nhưng thực chất chỉ thị này gây bất lợi cho các tướng lĩnh Đức vì một phần binh lực đã bị điều sang Tây Âu nhằm phòng bị trước kế hoạch tấn công của Anh và Hoa Kỳ trên Tây Bắc châu Âu, trong đó có Sư đoàn xe tăng "Adof Hitler" và Sư đoàn xe tăng "Đế Chế" cùng toàn bộ cơ quan chỉ huy của Quân đoàn xe tăng 2 SS. Đồng thời Hitler khăng khăng yêu cầu các đơn vị của ông ta phải "bám trụ tại nơi họ chống giữ" vì theo ông ta, binh lực Quân đội Đức ở khu vực Ukraina vẫn còn rất mạnh. Hitler rất quan tâm đến việc căn cứ bàn đạp nhỏ nằm gần Krivoy Rog và Nikopol nhằm chia bớt lực lượng của quân đội Liên Xô, không cho họ tiến xuống phía Nam, để quân Đức giữ vững các cứ điểm ở bán đảo Krym; đồng thời ngăn chặn Quân đội Liên Xô dùng nơi này làm bàn đạp đánh chiếm các mỏ dầu ở Ploieşti, România. Hitler cho rằng, việc để mất Krym sẽ khiến Thổ Nhĩ Kỳ từ bỏ vị trí trung lập và gia nhập phe Đồng Minh. Nhưng do tập trung binh lực trên những hướng tấn công chính nên tại các địa đoạn đột phá của Quân đội Liên Xô, tỷ lệ so sánh đạt được đến 2/1 về người, 3/1 về xe tăng và đến 5/1 về pháo binh trong Chiến dịch Korsun–Shevchenkovsky và còn lớn hơn nữa trong Chiến dịch Proskurov–Chernovtsy.

Tuy địa hình ở hữu ngạn Ukraina cao hơn vùng tả ngạn nhưng vẫn khá bằng phẳng, thuận lợi cho việc cơ động xe tăng cơ giới và pháo binh, đặc biệt là các xe tăng hạng nặng. Duy chỉ có vùng hạ lưu các con sông Dniepr, Nam Bug và Dniestr tuy là đồng bằng nhưng có nhiều đầm lầy ở khu vực cửa sông. Ở giữa khu vực có những dải đồi dẫn đến phía Đông dãy núi Carpath, cũng là nơi mà Quân đội Đức đã tràn quân với tất cả thế mạnh của xe tăng, pháo binh và không quân hồi mùa hè năm 1941. Yếu tố chính trị-quân sự duy nhất thuận lợi cho quân Đức trong khu vực là sự tồn tại của các lực lượng ly khai ở Tây Ukraina của Mennik và Bandera. Từ tháng 6 năm 1941, lực lượng này đã chiến đấu chống lại Quân đội Liên Xô dưới sự chỉ huy của các sĩ quan SS, được cấp vũ khí, lương thực và quân phục Đức. Trong các chiến dịch của quân đội Liên Xô tiến hành tại hữu ngạn Dniepr, lực lượng này liên tục quấy rối phía sau lưng quân đội Liên Xô, tổ chức các hoạt động ám sát, bắt cóc, phá hoại. Quân đội Liên Xô phải điều đến đây các đơn vị SHMERS (lực lượng phản gián tiền phương) và các trung đoàn NKVD để bảo vệ hậu phương mặt trận.

Binh lực và kế hoạch của các bên

Quân đội Liên Xô

Binh lực

Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên Xô (STAVKA) sử dụng bốn Phương diện quân Ukraina và một phần Phương diện quân Byelorussia (từ ngày 24 tháng 2 năm 1944 đổi thành Phương diện quân Byelorussia 1) tham gia cuộc tấn công chiến lược ở hữu ngạn sông Dniepr; bố trí từ Bắc xuống Nam như sau:

Phương diện quân Byelorussia do Đại tướng K.K.Rokossovsky làm tư lệnh, sử dụng cánh trái làm nhiệm vụ tấn công ở sườn phía Bắc mặt trận từ khu vực Mozyr, Kalinovichi (Yurovicho) tiến dọc theo phía Nam Sông Pripyat đến Kovel. Các đơn vị tham gia tấn công gồm có: Tập đoàn quân 61 của trung tướng P. A. Belov. Trong biên chế có Quân đoàn bộ binh cận vệ 9; Quân đoàn bộ binh 89, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 7; Lữ đoàn xe tăng 68, các trung đoàn cơ giới 40, 59; 4 trung đoàn pháo binh và 1 trung đoàn súng cối. Tập đoàn quân 47 của trung tướng V. S. Polenov. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh 77, 125; các trung đoàn cơ giới 223, 230 259, 6 trung đoàn pháo xe kéo và 2 trung đoàn súng cối. *Tập đoàn quân 70 (được nâng cấp từ các sư đoàn NKVD) của trung tướng I. F. Nikolayev. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh 96, 114; ba tiểu đoàn bộ binh trực thuộc; 2 trung đoàn pháo xe kéo và 1 trung đoàn súng cối cận vệ. ::Từ ngày 24 tháng 2 đến ngày 4 tháng 4 năm 1944, cánh quân này đổi thành Phương diện quân Byelorussia 2 (thành lập lần thứ nhất) do thượng tướng P. A. Kurochkin chỉ huy.

Phương diện quân Ukraina 1 do Đại tướng N.F.Vatutin (đến ngày 29 tháng 2) và Nguyên soái G.K.Zhukov chỉ huy có nhiệm vụ tấn công chủ yếu từ khu vực Tây Kiev đến Rovno - Lutsk, Berdichev - Proskorov (nay là Khmelnitskyi) - Ternopol và Chernovitsy. Biên chế gồm có: Tập đoàn quân 13 của trung tướng N. P. Pukhov. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh 24, 28, 76, 77; Quân đoàn xe tăng 24, các lữ đoàn xe tăng độc lập 129, 150 và 6 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn 18 của trung tướng E. P. Zhuravlev (từ tháng 2 năm 1944). Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh 23, 52, 101; Lữ đoàn pháo tự hành cận vệ 12 và 6 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân 27 của trung tướng S. G. Trofimenko. Trong biên chế có Quân đoàn bộ binh 47; các sư đoàn bộ binh 206, 209, 337 và 7 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân 38 của thượng tướng K. S. Moskalenko. Trong biên chế có Quân đoàn bộ binh cận vệ 17, các quân đoàn bộ binh 21 và 74, các lữ đoàn pháo tự hành cận vệ 7, 9, 39 và 3 trung đoàn pháo xe kéo. Tập đoàn quân 40 của trung tướng F. F. Zhmachenko. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh 50, 51; Lữ đoàn độc lập Tiệp Khắc 1; Trung đoàn pháo tự hành độc lập 1812 và 9 trung đoàn pháo binh trực thuộc tập đoàn quân. Tập đoàn quân 60 của thượng tướng I. D. Chernyakhovsky (đến tháng 4 năm 1944) và thượng tướng P. A. Kurochkin. Trong biên chế có Quân đoàn bộ binh cận vệ 18; các quân đoàn bộ binh 15, 23, 30; trung đoàn pháo chống tăng tự hành 59; các lữ đoàn pháo tự hành 37, 49, 58 và 9 trung đoàn pháo xe kéo. Tập đoàn quân xe tăng 1 của trung tướng M. E. Katukov. Trong biên chế có các quân đoàn xe tăng cận vệ 8, 11; Quân đoàn cơ giới cận vệ 79; Lữ đoàn xe tăng cận vệ 64; Lữ đoàn pháo tự hành 81 và 2 trung đoàn pháo xe kéo. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 của thượng tướng P. S. Rybanko. Trong biên chế có các Quân đoàn xe tăng cận vệ 4, 6, 7; các lữ đoàn xe tăng cận vệ 36, 91; Lữ đoàn cơ giới cận vệ 4; các trung đoàn pháo tự hành cận vệ 50, 56, 59 và 467 *Tập đoàn quân không quân 2 của trung tướng S. A. Krasovsky. Trong biên chế có Sư đoàn không quân tiêm kích số 5 (2 trung đoàn); Sư đoàn không quân cường kích 5; Sư đoàn không quân ném bom 10; các trung đoàn máy bay ném bom 202 (ban đêm), 227, 291 (ban ngày), 208 (hỗn hợp); trung đoàn trinh sát đường không 50; Trung đoàn máy bay cứu thương số 4; các trung đoàn không quân vận tải 372, 385; các trung đoàn pháo phòng không 1554, 1555 và 1605 ::Trong giai đoạn 2 của chiến dịch, Phương diện quân Ukraina 1 được tăng viện Tập đoàn quân xe tăng 4 (lấy từ lực lượng dự bị chiến lược) của trung tướng D. D. Lelyushenko.

Phương diện quân Ukraina 2 do đại tướng I.S.Koniev chỉ huy, có nhiệm vụ sử dụng cánh phải phối hợp với cánh trái của Phương diện quân Ukraina 1 bao vây, tiêu diệt cụm quân Đức đóng tại khu vực Korsun-Shevchenkovsky, cánh trái tấn công đánh chiếm Kirovograd. Sau đó, phát triển về hướng Uman, Pervomaisk, Bălţi, Botoşani, tiến ra biên giới Liên Xô-Romania. Biên chế gồm có: Tập đoàn quân cận vệ 4 của trung tướng V. I. Galanin. Trong biên chế có các tập đoàn quân cận vệ 20, 21 và 4 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân cận vệ 5 của trung tướng A. S. Zhadov. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh cận vệ 32, 33, 35, Lữ đoàn cơ giới cận vệ 57 và 7 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân cận vệ 7 của trung tướng M. S. Sumilov. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh cận vệ 24, 25 và sư đoàn bộ binh cận vệ 303; Lữ đoàn xe tăng cận vệ 27; các trung đoàn pháo tự hành 34, 38 và 11 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân 37 của trung tướng M. N. Sharokhin. Trong biên chế có Quân đoàn bộ binh cận vệ 27, các quân đoàn bộ binh 57, 82; Lữ đoàn pháo tự hành 61 và 6 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân 52 của trung tướng K. A. Koroteev. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh 73, 78, sư đoàn bộ binh 294, Lữ đoàn xe tăng 173, các trung đoàn pháo tự hành 378, 379 và 6 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân 53 của trung tướng I. M. Managarov. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh 48, 57, sư đoàn bộ binh 63; Trung đoàn pháo tự hành 34 và 8 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân 57 của trung tướng N. A. Gagen. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh 49, 68, sư đoàn bộ binh 53, Lữ đoàn xe tăng 96 và 6 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 của tướng P. A. Rotmistrov. Trong biên chế có Quân đoàn xe tăng cận vệ 5, các quân đoàn xe tăng 18, 29, Lữ đoàn cơ giới cận vệ 1, Trung đoàn pháo tự hành cận vệ 53 và 4 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân không quân 5 của trung tướng S. K. Gryunov. Trong biên chế có Sư đoàn cường kích cận vệ 1; Sư đoàn tiêm kích 1; các sư đoàn ném bom 4, 7; các sư đoàn ném bom tầm xa 312, 511; Sư đoàn trinh sát 1001, Sư đoàn vận tải 714. Các đơn vị trực thuộc Phương diện quân: Quân đoàn xe tăng 1, Quân đoàn xe tăng 7, Quân đoàn xe tăng 20, Quân đoàn cơ giới 8, Sư đoàn pháo binh hạng nặng 109 và 2 trung đoàn pháo tự hành.

Phương diện quân Ukraina 3 do đại tướng R. Ya. Malinovsky chỉ huy; có nhiệm vụ phối hợp với cánh Bắc của Phương diện Ukraina 4 hợp vây, tiêu diệt một bộ phận Tập đoàn quân 6 (Đức) ở khu vực Krivoy Rog, sau đó, hợp vây Tập đoàn quân 3 Romania (tái lập) ở khu vực Nikolayev, đánh chiếm Odessa, Tiraspol và tiến ra tuyến biên giới dọc theo sông Dniestr. Biên chế gồm có: Tập đoàn quân 6 của trung tướng I. T. Shlemin. Trong biên chế có Quân đoàn bộ binh cận vệ 34, Quân đoàn bộ binh 66 và 7 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân cận vệ 8 của thượng tướng V. I. Chuikov. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh cận vệ 4, 28, 29; Lữ đoàn xe tăng 11; Lữ đoàn cơ giới cận vệ 10; các trung đoàn pháo tự hành 53, 911 và 8 trung đoàn pháo binh Tập đoàn quân 46 của trung tướng v. V. Glagolev. Trong biên chế có Quân đoàn bộ binh cận vệ 6, Quân đoàn bộ binh cận vệ 26, Các trung đoàn pháo tự hành cận vệ 4, 52, 187 và 9 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân không quân 17 của trung tướng V. A. Sudet. Trong biên chế có 2 sư đoàn tiêm kích, 3 sư đoàn cường kích, 2 sư đoàn ném bom, 1 sư đoàn trinh sát và 2 sư đoàn vận tải. *Các đơn vị trực thuộc Phương diện quân: Sư đoàn mô tô cơ giới 10, Quân đoàn xe tăng cận vệ 23, Lữ đoàn xe tăng cận vệ 1 và 8 trung đoàn pháo tự hành.

Phương diện quân Ukraina 4 do thượng tướng F. I. Tolbukhin chỉ huy, có nhiệm vụ sử dụng cánh Bắc phối hợp với Phương diện quân Ukraina 3 mở chiến dịch Krivoy Rog hợp vây Tập đoàn quân 6 (Đức) trong giai đoạn 2, phối hợp với Phương diện quân Ukraina 3 đánh tan Tập đoàn quân 3 Romania tái lập, đánh chiếm Nikolayev, Odessa và Tiraspol. Cánh Nam (gồm Tập đoàn quân cận vệ 2, Tập đoàn quân 51 và Quân đoàn xe tăng 19) phối hợp với Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải tiêu diệt Tập đoàn quân 17 (Đức) ở bán đảo Krym. Các đơn vị tham gia chiến dịch tấn công hữu ngạn Ukraina gồm có: Tập đoàn quân cận vệ 3 của trung tướng I. D. Ryabyshev. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh cận vệ 32, 37; Quân đoàn cơ giới cận vệ 4; Lữ đoàn xe tăng cận vệ 32; Trung đoàn cơ giới cận vệ 5; các trung đoàn pháo tự hành 52, 243 và 11 trung đoàn pháo binh. Riêng quân đoàn xe tăng 19 được điều động phối thuộc Tập đoàn quân 51 tham gia Chiến dịch Krym (1944). Tập đoàn quân xung kích 5 của trung tướng V. D. Tsvetayev. Trong biên chế có Quân đoàn bộ binh cận vệ 3, Quân đoàn bộ binh 64, Quân đoàn cơ giới cận vệ 14, Lữ đoàn xe tăng 238, Trung đoàn pháo tự hành 28 và 8 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân 28 của trung tướng A. A. Grechko. Trong biên chế có các quân đoàn bộ binh cận vệ 9, 10; Sư đoàn bộ binh 320, các trung đoàn pháo tự hành 34, 40 và 8 trung đoàn pháo binh. Tập đoàn quân không quân 8 của trung tướng T. T. Khryukin. Trong biên chế có 1 sư đoàn tiêm kích; 3 sư đoàn cường kích cận vệ; 4 sư đoàn ném bom 2, 8, 236, 406; 1 sư đoàn trinh sát 10 và 2 sư đoàn vận tải *Các lực lượng dự bị trực thuộc phương diện quân: Quân đoàn kỵ binh cận vệ 4, Quân đoàn cơ giới cận vê 2, các trung đoàn pháo tự hành cận vệ 22, 61; các lữ đoàn pháo tự hành 46, 54 và 11 trung đoàn pháo binh.

Hạm đội Biển Đen do Phó đô đốc L. A. Vladimirsky chỉ huy, sử dụng 3 tàu khu trục, 5 biên đội tàu phóng lôi và 4 tàu ngầm K-21 làm nhiệm vụ cô lập đường biển, không cho Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) rút quân từ Krym về tăng cường cho các hướng Nikolayev, Odessa và các vùng cửa sông Dniestr, Dnub.

Kế hoạch tấn công

Đại tướng [[Nikolai Fyodorovich Vatutin|N.F.Vatutin chỉ huy Phương diện quân Ukraina 1, đi kiểm tra tiền duyên]] Mục tiêu của Hồng quân Xô Viết là đập tan cái gọi là "Phòng tuyến phương Đông" do Cụm Tập đoàn quân Nam chống giữ, giải phóng toàn bộ lãnh thổ Ukraina. Kế hoạch tấn công ở hữu ngạn Ukrain được Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô vạch ra sau khi tập hợp các kế hoạch bộ phận của các Phương diện quân, gồm các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: :1. Mở rộng các bàn đạp tấn công tại khu vực Kiev đến Zhitomir, Berdichev, Kazatin, phía Tây Nam Belaya Cherkov và tại khu vực Znamenka đến Kirovograd và Kanizh. Đẩy cụm quân chủ lực của Tập đoàn quân Đức đang đóng ở mũi đất nhô Kanev vào thế bị hở hai bên sườn. :2. Phương diện quân Ukraina 1 sử dụng cánh phải, Phương diện quân Ukraina 2 sử dụng cánh trái, tổ chức tấn công hợp điểm tại Zvenigorodka, hợp vây và tiêu diệt chủ lực Tập đoàn quân 8 (Đức) tại khu vực Korsun-Shevchenkovsky. Tương tự như vậy, Phương diện quân Ukraina 3 và Phương diện quân Ukraina 4 tổ chức các đòn đánh đồng tâm hợp điểm, bao vây và tiêu diệt chủ lực Tập đoàn quân 6 (Đức) tại khu vực Kivoy Rog - Nikopol. :3. Đồng loạt tấn công trên các hướng, chia cắt chính diện Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) phát triển đến tuyến sông Nam Bug. :4. Các Phương diện quân Ukraina tiếp tục tiến công theo hướng Tây Nam và hướng Tây, phát triển đến sông Dniestr và tiếp cận vùng Galicia - Carpath.

Trong kế hoạch, I. V. Stalin đặc biệt lưu ý các Phương diện quân và các tập đoàn quân phải tiến công đồng đều, khép chặt các bên sườn chống lại các đòn phản đột kích của quân đội Đức Quốc xã.. Tại Hội nghị quân sự đầu năm của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tháng 12 năm 1943 bàn về Chiến cục mùa Đông 1943-1944, I. V. Stalin tuyên bố:

Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô cử Nguyên soái, Phó tổng tư lệnh tối cao G. K. Zhukov chỉ đạo phối hợp tác chiến của các Phương diện quân Byelorussia, Ukraina 1 và Ukraina 2. Đại tướng, Tổng tham mưu trưởng A. M. Vasilevsky phối hợp chỉ đạo tác chiến của các Phương diện quân Ukraina 3, Ukraina 4 và Tập đoàn quân độc lập Duyên Hải.

Quân đội Đức Quốc xã và đồng minh

Binh lực

Tập đoàn quân xe tăng 4 do thượng tướng Erhard Raus chỉ huy. Biên chế gồm có: Quân đoàn xe tăng 24 của tướng Walther Nehring, gồm các sư đoàn xe tăng 1, 7, 8; các sư đoàn bộ binh 10, 34, và 357. Quân đoàn xe tăng 48 của tướng Hermann Balck, gồm các sư đoàn xe tăng 11, 19, 20; các sư đoàn bộ binh SS ""Adolf Hitler" và "Das Reich". Quân đoàn xe tăng 42 của tướng Franz Mattenklott, gồm các sư đoàn xe tăng 13, 17; các sư đoàn bộ binh 153, 355, 381 và sư đoàn đổ bộ đường không 1. Quân đoàn bộ binh 13 của tướng Arthur Hauffe, gồm các sư đoàn bộ binh 68, 208, 340 và sư đoàn kỵ binh 18. *Quân đoàn bộ binh 59 của các tướng Kurt von der Chevallerie (đến ngày 4 tháng 2 năm 1944) và Friedrich Schulz, gồm các sư đoàn bộ binh 183, 217, 339 và 291.

Tập đoàn quân xe tăng 1 do thượng tướng Hans-Valentin Hube chỉ huy. Biên chế gồm có: Quân đoàn xe tăng 57 của các tướng Hans-Karl Freiherr von Esebeck (đến 19 tháng 2 năm 1944) và Friedrich Kirchner, gồm Sư đoàn cơ giới "Großdeutschland"; sư đoàn xe tăng 3 SS "Totenkopf"; Sư đoàn xe tăng 23; các sư đoàn bộ binh 15, 62 và 294. Quân đoàn xe tăng 46 của tướng Hans Gollnick (được chuyển từ Tập đoàn quân 2 sang vào tháng 2-1944) gồm các sư đoàn xe tăng 9, 16; các sư đoàn bộ binh 134, 253, 258 và Lữ đoàn 1 bộ binh SS. Quân đoàn xe tăng 3 của tướng Hermann Breith, gồm các sư đoàn xe tăng 3, 6, 10, 14; các sư đoàn bộ binh 168 và 367. Quân đoàn bộ binh 29 của tướng Erich Brandenberger, gồm các sư đoàn bộ binh 9, 97 và 335. *Quân đoàn bộ binh dự bị 62 của tướng Ferdinand Neuling, gồm các sư đoàn bộ binh 148 và 242.

Tập đoàn quân 8 do thượng tướng Otto Wöhler chỉ huy. Biên chế gồm có: Quân đoàn bộ binh 4 của tướng Max Pfeffer, gồm các sư đoàn bộ binh 3, 17, 79 và 111. Quân đoàn bộ binh 11 của tướng Wilhelm Stemmermann, gồm có Sư đoàn xe tăng 5 SS "Wiking", các sư đoàn bộ binh 57, 72 và 167. Quân đoàn bộ binh 30 của tướng Philipp Kleffel, gồm các sư đoàn bộ binh 46, 257, 304, 306 và 387. Quân đoàn bộ binh 52 do các tướng Erich Buschenhagen và Rudolf von Bünau lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 2, 76 và 384.

Tập đoàn quân 6 do thượng tướng Maximilian Fretter-Pico chỉ huy. Biên chế gồm có: Quân đoàn bộ binh 7 của tướng Ernst-Eberhard Hell, gồm các sư đoàn bộ binh 75, 88, 198 và 213. Quân đoàn bộ binh 17 của tướng Hans Kreysing, gồm các sư đoàn bộ binh 123, 125 và 302. *Quân đoàn bộ binh 44 của tướng Friedrich Köchling, gồm các sư đoàn bộ binh 4, 73, 153, 282.

Tập đoàn quân không quân 4 do trung tướng Otto Dessloch chỉ huy. Biên chế gồm có: Cụm không quân I hoạt động ở phía Bắc Ukraina gồm 3 trung đoàn tiêm kích, 4 trung đoàn cường kích, 1 trung đoàn ném bom và 2 phi đội trinh sát. Cụm không quân II hoạt động ở giữa mặt trận gồm 2 trung đoàn tiêm kích, 4 trung đoàn cường kích, 2 trung đoàn ném bom và 2 phi đội trinh sát. Cụm không quân IV hoạt động ở phía Nam Ukraina gồm 2 trung đoàn tiêm kích, 2 trung đoàn cường kích, 2 trung đoàn ném bom và 1 phi đội trinh sát. Cụm không quân VIII hoạt động ở Krym gồm 1 trung đoàn tiêm kích, 1 trung đoàn cường kích 1 trung đoàn ném bom và 1 trung đoàn trinh sát. Cụm không quân Romania hoạt động ở phía Nam mặt trận gồm 1 trung đoàn tiêm kích, 1 trung đoàn ném bom và 1 phi đội trinh sát. Các sư đoàn phòng không 1, 5 và 9.

Quân đội các nước chư hầu của Đức Tập đoàn quân Hungary gồm 4 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn cơ giới, trang bị vũ khí Đức. Tập đoàn quân 3 Romania gồm 6 sư đoàn bộ binh, trang bị vũ khí Đức và Romania. *Tập đoàn quân 4 Romania gồm 5 sư đoàn bộ binh và sư đoàn xe tăng "Nước Đại Romania" trang bị xe tăng Đức, vũ khí Đức và Romania.

Kế hoạch phòng thủ

Sau khi các phương diện quân Liên Xô đột phá vượt sông Dniepr và đánh chiếm nhiều bàn đạp quan trọng cũng như đánh chiếm hạ lưu sông Dniepr, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã không còn giữ được thế trận phòng thủ liên hoàn mặc dù trong tay còn đủ 5 Tập đoàn quân, trong đó có 2 tập đoàn quân xe tăng. Tập đoàn quân 17 (Đức) bị cô lập ở Krym chỉ còn đóng vai trò "kẻ tự cứu mình" hơn là tác động tích cực đến chiến sự ở hữu ngạn Ukraina cho dù nó đã thu hút về cửa ngõ Krym 2 tập đoàn quân mạnh của Phương diện quân Ukraina 4 (Liên Xô).

Sau khi bố trí lại, lực lượng xe tăng Đức gồm 2 Tập đoàn quân xe tăng được dồn vào phía Bắc với ý đồ chặn giữ cửa ngõ gần nhất từ mặt trận phía Đông đến biên giới nước Đức Quốc xã khi đó. Khu vực Zhitomir do Tập đoàn quân xe tăng 4 của thượng tướng Erhard Raus chỉ huy trấn thủ. Ngày 24 tháng 12 năm 1943, Tập đoàn quân xe tăng 1 do tướng Hans-Valentin Hube chỉ huy được điều từ phía nam lên trấn giữ trước căn cứ bàn đạp Cherkassy đối diện với Tập đoàn quân 53 (Liên Xô).

Ở phía Nam, Tập đoàn quân 8 do thượng tướng Otto Wöhler chỉ huy tổ chức phòng ngự tích cực trên hướng Kirovograd. Hồi cuối tháng 10 năm 1943, chính Tập đoàn quân này đã sử dụng 3 sư đoàn xe tăng phản kích vào mũi tấn công của Tập đoàn quân xe tăng 5 (Liên Xô), buộc các xe tăng Liên Xô phải rút lui 35 km về bên kia sông Ingulets. Nhưng các sư đoàn xe tăng Đức cũng chịu nhiều thiệt hại.

Tập đoàn quân 6 (mới tái lập sau chiến dịch Stalingrad) do thượng tướng Maximilian de Angelis chỉ huy phòng thủ ở chỗ lồi Krivoi Rog - Nikopol. Tập đoàn quân 3 Romania (cũng mới tái lập sau chiến dịch Stalingrad) do đại tướng (Romania) Petre Dumitrescu chỉ huy phòng thủ khu tam giác Tavridia (???) - Nikolayev - Kherson, chỉ cách phía bắc bán đảo Krym hơn 40 km trên vùng cửa sông Dniepr. Lực lượng dự bị của thống chế Erich von Manstein khá mỏng và có chất lượng thấp, chỉ có Tập đoàn quân Hungary số 1 (tái lập sau thảm họa ở Trung lưu sông Đông mùa thu năm 1943) gồm 5 sư đoàn người Hung đóng tại phía Tây Bắc Ukraina, trên vùng ngã ba biên giới Liên Xô - Tiệp Khắc và Hungary và Tập đoàn quân Romania số 4 vừa được thành lập vội vã, do trung tướng Ioan Mihail Racoviţă chỉ huy đóng ở khu vực Tiraspol - Jassy - Kishinev (thuộc Cộng hòa Xô Viết Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Moldavia). Cuối cùng thì sau khi cân nhắc, Hitler đã phải gửi đến tăng viện cho Cụm tập đoàn quân Nam các sư đoàn xe tăng 1, 7 và sư đoàn SS "Leibstandarte". Nhưng ngay lập tức, Erich von Manstein đã phải tuân thủ điều kiện sử dụng bắt buộc của Hitler, điều các sư đoàn này ra mặt trận Kiev - Zhitomir để trám vào những lỗ thủng do Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) để lại sau khi bị thiệt hại nặng trong các trận phản kích vào Kiev cuối tháng 11 năm 1943. Tập đoàn quân không quân số 4 phải rải hơn 1.500 máy bay trên khắp 29 sân bay từ Lutsk đến Odessa để yểm hộ phòng thủ cho 4 tập đoàn quân Đức trên tuyến đầu.

Diễn biến

Giai đoạn thứ nhất

Giai đoạn thứ nhất của chiến dịch kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 tới ngày 29 tháng 2 năm 1944, bao gồm các chiến dịch nhỏ sau:

Chiến dịch tấn công Zhitomir–Berdichev (24 tháng 12 năm 1943 - 14 tháng 1 năm 1944) Chiến dịch tấn công Rovno–Lutsk (27 tháng 1 năm 1944 - 11 tháng 2 năm 1944) *Chiến dịch tấn công Nikopol–Krivoi Rog (30 tháng 1 năm 1944 - 29 tháng 2 năm 1944)

Chiến dịch tấn công Zhitomir–Berdichev

Ngày 24 tháng 12 năm 1943, khi Chiến dịch Znamenka-Krivoy Rog của các Phương diện quân Ukraina 2 và 3 ở phía Nam vừa tạm dừng thì Đại tướng N. F. Vatutin phát động cuộc tấn công của Phương diện quân Ukraina 1 vào Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức). Các đòn tấn công chủ yếu xuất phát từ phía Tây và Tây Nam Kiev. Ở giữa mặt trận, Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân 18 có Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 mở đường tấn công dọc theo đường sắt nhằm hướng Zhitomir - Berdichev. Tập đoàn quân 38 có Tập đoàn quân xe tăng 1 đi trước cũng phát động tấn công dọc theo con đường sắt Fastov đi Kazatin, mở rộng cánh trái đánh chiếm Skvira và Pogrevichensky (Pogrebysche). Bên cánh phải, các tập đoàn quân 27 và 40 cũng đồng loạt tấn công theo hướng Belaya Cherkov và Volodarka. Trên cánh trái của mặt trận, Tập đoàn quân 60 tiến quân qua Novograd-Volynsky hướng đòn tấn công về Slavuta. Tập đoàn quân 13 cũng mở các mũi tấn công hướng về Rovno và Sarny.

Ngày 27 tháng 12 năm 1943, Erich von Manstein khẩn khoản xin phép Hitler cho được rút quân nhưng mệnh lệnh của Hitler vẫn là giữ nguyên vị trí chiếm đóng. Ngày 28 tháng 12, Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) mở các cuộc phản kích và đầu mối đường sắt Korostyshev và Radomyshl nhằm kéo Tập đoàn quân 60 và Tập đoàn quân cận vệ 1 lùi lại nhưng đòn phản kích quá yếu ớt, không ngăn cản được xe tăng Liên Xô tiến như vũ bão về phía trước. Ngày 29 tháng 12, Korostyshev được giải phóng và ngày 31 tháng 12, xe tăng Liên Xô đã lần thứ hai trong vòng hơn 1 tháng, lăn bánh trên đường phố Zhitomir. Sau đó, do tổ chức kém nên Tập đoàn quân xe tăng 1 phải rất vất vả mới chiếm được Berdichev ngày 3 tháng 1 năm 1943.

Quân đội Liên Xô đánh chiếm Berdichev, tháng 1-1944

Sau khi đánh chiếm Berdichev và Kazatin, Tập đoàn quân xe tăng 1 bứt khỏi Tập đoàn quân 38, tiến công dọc theo đường sắt Kazatin - Vinitsa, đánh chiếm Vinitsa và đột phá đến Zhmerinka. Tập đoàn quân 38 bị rớt lại sau. Phát hiện xe tăng Liên Xô tấn công đơn độc không có bộ binh đi kèm, ngày 5 tháng 1 năm 1944, tướng Hans-Valentin Hube tung Quân đoàn xe tăng 46 còn mới nguyên và Quân đoàn bộ binh 29 phản kích vào Zmerinka, buộc Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) phải lùi về Lipovets với tổn thất nặng. Theo thiếu tướng Ivan Ignachyevich Yakubovsky, chỉ huy trưởng Lữ đoàn xe tăng cận vệ 91 thì chỉ tính đến hết ngày 29 tháng 12 năm 1943, đã có 40.000 sĩ quan và binh lính Đức thiệt mạng và bị thương; khoảng 3.000 lính Đức bị bắt làm tù binh; 671 xe tăng, 300 xe bọc thép và pháo tự hành, 1.380 pháo và súng cối cùng 5.500 xe quân sự của Đức bị phá hủy

Ở phía Bắc, Tập đoàn quân 52 vừa giữ vững bàn đạp Cherkassy, vừa phối hợp với Tập đoàn quân cận vệ 4 mở mũi đột kích vào Kamenka. Đến ngày 11 tháng 1, Tập đoàn quân cận vệ 4 đã cắt đứt tuyến đường sắt nối Kirovograd với Smela và cô lập đầu mối đường sắt quan trọng này từ ba phía. Mũi tấn công của Tập đoàn quân 53 cũng phát triển nhanh chóng. Chỉ sau 2 ngày, Tập đoàn quân 53 đã đánh chiếm Kanizh, cô lập Kirovograd từ phía Bắc.. Trên hướng tấn công chính, Tập đoàn quân cận vệ 5 và Tập đoàn quân cận vệ 7 tạo thành hai gọng kìm khép chặt Kirovograd từ phía Bắc và phía Nam. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 yểm hộ Tập đoàn quân cận vệ 7 đã tạo thành một "bức tường thép" ở phía Nam Kirovograd, chặn đứng đòn phản kích của 2 quân đoàn bộ binh Đức vào Novgorodsk (Novgorodka), khép chặt sườn trái của Phương diện quân Ukraina 2 với Phương diện quân Ukraina 3.

Ngày 7 tháng 1, trong một cố gắng cuối cùng để cứu vãn tình hình tại Kirovograd, tướng Otto Wöhler tung Sư đoàn xe tăng 5 SS phản kích vào cánh trái của Tập đoàn quân cận vệ 7 tại Rybchino và Pokrovskoye trong khi chủ lực của Tập đoàn quân này đã dồn hết về phía trước. Tướng P. A. Rotmistrov điều trung đoàn pháo chống tăng 689 của đại tá J. S. Gushev từ đội dự bị của mình ra cản phá, ngăn chặn đòn đột kích này. Trung bình, cứ 3 xe tăng Đức mới đổi được một khẩu pháo của Trung đoàn 689. Không chịu nổi tổn thất, Sư đoàn xe tăng 5 SS phải chấm dứt phản kích. Ngày 8 tháng 1 năm 1944, Quân đội Liên Xô giải phóng thành phố Kirovograd.

Chiến dịch tấn công Rovno–Lutsk

Sau khi dừng lại ba ngày trên tuyến Sarny - Kostopol - Gosha (Goshcha) - Slavuta, ngày 27 tháng 1, cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 tiếp tục tiến công, tạo thế chia cắt Cụm tập đoàn quân Nam với Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức), đồng thời, mở rộng thêm bàn đạp để tiến xuống phía Nam, đánh vào sau lưng cánh Bắc của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đang tập trung tại Tây Nam Kiev và vẫn chưa từ bỏ ý định chiếm lại thành phố

Ngày 27 tháng 1, các Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và 6 đã bí mật, bất ngờ đột kích mà không có pháo binh bắn chuẩn bị. Sau khi vượt sông Goryn trong hành tiến, ngày 29 tháng 1, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 đã đột kích sâu đến 50 km, đánh chiếm Kivertsy, cắt đứt đường sắt Kovel - Rovno. Ngày 1 tháng 2, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 6 cũng đột kích qua Klevan và hội quân với các sư đoàn cánh phải của Tập đoàn quân 60 ở Dubno. Ngày 2 tháng 2, các thành phố Rovno và Lustk cùng được giải phóng.

Ở phía Nam, Tập đoàn quân 60 tấn công chậm hơn một ngày khi Quân đoàn bộ binh 13 (Đức) đã kéo bớt sư đoàn kỵ binh 18 và sư đoàn bộ binh 340 (Đức) lên chặn đường kỵ binh Liên Xô đang đột phá qua Lutsk đi Lvov. Ngày 11 tháng 2, Tập đoàn quân 60 đánh chiếm Shepetovka, Bologorye, Yampol, Shumskoye (Shumsk). Sau 16 ngày tấn công, cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 đã tạo được một "lỗ thủng" rất lớn sâu 30 dặm và rộng đến 110 dặm, tạo ra nguy cơ chia cắt hai Cụm tập đoàn quân lớn nhất của quân đội Đức Quốc xã trên mặt trận phía Đông. Ngày 11 tháng 1 năm 1943, kế hoạch tấn công của G. K. Zhukov, N. F. Vatutin và I. S. Konev được báo cáo lên Đại bản doanh và ngay hôm sau, ngày 12 tháng 1, Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô I. V. Stalin đã chuẩn y kế hoạch đó. Để hợp vây cụm quân Korsun-Shevchenkovsky của quân Đức, Quân đội Liên Xô huy động vào trận đánh 27 sư đoàn bộ binh, 4 quân đoàn xe tăng, 1 quân đoàn cơ giới; tổng cộng có 370 xe tăng cùng một số lượng lớn pháo binh, không quân và các phương tiện tăng cường. Ưu thế của Quân đội Liên Xô đạt được trên các hướng tấn công chính lên đến 1,7:1 về bộ binh, 2,4:1 về pháo và súng cối, 2,6:1 về xe tăng và pháo tự hành.

Mũi tấn công chính của chiến dịch nằm ở phía Nam của khu vực Korsun-Shevchenkovsky mở màn ngày 24 tháng 1 năm 1944. Sau một trận oanh kích dữ dội trên quy mô lớn bằng cả pháo binh và không quân, các Tập đoàn quân cận vệ 4 và Tập đoàn quân 53 của Phương diện quân Ukraina 2 tấn công vào phía Nam của chỗ lồi Korsun. Ngày hôm sau, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 có 218 xe tăng và 18 pháo tự hành được đưa vào cửa đột phá tại tại Kanizh để đẩy nhanh tốc độ đột phá về Shpola

Các đơn vị xe tăng Liên Xô chuẩn bị tấn công

Ngày 26 tháng 1 năm 1944, Phương diện quân Ukraina 1 tung Tập đoàn quân xe tăng 6 có hơn 150 xe tăng đột phá từ Đông Nam Stavishe (Stavyshche) về hướng Zvenigorodka. Ngày 28 tháng 1, Tập đoàn quân này đã đón gặp Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 tại thị trấn Zvenigorodka, khép lại vòng vây. Ngày 30 tháng 1, các tập đoàn quân 27, 52, 53 và cận vệ 4 (Liên Xô) tấn công theo sau xe tăng đã thiết lập được vòng vây tuyến ngoài từ Zhashkov qua Talnoye, Malyi Viska đến phía Nam Kanizh. Bên trong vòng vây là các đơn vị thuộc Sư đoàn xe tăng 23, Sư đoàn SS "Wiking", các sư đoàn bộ binh của Quân đoàn xe tăng 42 và Quân đoàn bộ binh 29 (Đức) tại khu vực Korsun-Shevchenkovsky - Boguslav - Smela, trong một "cái chảo" được mệnh danh là "Tiểu Stalingrad" hay còn gọi là "Stalingrad trên bờ sông Dniepr".. Tuy quân đội Liên Xô nhanh chóng bao vây 11 sư đoàn Đức tại đây nhưng việc thanh toán cụm quân này gặp nhiều khó khăn do bị cản trở nhiều bởi thời tiết tan băng sớm đầu năm 1944 khiến mặt đất trở nên hết sức lầy lội; cản trở việc triển khai và cơ động các lực lượng xe tăng, cơ giới, pháo binh cũng như các phương tiện nặng..

Ngày 8 tháng 2, Nguyên soái G. K. Zhukov, Đại tướng N. F. Vatutin và Đại tướng I. S. Konev cùng ký và gửi một tối hậu thư yêu cầu các đơn vị Đức Quốc xã bị vây phải đầu hàng.. Ngay sau đó, trong một trận bão tuyết, các sư đoàn bộ binh 57, 72, 88 và sư đoàn SS "Wiking" (Đức) trong "cái chảo" Korshun đã tìm cách chạy thoát thân nhưng đã bị chặn lại trên sông Gniloy Tikich. Cuộc phá vây một lần nữa thất bại, phần lớn số quân Đức tham gia phá vây bị tiêu diệt, trong đó có cả tướng Stemmermann. Chỉ có một số ít ỏi chạy thoát khỏi vòng vây. Trong số 73 nghìn quân bị "giam" tại "cái chảo" Korshun có 18 nghìn bị bắt, số còn lại phần lớn bị tiêu diệt.

Kết quả của Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky đã tạo ra một lỗ hổng lớn trên tuyến phòng ngự của quân Đức. Từ Zhmerinka đến Pervomaisk, Tập đoàn quân xe tăng 1, cánh Nam của Tập đoàn quân xe tăng 4 và cánh Bắc của Tập đoàn quân 8 (Đức) không chỉ cạn sạch lực lượng dự bị mà còn không đủ quân để phòng thủ trên một tuyến dài đến gần 500 km. Ngày 20 tháng 2, Thống chế Erich von Manstein ra lệnh thiết lập tuyến phòng thủ trên sông Nam Bug..

Chiến dịch tấn công Nikopol–Krivoi Rog

Di tích bức tường gạch ghi lại khẩu hiệu chào mừng Hồng quân Liên Xô giải phóng thành phố của Krivoi Rog từ tay quân đội Đức Quốc xã, 22 tháng 2 năm 1944

Trong khi 11 sư đoàn Đức đang khốn đốn trong vòng vây tại "Tiểu Stalingrad" bên bờ sông Dniepr thì ở cánh Nam của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức), nguy cơ một "cái chảo" như vậy đối với Tập đoàn quân 6 (Đức) và cánh Nam của Tập đoàn quân 8 (Đức) đã xuất hiện. Ngày 30 tháng 1 năm 1944, các Phương diện quân Ukraina 3 và 4 (Liên Xô) mở Chiến dịch tấn công Nikopol-Krivoy Rog. Chiến dịch này có quy mô còn lớn không kém Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky. Quân đội Liên Xô huy động 705.000 quân, Quân đội Đức Quốc xã có 540.000 quân, không kể quân chư hầu Romania.

Chiến dịch tấn công Nikopol–Krivoi Rog mở màn khi Tập đoàn quân cận vệ 8 và Tập đoàn quân 46 (Phương diện quân Ukraina 3) giáng đòn đột kích chủ yếu vào điểm giữa Nikopol và Krivoy Rog. Các cuộc tấn công diễn ra trong điều kiện thời tiết rất xấu. Mây thấp và mưa phùn khiến không quân của cả hai bên đều án binh bất động tại các sân bay. Pháo binh hoạt động không mấy hiệu quả vì tầm nhìn bị hạn chế đáng kể. Do đó, tốc độ tấn công trong mấy ngày đầu rất chậm Ngày 31 tháng 1, Tập đoàn quân cận vệ 3 mở mũi đột kích vào trực diện vào Nikopol sau khi vượt sông Dniepr trong hành tiến. Tập đoàn quân xung kích 5 và Tập đoàn quân 28 đột phá về phía Tây, đánh chiếm Blakitnoye. Ngày 3 tháng 2, Tập đoàn quân 28 đánh chiếm Kirovsk (???) và Novo-Ivanovka (???). Đường rút lui của Tập đoàn quân 6 (Đức) về Nikolayev đã bị Quân đội Liên Xô kiểm soát. Ngày 5 tháng 2, Tập đoàn quân cận vệ 8 đánh chiếm Mikhailovka, Kamyanka và đầu mối đường sắt Apostolovo, cắt đứt liên lạc trên bộ giữa Nikopol và Krivoy Rog. Ngày 6 tháng 2, Tập đoàn quân 37 đột kích qua phía Bắc Krivoy Rog đến tuyến sông Ingulets. Ngày 8 tháng 2, con đường bộ để trốn thoát cuối cùng của quân Đức tại làng Bolsaya Lepatikha đã bị Tập đoàn quân 6 (Liên Xô) cắt đứt. 3 sư đoàn bộ binh Đức lọt vào vòng vây quanh hai khu vực Blakitnoye và Shirokoye . Cùng ngày, Tập đoàn quân cận vệ 3 giải phóng Nikopol.

Ngày 12 tháng 2, tướng Maximilian Fretter-Pico huy động Quân đoàn bộ binh 44 còn nằm ngoài vòng vây và 3 sư đoàn Romania tổ chức phản kích vào nhà ga Tseykovka (???) và thị trấn Shirokoye để giải thoát cho cụm quân Đức bị vây ở Krivoy Rog. Đại tướng R. Ya. Malinovsky hạ lệnh cho thượng tướng V. I. Chuikov để lại khu vực Krivoy Rog cho Tập đoàn quân 46 giải quyết, cấp tốc điều Quân đoàn bộ binh 29, Lữ đoàn xe tăng 11, Lữ đoàn cơ giới cận vệ 10 và trung đoàn pháo tự hành 53 ra chặn đòn phản kích của quân Đức tại Shirokoye, chặn đứng các cuộc tấn công vượt sông Ingulets của 6 sư đoàn bộ binh Đức và Romania.

Ngày 29 tháng 2, Chiến dịch Nikopol-Krivoy Rog kết thúc. Quân đội Liên Xô xóa bỏ chỗ lồi xung quanh Krivoi Rog, Nikopol và thu hẹp đáng kể chính diện mặt trận. Quân đội Đức Quốc xã bị mất hơn 40.000 người chết và bị thương, 4.600 người bị bắt làm tù binh.. Tuy nhiên, những phán đoán đó hoàn toàn không có cơ sở. Trên thực tế, Quân đội Liên Xô đang bí mật tổ chức một đợt tấn công quy mô còn lớn hơn nữa với việc huy động toàn bộ 6 tập đoàn quân xe tăng của họ đang có mặt tại Ukraina tham gia các chiến dịch. Trên mặt trận phía Tây Kiev và vùng Polesia, Quân đội Liên Xô có khoảng 800.000 người, 11.900 pháo và súng cối, 1.400 xe tăng, 477 máy bay chiến đấu. Quân đội Đức Quốc xã có khoảng 500.000 người, 5.530 pháo và súng cối, 1.100 xe tăng và 480 máy bay chiến đấu.. Quân đội Liên Xô dự kiến sẽ tạo nên hai gọng kìm bằng xe tăng kẹp chặt Tập đoàn quân xe tăng 1, một phần Tập đoàn quân 8 và cánh Nam của Tập đoàn quân xe tăng 4 vào giữa; hinh thành một "cái chảo" ở khu vực Vinitsa, Proskurov, Kamenets Podolsky còn lớn hơn hai "cái chảo" Korsun-Shevchenkovsky và Nikopol-Krivoy Rog cộng lại. Kế hoạch nghi binh của Hồng quân đã thành công và phát xít Đức hoàn toàn bị bất ngờ khi vào ngày 4 tháng 3 năm 1944 Phương diện quân Ukraina 1 chuyển sang tấn công sau một đợt pháo kích dữ dội, mở màn chiến dịch Proskurov–Chernovtsy.

Sơ đồ vòng vây mà Quân đội Liên Xô tạo ra ở khu vực Kamenets Podolsky - Dunayevtsy trong chiến dịch Proskurov - Chernovtsy

Ngay sát trước chiến dịch, Quân đội Liên Xô chịu một tổn thất nặng nề về sinh lực cao cấp. Ngày 28 tháng 2 năm 1944, trên đường đi thị sát mặt trận của Tập đoàn quân 60 cùng với Nikita Khrushev, khi đi qua khu vực Goshchansky Ostrog, đại tướng N.F.Vatutin, tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 bị các lực lượng li khai Ukraina của Bandera (UPA) bắn trọng thương. Ông được đưa về Kiev điều trị. Ngày 5 tháng 4 năm 1944, N. F. Vatutin qua đời tại Quân y viện Kiev. Nguyên soái G.K.Zhukov được chỉ định làm tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 và vẫn là Phó Tổng tư lệnh tối cao.

Khởi đầu chiến dịch, Tập đoàn quân 60 và Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô) triển khai đột phá tuyến phòng ngự Shumskoys - Yampol - Lyubar của Quân đội Đức Quốc xã. Sáng ngày 5 tháng 3 khi khu vực cửa mở tại Yampol và Iziaslav đã rộng ra đến 5 km và sâu 2 km, Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân xe tăng 3 lập tức được đưa vào để khoét sâu lỗ đột phá. Đến ngày 7 tháng 3, hai tập đoàn quân xe tăng này đã vượt lên trước hơn 40 km, cắt đứt tuyến đường sắt Proskurov - Tarnopol ở Volochisk và Ostrobsk. Theo sau họ là Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân 60. Cảm thấy mối đe dọa từ phía sau lưng, tướng Walter Model lập tức tung ra 9 sư đoàn xe tăng và 6 sư đoàn bộ binh phản kích vào Ostrov, Chernyi (???), Zhmerinka nhưng vẫn không thể ngăn cản được đòn đột kích của xe tăng Liên Xô. Sở chỉ huy Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina buộc phải rời về Tarnopol. Ngày 12 tháng 3, để tăng tốc độ và mở rộng chính diện tấn công, Tập đoàn quân xe tăng 1 từ thê đội 2 được điều động vượt lên trước Tập đoàn quân cận vệ 1 và tiến nhanh theo hướng Chernovtsy. Tận dụng đòn đột phá của Tập đoàn quân xe tăng 1, Tập đoàn quân 60 bẻ hướng về phía Tây, tấn công Tarnopol. Tướng Model lại một lần nữa phải rời Sở chỉ huy của mình về Lvov.

Ở giữa mặt trận, ngày 16 tháng 3, Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) đột phá qua Starokonstantinov về Proskurov. Tập đoàn quân 38 cũng tấn công qua Khmelnik, đánh chiếm Vinitsa ngày 20 tháng 3, vượt sông Nam Bug, cắt đứt tuyến đường sắt Proskurov - Odessa tại Zhmerinka. Tướng Hans-Valentin Hube điều 2 sư đoàn xe tăng của Quân đoàn xe tăng 3 và Quân đoàn bộ binh dự bị 62 phản kích vào Starokonstantinov nhưng chỉ giữ được 3 ngày. Ngày 23 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 101 của Tập đoàn quân 18 đã có mặt ở cửa ngõ Proskurov. Ở cánh Bắc, ngày 1 tháng 3, các Tập đoàn quân 47, 69 và 70 của Phương diện quân Byelorussia 2 mở chiến dịch Kovel. Ngày 3 tháng 3, tập đoàn quân 13 cũng phát động tấn công về hướng Sokal. Các cuộc tấn công này đã giam chân chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) tại khu vực này, khiến cho họ không thể ứng cứu kịp thời cho Tập đoàn quân xe tăng 1 đang bị nửa hợp vây tại phía Bắc Kamenets - Podolsky.

Ở phía Nam, ngày 5 tháng 3, Phương diện quân Ukraina 2 cũng phát động chiến dịch Uman–Botoşani. Cánh Bắc của chiến dịch gồm các tập đoàn quân xe tăng 2, 6 và cận vệ 5, các tập đoàn quân binh chủng hợp thành 27, 40 và cận vệ 4 tấn công song song trên chính diện hơn 150 km, tràn qua Uman, Khristinovka, Gaysin, Ternovka (???) dọc theo con đường sắt Uman - Vapniarka, đánh vào sau lưng các cánh quân xe tăng Đức đang phản kích vào sườn trái các Tập đoàn quân 18 và 38 (Liên Xô). Tướng Hans-Valentin Hube định lập phòng tuyến mới trên sông Nam Bug nhưng gần như ngay lập tức phải từ bỏ ý định đó vì ngày 21 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 6 (Liên Xô) đã có mặt ở Vapniarka, còn Tập đoàn quân xe tăng 2 (Liên Xô) đã tiến ra tả ngạn sông Dniestr.

Ngày 24 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) đánh chiếm thị trấn Chertkov. Còn Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 của tập đoàn quân này phát triển qua thượng nguồn sông Dniestr, lần lượt đánh chiếm Tolstoye, Borshev và Zaleshika (???). Ngày 28 tháng 3, Lữ đoàn xe tăng 64 đánh chiếm nhà ga-ngã ba đường sắt Mosa (???), thu giữ 5 đoàn tàu hỏa Đức đang bốc dỡ xe tăng và đạn dược. Ngày 28 tháng 3, Lữ đoàn cơ giới 20 (Liên Xô) đột nhập sân bay Chernovtsy, bắt giữ hàng chục máy bay Đức chưa kịp cất cánh. Ngày 29 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 11 đã làm chủ thành phố biên giới Chernovtsy.

Ở phía Đông Tập đoàn quân xe tăng 1, Tập đoàn quân xe tăng 4 cũng tiến quân qua Gusyatin, Balin, Orinin và có mặt ở Khotin ngày 31 tháng 3. Tại đây, Lữ đoàn xe tăng 44 của họ đã gặp Tập đoàn quân 40 trên bờ sông Nam Bug. Ở bên trong, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 đã giao chiến trực diện với chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) trước cửa ngõ Kamenets Podolsky trên khu vực Dunayvtsy - Lyantskorun (???) - Monovaro. Bên trong vòng vây là 21 sư đoàn Đức thuộc Tập đoàn quân xe tăng 1 và một số sư đoàn thuộc Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 8, trong đó có 10 sư đoàn xe tăng và cơ giới. Tuy nhiên, khoảng cách giữa vòng vây bên trong và vòng vây bên ngoài của Quân đội Liên Xô khá mỏng, nơi dày nhất chỉ 50 km, nơi hẹp nhất ở Chertkov - Buchach không quá 25 km.

Quân đội Liên Xô sau một tháng tấn công liên tục cũng bị kiệt sức. Ngày 1 tháng 4, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 chỉ còn lại hơn 80 xe tăng đã bị rút khỏi chiến trường về lực lượng dự bị để củng cố lại binh lực

Ngày 9 tháng 4, Sư đoàn xe tăng 10, sư đoàn xe tăng 5 SS "Khonstaufen" và sư đoàn SS "Leibstandarte" cùng các sư đoàn bộ binh 100 và 361 thuộc Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) mở cuộc tấn công từ Kamenets Podolsky vào Balin và phát triển đến Chertkov. Chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) đang sửa soạn cuộc tấn công cuối cùng vào Kamenets Podolsky đã phải vội vã quay ra yểm hộ cho Tập đoàn quân cận vệ 1 nhưng không kịp. Ngày 10 tháng 4, Tập đoàn quân cận vệ 1 bị đánh bật khỏi Chertkov về phía Bắc. Quân đoàn kỵ binh cận vệ 18 của nó cũng phải bỏ dở cuộc đột kích vào Marympol (???) và bị đẩy lùi về Zeleshika (???). Ở phía Bắc, Tập đoàn quân 60 khi triển khai tấn công Podgaitsy cũng bị phản đột kích vào sườn phải và buộc phải rút lui khỏi Tarnopol. Theo sau Quân đoàn xe tăng 3 (Đức), lực lượng còn sống sót của các quân đoàn xe tăng 24 và 46 và Quân đoàn bộ binh 59 (Đức) cũng đột phá về phía Tây và chỉ mang theo xe tải, xe con, súng cối và vũ khí nhẹ, bỏ lại tất cả xe tăng, xe bọc thép, pháo, xe kéo và các trang bị nặng khác và tướng Hube đã đột kích phá vây sang phía Tây thay vì phía Nam như các tướng lĩnh Liên Xô dự kiến. Đến ngày 10 tháng 4 quân của Hube đã hội quân với Tập đoàn quân xe tăng 4. Bất chấp thành công nhỏ này, Hi

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch tấn công Nikopol–Krivoi Rog** là một trong ba trận hợp vây lớn trong Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr thuộc Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 30 tháng 1 đến 29
**Chiến dịch tấn công Kirovograd** là cuộc tấn công lớn đầu năm 1944 của Phương diện quân Ukraina 2 (Liên Xô) do đại tướng I. S. Konev chỉ huy chống lại các đơn vị thuộc
**Chiến dịch tấn công Zhitomir–Berdichev** () là một cuộc tấn công chiến lược của Hồng quân Liên Xô nhằm vào quân đội phát xít Đức ở bờ hữu ngạn sông Dniepr, phía Tây, Tây Nam
**Chiến dịch tấn công Polesia** là một trận đánh giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức quốc xã diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Các lực
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Chiến dịch tấn công Bereznegovatoye–Snigirevka** (6 tháng 3 - 18 tháng 3 năm 1944) là một chiến dịch tấn công cấp Phương diện quân thuộc các hoạt động quân sự tại hữu ngạn sông Dniepr
**Chiến dịch tấn công Odessa** (26 tháng 3 - 14 tháng 4 năm 1944) là một trong các chiến dịch quân sự cuối cùng giữa Quân đội Liên Xô và Quân đội Đức Quốc xã
**Chiến dịch tấn công Rovno–Lutsk** là một chiến dịch nhỏ do cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 (Liên Xô) thực hiện từ ngày 27 tháng 1 đến ngày 11 tháng 2 năm 1944
**Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani** hay _Chiến dịch tấn công Uman-Botoshany_ Chiến dịch này có quy mô lớn về binh lực của hai bên Liên Xô và Đức tại giai đoạn hai của các hoạt
**Chiến dịch hợp vây Korsun–Shevchenkovsky** còn được gọi là "Tiểu Stalingrad" hay "Stalingrad trên bờ sông Dniepr" là một chiến dịch lớn trong Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 24 tháng 1 đến 17
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Chiến dịch Bobruysk** là một trong ba chiến dịch mở màn cho các hoạt động tấn công lớn nhất năm 1944 của Quân đội Liên Xô trên chiến trường Byelorussia, diễn ra từ ngày 23
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Chiến dịch tiến công theo hướng Chernigov-Pripyat** là một phần của Cuộc chiến trên vùng sông Dniepr vào giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai trên Mặt trận Xô-Đức. Diễn ra từ
**Chiến dịch Znamenka-Krivoy Rog** là một chiến dịch đệm của Quân đội Liên Xô giữa các Chiến dịch giải phóng Ukraina bên tả ngạn và Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr, kéo dài hơn
**Chiến dịch Neptune** (mã hiệu: **Halcyon**), là mật danh của **cuộc đổ bộ vào Normandie**, chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp với đường hàng không của quân đội Đồng Minh ở Chiến dịch
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Chiến dịch Chernigov-Poltava** là cuộc tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã tại giai đoạn đầu của Chiến dịch tấn công tả ngạn Ukraina trong Chiến
**Chiến dịch Donbas** là một chiến dịch tấn công lớn của quân đội Liên Xô trong khuôn khổ chuỗi chiến dịch Dniepr. Trong khi các Phương diện quân Trung tâm đang hoàn tất Chiến dịch
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch Smolensk** (7 tháng 8 năm 1943 – 2 tháng 10 năm 1943) hay còn gọi là **Trận Smolensk lần thứ hai** là một Chiến dịch tấn công chiến lược của Hồng quân Liên
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Chiến dịch Gorodok (1943)** là hoạt động quân sự quy mô lớn đầu tiên của Phương diện quân Pribaltic 1 (Liên Xô) kể từ khi nó được đổi tên từ Phương diện quân Kalinin ngày
**Chiến dịch giải phóng Taman** là hoạt động quân sự lớn cuối cùng của quân đội Liên Xô trong toàn bộ chiến dịch Kavkaz diễn ra từ ngày 10 tháng 9 đến ngày 9 tháng
**Chiến dịch đổ bộ đường không Rzhishchev-Bukrin** là một hoạt động quân sự nằm trong khuôn khổ Trận sông Dniepr. Ban đầu, chiến dịch này được coi là hoạt động tiền đề cho Trận Kiev
**Chiến dịch Nizhni Dnieprovsk** (còn gọi là _Chiến dịch Hạ Dniepr_) là hoạt động quân sự lớn do Phương diện quân Ukraina 4 (Liên Xô) tiến hành chống lại Tập đoàn quân 6 (tái lập)
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
**Trận Kiev (1943)** là một trong các trận đánh quan trọng nhất của chuỗi Chiến dịch Tả ngạn sông Dniepr. Từ ngày 24 tháng 9 đến ngày 24 tháng 12 năm 1943, trên toàn bộ
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Phương diện quân Belorussia 1** (tiếng Nga: _1-й Белорусский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Đây được xem là phương diện quân