✨Chiến dịch Blau
Chiến dịch Blau (tiếng Đức: Fall Blau) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, (blau có nghĩa là "xanh" trong tiếng Đức). Ban đầu tên dự định của chiến dịch này là Siegfried, đặt theo tên của một người anh hùng trong thần thoại German. Tuy nhiên Adolf Hitler nhớ đến chiến dịch tấn công trước đó với cái tên hoành tráng, chiến dịch Barbarossa (tên của một hoàng đế nổi tiếng của Đức thế kỉ 12), với kết quả không như mong đợi của nó nên đã đặt một cái tên vừa phải hơn là Blau. Do đó "Chiến dịch Blau" thực chất là tổ hợp các chiến dịch mang tên Blau.
Trong lịch sử quân sự Liên Xô (trước đây) và Nga (hiện nay), nó còn được biết đến với tên gọi Chiến cục 1942 - 1943. Đây là một tổ hợp hoạt động quân sự rất lớn gồm hàng loạt chiến dịch song song và nối tiếp nhau tương tự như Chiến dịch Barbarossa một năm trước đó. Bắt đầu ngày 28 tháng 6 năm 1942 bằng Chiến dịch Voronezh, với thất bại cực kỳ nặng nề ngày 2 tháng 2 năm 1943 tại Trận Stalingrad và kết thúc bằng việc tạm giành được quyền chủ động mong manh trước Trận Kursk, Chiến dịch Blau thể hiện tham vọng rất lớn của nước Đức Quốc xã trong những cố gắng tiêu diệt nhà nước Xô Viết, đối thủ lớn nhất của nước Đức tại châu Âu; qua đó làm thất bại những nỗ lực tiếp tục chiến tranh của Liên Xô, đánh chiếm nốt phần phía đông còn lại của vùng công nghiệp Donbass và vựa lúa mỳ lớn nhất của Liên Xô khi đó ở hạ lưu hai con sông Đông và Volga, cắt đứt và đánh chiếm nguồn dầu mỏ quan trọng của Liên Xô tại Kavkaz, tiến ra Trung - Cận Đông và xa hơn nữa, đến Ấn Độ, thực hiện mưu đồ bá chủ toàn cầu của nước Đức Quốc xã cùng các đồng minh của nó là Nhật Bản và Ý tại các châu lục của "cựu thế giới".
Tổng quan
Tổ hợp các chiến dịch trong kế hoạch Blau diễn ra trên một không gian rộng lớn có diện tích lên đến hàng triệu km². Từ Bắc xuống Nam, nó trải dài trên 3000 km từ phía nam Oryol đến sườn phía bắc của dãy núi Kavkaz. Từ Tây sang Đông, nó có chiều sâu đến hơn 500 km từ bờ Tây sông Bắc Donets đến bờ Tây Sông Volga tại Stalingrad và xa hơn về phía đông nam, chỉ còn cách bờ biển Caspi gần 300 km. Trên vùng đất rộng lớn này đã diễn ra hơn 10 chiến dịch lớn do cả hai bên phát động nhằm giành giật khu vực địa-quân sự, địa-kinh tế có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng của mặt trận Xô-Đức. Tổ hợp hoạt động quân sự khổng lồ này gồm hai giai đoạn chính: Giai đoạn từ 28 tháng 6 đến 19 tháng 11 năm 1942, quân đội Đức Quốc xã tấn công; giai đoạn 2 từ 19 tháng 11 năm 1942, quân đội Liên Xô phản công và kết liễu Tập đoàn quân 6 (Đức) bằng Chiến dịch Cái Vòng; sau đó mở một loạt chiến dịch tổng phản công mùa Đông 1942-1943 và đến hết tháng 3 năm 1943, phải rút lui trên hướng Kharkov - Belgorod. Ngay sát trước giai đoạn đầu có chiến dịch đệm Barvenkovo-Lozovaya, tuy không nằm trong Kế hoạch Blau nhưng trên thực tế, nó được coi như khúc dạo đầu của chiến cục này. Ngay sau chiến cục này là các hoạt động tấn công của quân đội Liên Xô và cuộc phản công của quân đội Đức Quốc xã vào mùa xuân năm 1943 tại thảo nguyên Donets được gọi là Chiến dịch Donets như một dấu gạch nối quan trọng với Chiến dịch Kursk (người Đức gọi là Chiến dịch Citadel).
Theo kế hoạch của quân đội Đức Quốc xã, tổ hợp các hoạt động quân sự này gồm 4 bước:
- Bước 1: từ ngày 28 tháng 6 đến ngày 7 tháng 7 với Chiến dịch Voronezh
- Bước 2: từ ngày 7 tháng 7 đến ngày 22 tháng 7 với Chiến dịch Braunschweig đánh chiếm vòng hạ lưu các con sông Đông và Bắc Donets, làm bàn đạp chuẩn bị tấn công Stalingrad và tiến vào Kavkaz.
- Bước 3: từ ngày 22 tháng 7 đến ngày 1 tháng 8 với Chiến dịch Hoa nhung tuyết đánh chiếm thảo nguyên Kuban.
- Bước 4: bắt đầu từ ngày 1 tháng 8 với các cuộc tấn công trên hai hướng chính nhằm đánh chiếm Stalingrad và đánh chiếm vùng dầu mỏ Grozny - Baku. Đây là hai mục tiêu cuối cùng mà quân đội Đức Quốc xã không bao giờ thực hiện được.
Mục đích chính trị-quân sự cuối cùng của Chiến dịch Blau thực chất vẫn là mục đích của Chiến dịch Barbarossa mà trước đó một năm quân đội Đức Quốc xã đã không đạt được. Những mục tiêu cơ bản cũng như ý đồ chiến lược và các chiến thuật quân sự được áp dụng trong "Chiến dịch Blau" tương đối giống với Chiến dịch Barbarossa đến mức nhà nghiên cứu Anthony Beevor đã gọi Kế hoạch Blau là một phiên bản của Kế hoạch Barbarossa.
Trong giai đoạn cuối, giống như Chiến dịch Barbarossa một năm trước đó, do các nỗ lực phòng ngự tích cực và các đòn phản kích liên tục của quân đội Liên Xô, quân đội Đức Quốc xã đã không đạt được mục tiêu cuối cùng và buộc phải chuyển sang phòng ngự trên toàn mặt trận. Nắm được quyền chủ động chiến lược, quân đội Liên Xô huy động những lực lượng dự bị to lớn, tiến hành phản công, tiêu diệt một lực lượng lớn quân Đức trên cả hai chiến trường Volga-sông Đông và Bắc Kavkaz, chiếm lại Stalingrad trước mùa xuân năm 1943, đánh bật quân Đức khỏi Bắc Kavkaz và Kuban trong mùa xuân năm 1943, đẩy quân Đức lùi về bên kia tuyến sông Bắc Donets, sông Mius, chiếm lại Rostov và phát triển tấn công về hướng Dnepro Petropavlovsk và Zaporozhye. Ngày 14 tháng 3, quân đội Đức Quốc xã mở chiến dịch Kharkov lần thứ ba, phản công đánh chiếm Kharkov và Belgorod, hình thành mặt chính diện phía nam của vòng cung Kursk.
Đến đây, hai bên tạm hưu chiến và đều tăng cường bổ sung lực lượng để chuẩn bị cho trận đánh quyết định trên vòng cung lửa tại khu vực Kursk.
Bối cảnh
nhỏ|Tàu chở dầu ở Baku tiến ra tiền tuyến.
Tình hình chiến tranh Xô-Đức và tình hình thế giới
Từ ngày 22 tháng 6 năm 1941 đến ngày 20 tháng 6 năm 1942, quân đội Đức đã chịu những thiệt hai chưa từng có kể từ đầu cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai với 1.299.784 người chết, bị thương và mất tích tại Mặt trận Xô-Đức; trong đó có 38.837 sĩ quan và 1.260.947 binh lính. Nhờ được tăng viện từ châu Âu, từ nước Đức và nền công nghiệp quốc phòng phát triển với sản lượng lớn vẫn được duy trì nên đến mùa hè năm 1942, quân đội Đức Quốc xã đã vượt qua cuộc khủng hoảng đầu tiên sau khi Chiến dịch Typhoon thất bại, kéo theo sự phá sản của Kế hoạch Barbarossa. Mặt trận mở rộng đã buộc quân Đức phải huy động thêm quân của các nước đồng minh của họ ra chiến trường. Trong đó, Thống chế Ion Antonescu của Romania cung cấp hai tập đoàn quân; Nhiếp chính vương Miklós Horty của Hungary cung cấp một quân đoàn bộ binh (5 sư đoàn) và ba sư đoàn cơ giới; Benito Mussolini, lãnh tụ Đảng Phát xít cầm quyền ở Ý cũng gửi một tập đoàn quân đến tham chiến bên cạnh quân Đức tại mặt trận Xô-Đức.
Tình hình quốc tế cũng không thuận lợi cho người Đức. Mặt trận Đồng Minh chống phát xít đã được hình thành với 26 nước tham gia với trụ cột là ba quốc gia mạnh nhất là Hoa Kỳ, Liên Xô và Anh. Vào năm 1942, quân đội Hoa Kỳ (gồm cả ba quân chủng) đã có quy mô lên đến 7 triệu người và đang tiến hành cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương chống lại quân phiệt Nhật. Quân đội Anh (gồm cả quân Úc) cũng có quy mô lên đến gần 4 triệu người đang phải chiến đấu trên các vùng Đông và Đông Nam châu Á, Bắc Phi, Cận Đông và cả ở Nam Thái Bình Dương. Tại Cụm tập đoàn quân Nam mà chẳng bao lâu sau sẽ được chia ra thành Cụm tập đoàn quân A, Cụm tập đoàn quân B và Cụm tập đoàn quân Sông Đông, quân Đức tập trung tại đây 102 sư đoàn trên tổng số 217 sư đoàn có mặt tại Mặt trận Xô-Đức. Trong số 102 sư đoàn này có 73 sư đoàn và 8 lữ đoàn Đức và 29 sư đoàn các nước phụ thuộc Đức (Romania, Ý, Hungary, Slovakia). Vào thời điểm bắt đầu chiến dịch, Khối quân khổng lồ này gồm 2.012.120 binh lính và sĩ quan, được trang bị hơn 2.570 xe tăng, 28.300 pháo và súng cối, 2.490 máy bay.
Tuy vậy, tinh thần chiến đấu của các đội quân đồng minh của quân đội Đức rất thấp, đến mức Thống chế Đức Gerd von Rundstedt đã phải than phiền:
Binh lực
Đây là lần tập trung binh lực lớn thứ hai của quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông, với số lượng quân số và phương tiện chỉ đứng sau Chiến dịch Barbarossa và trở thành cuộc huy động lớn nhất quân đội Đức Quốc xã vào một hướng mặt trận trong toàn bộ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi Cụm tập đoàn quân Trung tâm chỉ duy trì số lượng đơn vị khoảng 70 sư đoàn, Cụm tập đoàn quân Bắc chỉ có 45 sư đoàn thì Cụm tập đoàn quân Nam đã thâu tóm trong tay 102 sư đoàn được biên chế vào 6 tập đoàn quân Đức, 2 tập đoàn quân Romania, 1 tập đoàn quân Ý và 1 tập đoàn quân Hungary. Đến ngày 7 tháng 7 năm 1942, sau khi hoàn thành Chiến dịch Voronezh (1942), Hitler đến Sở chỉ huy tiền phương của Bộ tư lệnh mặt trận phía đông đặt tại Poltava (Ukraina). Tại đây, ông ta trực tiếp giao nhiệm vụ cho các cụm tập đoàn quân A và B tác chiến trên hai hướng chiến lược khác nhau. Cụm tập đoàn quân B nhằm hướng Stalingrad, Cụm tập đoàn quân A nhằm hướng Kavkaz. [[Wilhelm List]] Cụm tập đoàn quân A (cuối chiến dịch được đổi thành "Cụm quân ven biển Azov") do Thống chế Wilhelm List chỉ huy, bị Hitler thay thế ngày 10 tháng 9 năm 1942; từ ngày 22 tháng 11 năm 1942 do Đại tướng Paul Ludwig Ewald von Kleist chỉ huy; gồm các 3 tập đoàn quân và một số sư đoàn độc lập:
- Tập đoàn quân xe tăng 1 (trong chiến dịch còn có các tên gọi "Cụm quân Kleist", "Cụm quân Raus", "Cụm quân Heinrici" do các tướng Paul Ludwig Ewald von Kleist và Eberhard von Mackensen (từ ngày 22 tháng 11 năm 1942) lần lượt chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng 3 do các tướng Eberhard von Mackensen và Hermann Breith lần lượt chỉ huy gồm sư đoàn xe tăng 13, sư đoàn xe tăng 19, sư đoàn cơ giới SS "Wiking". Quân đoàn xe tăng 40, được trang bị lại và chuyển binh chủng từ Quân đoàn bộ binh 40 ngày 9 tháng 7 năm 1942 do các tướng Leo Freiherr Geyr von Schweppenburg (tháng 7 năm 1942), Gustav Fehn (tháng 9 năm 1942) và Gotthard Heinrici (tháng 11 năm 1942) lần lượt chỉ huy, gồm sư đoàn xe tăng 3, sư đoàn xe tăng 11, sư đoàn cơ giới 16, sư đoàn pháo chống tăng tự hành 670. Quân đoàn sơn chiến 49 của tướng Rudolf Konrad gồm các sư đoàn bộ binh sơn chiến 1, 4 (Đức) và sư đoàn bộ binh sơn chiến 2 (Romania) Quân đoàn bộ binh 52 của tướng Albert Zehler gồm các sư đoàn bộ binh 50, 111 và 370 [[Thống chế (Đức Quốc xã)|Thống chế von Manstein]]
- Tập đoàn quân 11 do các tướng Erich von Manstein (đến ngày 12 tháng 9 năm 1942) và Friedrich Schulz lần lượt chỉ huy; trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh 50 do các tướng Herbert von Böckmann (tháng 5 năm 1942), Philipp Kleffel (tháng 7 năm 1942) lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 58, 121, 215, 225, sư đoàn cảnh binh SS và lữ đoàn 2 SS. Quân đoàn bộ binh 14 do tướng Erik Hansen chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 22, 170, 250 và sư đoàn bộ binh sơn chiến 5. Quân đoàn bộ binh 26 do các tướng Albert Wodrig và Ernst von Leyser (từ 1 tháng 10 năm 1942) chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 24, 96, 223 và 227 và sư đoàn pháo tự hành 207. Sư đoàn bộ binh sơn chiến độc lập 3 của tướng Hans Kreysing.
- Tập đoàn quân 17 (trong chiến dịch còn được gọi là "Cụm quân Ruoff") do tướng Richard Ruoff chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh 5 của tướng Wilhelm Wetzel gồm các sư đoàn bộ binh 9, 35, 73 (Đức), sư đoàn bộ binh 10 và sư đoàn kỵ binh 3 (Romania). Quân đoàn bộ binh 42 của tướng Franz Mattenklott gồm các sư đoàn bộ binh 132, 153, sư đoàn xe tăng 22 và sư đoàn phục vụ mặt đất 5 của không quân. Maximilian von Weichs, phải Cụm tập đoàn quân B do Đại tướng Maximilian Freiherr von Weichs chỉ huy, trong biên chế có 3 Tập đoàn quân Đức, 2 tập đoàn quân Romania, 1 tập đoàn quân Ý và 1 tập đoàn quân Hungary:
- Tập đoàn quân 2 (Đức) (cuối chiến dịch được gọi là "Cụm tác chiến Weiss ") do các tướng Hans von Salmuth và Walter Weiß lần lượt chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh 13 do các tướng Otto-Ernst Ottenbacher, Erich Straube và Friedrich Siebert lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 82, 382 và sư đoàn xe tăng 11. Quân đoàn bộ binh 6 do các tướng Bruno Bieler và Hans Jordan lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 6, 14, 206, 251 và 256. Quân đoàn bộ binh 7 do các tướng Wilhelm Fahrmbacher và Ernst-Eberhard Hell lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 27, 57, 75, 323 và 387. Sư đoàn bộ binh độc lập 88.
- Tập đoàn quân 6 (Đức) do tướng Friedrich Paulus chỉ huy, trong biên chế ban đầu có: Quân đoàn bộ binh 8 (Quân đoàn Breslau) của tướng Walter Heitz, gồm các sư đoàn bộ binh 62, 108 và 454. Quân đoàn bộ binh 17 do các tướng Karl Hollidt, Dietrich von Choltitz và Willi Schneckenburger lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 79, 113, 294 và 306. Quân đoàn bộ binh 29 của tướng Hans von Obstfelder gồm các sư đoàn bộ binh 79, 168, 299 và sư đoàn xe tăng 23. Quân đoàn bộ binh 51 của tướng Walther von Seydlitz-Kurzbach, gồm các sư đoàn bộ binh 71, 44, 297, 305 và 389.
- Tập đoàn quân xe tăng 4 (trong chiến dịch còn được gọi là Cụm quân Hoth) của tướng Hermann Hoth, trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng 14 do các tướng Wilibald Freiherr von Langermann, Otto von Knobelsdorff, Martin Wandel, Karl Eibl và Walther Nehring lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn xe tăng 1, 8 và 27, các sư đoàn cơ giới 3 và 16. Quân đoàn xe tăng 48 do các tướng Rudolf Veiel, Ferdinand Heim, Heinrich Eberbach và Otto von Knobelsdorff lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn xe tăng 14, 19, 24, sư đoàn cơ giới 29, sư đoàn cơ giới SS "Đại Đức" ("Großdeutschland"), sư đoàn bộ binh 336 và sư đoàn bộ binh 20 (Romania). Quân đoàn xe tăng 57 của tướng Friedrich Kirchner gồm các sư đoàn xe tăng 6, 16, 17, sư đoàn cơ giới SS "Wiking" và sư đoàn bộ binh 15. Quân đoàn bộ binh 4 do các tướng Viktor von Schwedler, Erwin Jaenecke và Max Pfeffer lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 68, 76, 371 và sư đoàn bộ binh 4 (Romania). Các tập đoàn quân của quân đội các nước đồng minh của Đức
- Cụm không quân Sông Đông gồm các quân đoàn không quân 4 (ném bom), 8 (cường kích), các sư đoàn không quân tiêm kích 1 và 6, các cụm hàng không vận tải Kharkov, Kiev, Rostov (mỗi cụm tương đương một quân đoàn).
- Cụm không quân Kavkaz gồm quân đoàn không quân 24, 25, 27 và sư đoàn tác chiến đặc nhiệm Kuban.
Tập đoàn quân không quân 6 của Đại tướng Robert Ritter von Greim được thành lập ngày 5 tháng 5 năm 1943, có 1/3 lực lượng tham gia giai đoạn cuối chiến dịch, trong biên chế có:
- Quân đoàn không quân 27.
- Các sư đoàn không quân độc lập 1, 4, 12, 18 và 23.
Những nét cơ bản của Kế hoạch Blau qua các chỉ thị 41 và 45 của Hitler
Ngày 5 tháng 4 năm 1942, Adolf Hitler ký ban hành Chỉ thị 41, trong đó vạch ra những ý đồ chiến lược cho các hành động quân sự của Quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận Xô-Đức, trong đó có đoạn viết:
Chỉ thị này cũng là mệnh lệnh cho Bộ Tổng tham mưu quân đội Đức Quốc xã phải soạn thảo một kế hoạch chi tiết cho các hành động quân sự tại chiến trường dựa trên kế hoạch tấn công chiến lược mang tên "Siegfried" được hình thành từ tháng 3 năm 1942 và lần này, nó được đích thân Hitler chọn cái tên "Blau" từ ngày 11 tháng 4 năm 1942.
Kế hoạch Blau có một quy mô huy động quân đội khổng lồ trên một địa bàn rộng đến 1,5 triệu km² nên Bộ tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã đã phải dự kiến chia đôi Cụm tập đoàn quân Nam cũng như vạch các kế hoạch chiến dịch bộ phận cho nó. Hitler chuẩn y cả hai đề nghị này và ngày 7 tháng 7, ông ta đã ra lệnh chia tách Cụm tập đoàn quân Nam thành các Cụm tập đoàn quân A và B. Ngày 23 tháng 7, đúng một năm một tháng sau khi phát động Chiến dịch Barbarossa, Hitler ký ban hành tiếp Chỉ thị 45. Chỉ thị này quy định chi tiết hơn các hoạt động quân sự của nước Đức Quốc xã tại miền Tây Nam Liên Xô trong hai bước đầu của kế hoạch được dự kiến tiến hành bởi Chiến dịch Braunschweig với một số mệnh lệnh cụ thể sau đây:
Chỉ thị này cũng quy định bốn nhiệm vụ chính của Tập đoàn không quân 4 là yểm trợ các hoạt động mặt đất của lục quân Đức tại các khu vực chiến sự, ném bom cắt đứt và làm tê liệt các tuyến đường sắt và các tuyến ống dẫn dầu phía sau mặt trận của quân đội Liên Xô, ném bom hủy diệt Stalingrad làm cho nó mất hết ý nghĩa là một căn cứ bàn đạp quân sự, khống chế vùng trời Kuban và khống chế các tuyến vận tải đường thủy của đối phương trên hai con sông Đông và Volga. Nhiệm vụ ném bom các giàn khoan khai thác dầu ở Grozny và Baku đã không được đặt ra vì Hitler muốn các mỏ dầu này bị đánh chiếm trong tình trạng đang hoạt động. Hải quân Đức ở Biển Đen cũng được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho bộ binh (Tập đoàn quân 11), dùng tàu ngầm phá hoại Hạm đội Biển Đen (Liên Xô), kiềm chế hỏa lực của các căn cứ trên bờ, trên các quân cảng Liên Xô dọc bờ đông Biển Đen. Kế hoạch này vẽ ra một viễn cảnh thắng lợi quá lớn đến mức nó đã gây niềm tin thái quá đến cả chính những người vạch ra nó khi một số tướng lĩnh hải quân Đức đã được Hitler giao nhiệm vụ khởi thảo kế hoạch thành lập Hạm đội Kaspi để phá hoại đường tiếp tế của đồng minh Anh cho Liên Xô từ Iran qua biển Kaspi
Để giải quyết nhiệm vụ thứ nhất và nhiệm vụ thứ hai của Kế hoạch Blau, thê đội 1 của chiến dịch (mà sau này trở thành Cụm tập đoàn quân B) được tổ chức với hơn 40% bộ binh và kỵ binh, trên 50% lực lượng thiết giáp, bao gồm 918.200 sĩ quan và binh sĩ, 1.260 xe tăng, khoảng 17.000 pháo và súng cối, 1.640 máy bay. Trong khi cụm quân này tiến đến sông Volga, Cụm tập đoàn quân A với binh lực được phân chia gồm hơn 1.093.200 quân, 1.310 xe tăng, 11.300 pháo và súng cối, 850 máy bay cũng tổ chức tấn công vào Bắc Kavkaz.
Quân đội Liên Xô
Quân đội Liên Xô bị tổn thất hàng triệu người trong các trận đánh liên tục từ mùa hè đến mùa đông năm 1941 để làm thất bại Kế hoạch Barbarossa của Hitler. Tháng 12 năm 1941, họ chỉ còn trong tay 4.200.000 quân. Nhờ các biện pháp động viên và huấn luyện cấp tốc quân dự bị cùng với các nỗ lực sản xuất vũ khí và phương tiện quân sự, đến tháng 6 năm 1942, quân đội Liên Xô đã có tổng quân số 5.500.000 người, 57.500 pháo và súng cối, 4.900 xe tăng và 4.200 máy bay.
Binh lực
Tình hình bố trí và biên chế binh lực của quân đội Liên Xô tại sườn phía nam mặt trận Xô-Đức trong tiến trình chiến dịch khá phức tạp. Đã có đến 2 lần bố trí lại trong khoảng thời gian chỉ 6 tháng. Đến ngày 28 tháng 6, họ có 4 Phương diện quân và một cụm tác chiến tương đương Phương diện quân; được bố trí thành hai bộ phận bảo vệ hai hướng mặt trận. Hướng Volga-Đông có 3 tập đoàn quân Voronezh, Tây Nam và Nam. Hướng Kavkaz có Phương diện quân Bắc Kavkaz và Cụm tác chiến Primorie. Phương diện quân Voronezh được thàh lập ngày 9 tháng 7 trên cơ sở cánh Bắc của Phương diện quân Tây Nam. Đến ngày 17 tháng 7, Phương diện quân Stalingrad được thành lập trên cơ sở cánh Nam của Phương diện quân Tây Nam đã bị giải thể. Ngày 30 tháng 9, Phương diện quân Stalingrad đổi tên thành Phương diện quân Sông Đông. Ngày 7 tháng 8, Phương diện quân Đông Nam được thành lập trên cơ sở chia tách Phương diện quân Stalingrad, đến ngày 30 tháng 9, Phương diện quân này đổi tên thành Phương diện quân Stalingrad. Cuối cùng, Phương diện quân Tây Nam được phục hồi vào ngày 25 tháng 10 năm 1942.
Hướng Volga-Đông [[Trung tướng F.I. Golikov]]
- Phương diện quân Voronezh được thành lập ngày 9 tháng 7 năm 1942, do Trung tướng F. I. Golikov làm tư lệnh, trong biên chế có: Tập đoàn quân 6 (thành lập lần thứ ba) do trung tướng F.M. Kharitonov chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 45, 99, 160, 174, 212, 219, 309 và sư đoàn pháo binh 141. Tập đoàn quân 40 do các tướng M.A. Parsegov, M.M. Popov và K.S. Moskalenko lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 10, 135, 293, các lữ đoàn phục vụ mặt đất 2, 3, 4 của Tập đoàn quân không quân 2, lữ đoàn pháo binh 5, các trung đoàn pháo binh 21, 595, 738 và 760. Trong các trận đánh phòng ngự tại bờ Tây sông Đông, tập đoàn quân này bị mất toàn bộ xe tăng và bị giải thể ngày 6 tháng 8, các sĩ quan và binh sĩ còn lại được rút ra cùng cơ quan chỉ huy của tập đoàn quân để thành lập bộ khung cho Phương diện quân Đông Nam. Phương diện quân Kavkaz thành lập ngày 30 tháng 12 năm 1941 do Trung tướng D.T. Kozlov chỉ huy, gồm các tập đoàn quân bộ binh 44, 45, 46, 47 và 51. Đến ngày 28 tháng 1 năm 1942 được chia tách thành Phương diện quân Zakavkaz và Phương diện quân Krym. Mặc dù Bộ Tổng tham mưu đã báo cáo phân tích nhiều số liệu cho thấy một khi Đức đã tập trung đến 102 sư đoàn ở Cụm tập đoàn quân Nam trong đó có hai tập đoàn quân xe tăng (1 và 4) thì rõ ràng mặt trận chính sẽ diễn ra tại đây nhưng I. V. Stalin vẫn khăng khăng cho rằng quân Đức vẫn sẽ lại tấn công vào hướng Moskva. Ý kiến này được đa số thành viên của Đại bản doanh đồng tình khi họ cho rằng, số phận cuộc chiến vẫn sẽ được quyết định ở Moskva. Như đã nhiều lần diễn ra, G. K. Zhukov lại đứng về phía thiểu số khi ông cho rằng chiến trường phía nam đang chứa đựng nhiều nguy cơ hơn cả vì trên hướng Trung tâm, quân Đức chỉ có 70 sư đoàn.
Từ nhận định đó, các thành viên trong Đại bản doanh đã có ba luồng ý kiến khác nhau. G. K. Zhukov và B. M. Shaposhnikov chủ trương phòng ngự chiến lược, tạm thời không nên mở các cuộc tiến công lớn. Các cuộc tấn công bộ phận cũng không nên mở quá nhiều vì nó sẽ ngốn hết lực lượng dự bị và sử dụng chúng một cách phân tán, gây khó khăn lớn khi tổ chức tổng phản công sau này. Zhukov cho rằng chỉ nên mở một cuộc tấn công cục bộ để xóa bàn đạp Rzhev-Viazma nguy hiểm của quân Đức trên hướng Moskva. I. V. Stalin và các nguyên soái K. E. Voroshilov, S. K. Timoshenko chủ trương cần mở nhiều chiến dịch tấn công tại các khu vực Krym, Leningrad, Demyansk, Smolensk, Lgov-Kursk để cải thiện thế trận. Về hướng Moskva, I. V. Stalin còn quả quyết rằng quân Đức sẽ mở mũi tấn công chính từ Bryansk và Orion vòng qua phía nam và Đông Nam Moskva để tiến ra thượng lưu sông Volga tại Gorky, cô lập Moskva với các vùng Povolzhe, Ural và sau đó, đánh chiếm thủ đô. Nguyên soái S. M. Budyonny thì đề nghị cần lưu ý đến hướng Kavkaz vì binh lực của quân đội Liên Xô tại vùng này rất mỏng.
Những kết luận không dứt khoát của cuộc họp quan trọng ngày 27 tháng 3 năm 1942 đã dẫn đến những kế hoạch quân sự không phù hợp với tình hình thực tế ngay từ việc phân phối lực lượng dự bị. Trong số các phương diện quân trên cánh Nam của mặt trận Xô-Đức thì Phương diện quân Bryansk được bố trí nhiều lực lượng tăng viện nhất, gồm Tập đoàn quân xe tăng 5, 4 quân đoàn xe tăng độc lập, 4 lữ đoàn xe tăng độc lập, 7 sư đoàn bộ binh và 11 lữ đoàn bộ binh độc lập. Đến lúc đó, nguyên soái B. M. Shaposhnikov phải nói thẳng rằng do chưa kết luận được về khả năng quân Đức sẽ giáng đòn tấn công chủ yếu vào đâu thì tốt nhất là nên giữ nguyên các lực lượng dự bị để khỏi bị động về sau. Chỉ có G. K. Zhukov đồng tình với ý kiến này. A. M. Vasilevsky cũng nhận xét rằng điểm yếu nhất của kế hoạch này là vừa phòng ngự, lại vừa phản công nhưng I. V. Stalin không cho ông nói hết ý kiến của mình.
Trong khi đại bản doanh còn chưa thống nhất về chiến lược hành động tấn công cục bộ hay phòng thủ tích cực thì Nguyên soái S. K. Timoshenko phụ trách khu vực mặt trận Tây Nam đồng thời là tư lệnh Phương diện quân Tây Nam còn đem đến hội nghị cả một kế hoạch sơ bộ dự kiến đòn tấn công ở khu vực Izyum-Barvenkovo. Bản báo cáo ý đồ chiến dịch có đoạn viết:
Cần lưu ý rằng trên thực tế, mãi đến mùa thu năm 1943, quân đội Liên Xô mới đạt được mục tiêu này. Kế hoạch này gây ra cuộc tranh luận và mối hoài nghi lớn giữa Bộ Tổng tham mưu với Bộ chỉ huy Phương diện quân Tây Nam nhưng nó lại được I. V. Stalin "giải quyết" bằng một mệnh lệnh:
Các sự kiện về sau đã cho thấy rõ Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya bị thất bại nặng nề và nó trở thành khúc dạo đầu cho một loạt những đòn tấn công lớn của quân đội Đức Quốc xã trên khu vực phía tây nam và Nam của mặt trận Xô-Đức, đưa lại nhiều thiệt hại to lớn và thế bất lợi chiến lược cho quân đội Liên Xô mà phải mất hơn nửa năm sau, quân đội Liên Xô mới khôi phục lại được quyền chủ động chiến lược bằng Trận Stalingrad.
Diễn biến chiến sự trên hướng Volga-Đông
Trong giai đoạn đầu của chiến dịch, tổng cộng cả ba Phương diện quân Voronezh, Tây Nam (cũ) và Nam của quân đội Liên Xô chỉ có trong tay 655.000 sĩ quan và binh sĩ, 740 xe tăng, 14.200 pháo và súng cối và khoảng 1.000 máy bay chiến đấu. Quân đội Đức Quốc xã đã ném vào hướng sông Volga-sông Đông 918.200 sĩ quan và binh sĩ, 1.260 xe tăng, khoảng 17.000 pháo và súng cối, 1.640 máy bay. Ưu thế rõ rệt của quân đội Đức về người (1,5/1), xe tăng (1,7/1), pháo binh (1,2/1) và máy bay (1,6/1) đã bảo đảm cho họ sức tấn công liên tục và rộng khắp trong suốt hai giai đoạn đầu của chiến dịch.
Chiến sự dọc Sông Đông năm 1942
phải|Diễn biến chiến sự tại khu vực Voronezh - Vorosilovgrrad từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1942
Ngày 28 tháng 6 năm 1942, Cánh bắc Cụm tập đoàn quân Nam của quân đội Đức Quốc xã (từ ngày 7 tháng 7 là Cụm tập đoàn quân B) bắt đầu tấn công trên hướng Voronezh. Đòn tấn công đầu tiên của Tập đoàn quân xe tăng 4 do tướng Hermann Hoth chỉ huy đã chọc thủng tuyến phòng ngự của quân đội Liên Xô tại điểm tiếp giáp giữa tập đoàn quân 13 (Phương diện quân Briansk) và tập đoàn quân 40 (Phương diện quân Tây Nam). Sau hai ngày, tập đoàn quân này đã mở được một đột phá khẩu rộng hơn 50 km và sâu 40 km về hướng Voronezh. Mặc dù nắm trong tay một lực lượng dự bị rất mạnh nhưng Tư lệnh Phương diện quân Briansk, tướng F.I. Golikov đã không tổ chức được các đòn tấn công tổng lực vào hai bên sườn cánh quân xe tăng Đức mà lại tung từng quân đoàn xe tăng vào trận một cách nhỏ giọt để vá víu những lỗ thủng cục bộ, nhất thời trên tuyến phòng thủ. Các quân đoàn xe tăng sợ bị tách rời khỏi bộ binh nên không dám mở những đòn đột kích sâu. Kết quả là các tập đoàn quân 13 và 40 (Liên Xô) phải vừa chống đỡ vừa lùi dần về bờ tây sông Đông. Đến ngày 2 tháng 7 năm 1942, lỗ đột phá của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) tại khu vực tiếp giáp giữa hai phương diện quân đã sâu đến 80 km và mở rộng đến hàng trăm km. Xe tăng và bộ binh của Tập đoàn quân xe tăng 5 (Liên Xô) từ Phương diện quân Briansk phản kích, tháng 6 năm 1942 Mặc dù Đại bản doanh yêu cầu tổ chức cho Tập đoàn quân xe tăng 5 phản công ngay nhưng tướng F.I. Golikov vẫn không giao cho tập đoàn quân này một nhiệm vụ nào cả. Đến khi tướng A.I. Lizyukov nhận được mệnh lệnh thì thời gian đã trôi đi mất mấy ngày quý giá. Lẽ ra được dùng vào việc phản công, phần lớn Tập đoàn quân xe tăng 5 đã phải làm nhiệm vụ cản hậu, cắt đứt các đường giao thông của các cánh quân xe tăng Đức đang tấn công và yểm hộ cho Tập đoàn quân 40 rút về Voronezh ở bên kia sông Đông qua Gorsetsnoye và Stary Oskol. Ngày 6 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 5 bị xé lẻ ra và phải rút lui cùng với bộ binh. Trước tình hình trở nên nghiêm trọng, ngày 9 tháng 7, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tách các tập đoàn quân cánh trái của Phương diện quân Briansk để thành lập Phương diện quân Voronezh do Trung tướng N.F. Vatutin làm tư lệnh, đồng thời tăng viện cho phương diện quân này các tập đoàn quân 6 và 60 để tổ chức phòng thủ tuyến Zadonsk - Pavlovsk. Trung tướng F.I. Golikov, Tư lệnh Phương diện quân Briansk bị cách chức. Trung tướng K.K. Rokossovsky thay thế ông ta.
Sau khi chiếm một nửa thành phố Voronezh trên bờ Tây sông Đông, ngày 7 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 6 (Đức) không vượt sông Đông tại đây mà mở cuộc tấn công về phía nam nhằm phối hợp với Cụm tập đoàn quân A hợp vây các Phương diện quân Tây Nam và Nam của Liên Xô tại khúc cong lớn của sông Đông. Đến ngày 16 tháng 7, quân Đức đã chiếm được một loạt các mục tiêu quan trọng trên con đường sắt chạy dọc theo hữu ngạn sông Đông gồm: Valuiky, Rossosh, Bogutsar, Chernaya Kalitva, toàn bộ vùng công nghiệp Donets, mở đường tiến ra sông Volga, đến Stalingrad và Kuban. Quân đội Đức quốc xã tiến về Voronezh, tháng 6 năm 1942 Ngày 24 tháng 7 năm 1942, tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 5 (Liên Xô), tướng A. I. Lizyukov tử trận, cũng là ngày mà Chiến dịch Voronezh (1942) của quân đội Đức đã kết thúc với mục tiêu đạt được là "quét sạch bờ Tây sông Đông" để tạo bàn đạp tiến về phía nam theo đúng kế hoạch Blau đã quy định. Việc Cụm tập đoàn quân A (Đức) chờ đợi kết quả của cánh quân phía bắc, chậm phát động tấn công cũng như các đòn phản kích của Tập đoàn quân xe tăng 5 vào sau lưng cánh quân xe tăng Đức đang tiến về phía nam đã tạo điều kiện cho Phương diện quân Tây Nam và Nam tranh thủ được mấy ngày để rút được một nửa lực lượng còn lại sang bờ Đông sông Đông. Những tổn thất lớn nhất của quân đội Liên Xô thuộc về Phương diện quân Nam trước sức tấn công của Cụm tập đoàn quân A (Đức). Với quân số còn lại chỉ hơn 100.000 người, Phương diện quân này đã không thể phục hồi được và bị giải thể ngày 1 tháng 8 năm 1942.
Quân đội Đức Quốc xã tấn công Stalingrad
phải|Diễn biến chiến sự trên cánh Nam của [[Chiến tranh Xô-Đức|Mặt trận Xô-Đức từ ngày 22 tháng 5 đến 7 tháng 7 năm 1942]]
Hơn cả Kharkov, Stalingrad là trung tâm công nghiệp rất lớn của Liên Xô với 126 nhà máy, trong đó có 29 nhà máy cơ khí - luyện kim trọng yếu của Nhà nước Xô Viết. Trong số này có Nhà máy máy kéo cho ra 300.000 máy kéo/năm và đương nhiên, có thể sản xuất cả xe tăng; Nhà máy luyện kim "Tháng Mười Đỏ" cho ra lò 775.800 tấn thép thỏi và 584.300 tấn thép cán mỗi năm. Ngoài ra còn nhiều nhà máy sản xuất vũ khí, đạn dược, đóng tàu... Đây còn là đầu mối trung tâm của mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ và đường thủy chiến lược của miền Tây Nam Liên Xô. Các nhà hoạch định chiến lược của nước Đức Quốc xã cho rằng, trong chiến cục mùa hè năm 1942, cần làm cho Stalingrad mất hết ý nghĩa là một căn cứ chiến lược, đồng thời là trung tâm công nghiệp quốc phòng quan trọng của Liên Xô. Thực hiện ý định này, Tập đoàn quân 6 và cánh trái của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức), sau khi chiếm được các đầu mối giao thông đường sắt quan trọng bên hữu ngạn sông Đông đã dừng lại trước tuyến sông Chir và Tsimla để tập trung lực lượng cho cuộc tấn công lớn vào nửa cuối tháng 7.
Ngày 17 tháng 7 năm 1942, Phương diện quân Stalingrad được thành lập do trung tướng V. N Gordov chỉ huy, với biên chế ban đầu gồm các tập đoàn quân 21, 62, 63, 64 và được rải ra trên một chính diện dài đến 700 km từ Serafimovich đến phía tây Kotelnikovo để phòng thủ Stalingrad từ xa. Từ ngày 18 tháng 7, Tập đoàn quân 6 (Đức) và các quân đoàn xe tăng 14, 24 của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) mở cuộc tổng công kích lớn vào Stalingrad, đánh tan các đơn vị tiều tiêu của Phương diện quân Stalingrad trên các tuyến sông Chir và Tsimla. Đến ngày 22 tháng 7, các cánh quân này đã có mặt trước tiền duyên tuyến phòng thủ chính của quân đội Liên Xô trên tuyến Pavlovsk, Kleshkaya, Surovikino, Suvorovsk, Verkhne-Kurmoyaksk và bắt đầu đột kích vào hai bên sườn tập đoàn quân 62 (Liên Xô). Chiến sự diễn ra ác liệt nhất tại khu vực Kalach. Xe tăng Đức bị tiêu diệt trước của ngõ Stalingrad, ngày 17 tháng 6 năm 1942 Ngày 23 tháng 7, với ưu thế về binh lực (270.000/160.000 người), pháo binh (3.000/2.200 khẩu), xe tăng (500/400 chiếc), máy bay (550/454 chiếc), Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 6 Đức đã đầy lùi Phương diện quân Stalingrad khỏi tuyến phòng thủ cơ bản. Đến ngày 17 tháng 8, Quân đoàn xe tăng 14, Quân đoàn bộ binh 8 (Đức) và Tập đoàn quân 3 Romania đã tiến đến tuyến Vertiachi - Kalach; Quân đoàn xe tăng 24, Quân đoàn bộ binh 51 (Đức) đánh chiến khu vực Nizhni-Chirskaya; Quân đoàn xe tăng 48, Quân đoàn bộ binh 4 (Đức) và Tập đoàn quân 4 Romania đã vượt sông Aksay-Esaulovsky, dồn Tập đoàn quân 64 (Liên Xô) ra khỏi khu vực Kamensk về phía bắc.
Ý đồ hợp vây các tập đoàn quân 62 và 64 (Liên Xô) ở chỗ lồi giữa sông Đông và sông Volga rất đơn giản. Tập đoàn quân 6 đánh bọc sườn phía bắc, Tập đoàn quân xe tăng 4 đánh bọc sườn phía nam và hợp điểm tại bờ đông Volga và khép toàn bộ Phương diện quân Stalingrad vào thế gọng kìm. Hai bên sườn của các tập đoàn quân này được giao cho các tập đoàn quân 3 và 4 Romania yểm hộ. Ngày 1 tháng 8, Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) vượt sông Đông chiếm bàn đạp quân sự Tsimlianskaya và đột ngột quay sang phía đông, hướng đòn tấn công về Stalingrad. Ngày 19 tháng 8, quân đoàn xe tăng 24 (Đức) đánh chiếm Tundutovo, Krasnoyaarmeysk. Ngày 23 tháng 8, quân đoàn xe tăng 14 (Đức) đánh chiếm Zetas, Donskaya-Tsaritsa và Chervlennaya. Ngày 27 tháng 8, quân đoàn xe tăng 24 chiếm Bagatsin-Voroponovo. Đến ngày 28 tháng 8, Tập đoàn quân 6 tiến đến bờ sông Volga ở phía bắc Stalingrad. Những trận hỗn chiến trên đường phố Stalingrad bắt đầu. Diễn biến trận phòng thủ Stalingrad từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1942
Ngày 3 tháng 9, các tập đoàn quân 21 và 63 tấn công quân Đức từ phía bắc và chiếm được hai căn cứ bàn đạp tại Serafimovich và Kletskaya. Các tập đoàn quân 24 và 66 cũng tổ chức phản kích vào sườn trái của Tập đoàn quân 6 đã tiến ra bờ sông Volga nhưng không cắt đứt được hành lang này của quân Đức. Bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân B đưa tập đoàn quân 3 Romania ra tuyến phòng thủ phía bắc để Tập đoàn quân 6 (Đức) rảnh tay tổ chức các đòn tấn công vào trung tâm Stalingrad, ép hai tập đoàn quân 62 và 64 của Liên Xô lùi về phía bờ sông Volga. Còn tại Tổng hành dinh quân đội Đức Quốc xã ở Đông Phổ, Adolf Hitler vẫn một mực yêu cầu phải đánh chiếm ngay Stalingrad và chuẩn bị cho cuộc tấn công vào khu vực Astrakhan.. Chiến dịch Blau mà tác giả chính của nó là Adolf Hitler sắp trải qua một bước ngoặt nằm ngoài dự đoán của Bộ Tổng chỉ huy quân đội Đức Quốc xã.
Quân đội Liên Xô phản công
Trên hướng Stalingrad
nhỏ|[[Chiến dịch Sao Thiên Vương]]
Từ giữa tháng 9 năm 1942, kế hoạch phản công của quân đội Liên Xô tại khu vực Stalingrad đã được các tướng Georgy Zhukov và Aleksandr Vasilevsky hoạch định khi Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô nắm trong tay một lực lượng dự bị rất lớn được xây dựng trong mùa hè và mùa thu gồm 25 sư đoàn bộ binh, 6 quân đoàn xe tăng, 7 quân đoàn cơ giới, 4 lữ đoàn bộ binh độc lập, 3 lữ đoàn xe tăng độc lập. Trong khi đó, đến tháng 10 năm 1942, về cơ bản, quân đội Đức Quốc xã đã sử dụng hết lực lượng dự bị của mình. Hơn thế nữa, một khối binh lực và phương tiện rất lớn của quân Đức và các đồng minh của họ đang bị sa lầy vào các trận đánh có tính chất địa phương tại thảo nguyên Kuban và thành phố Stalingrad. Trên hướng Bắc và Trung tâm, quân đội Đức cũng phải giữ thế phòng ngự. Mặc dù Bộ Tổng chỉ huy quân đội Đức cũng điều từ Pháp và Đức sang 8 sư đoàn nhưng lại đưa đến bố trí tại vùng Vitebsk - Smolensk. Hai sư đoàn được rút từ Leningrad đến bố trí tại Velikiye Luki, hai sư đoàn cũng được rút từ Voronezh và Zhizdra để đưa đến khu vực Yartsevo-Roslavl. Quân đội Đức cũng không xác định được 11 tập đoàn quân Liên Xô đã tập trung xung quanh khu vực Stalingrad. Sau chiến tranh, tướng Đức Alfred Jodl thừa nhận:
[[Chiến dịch Bão Mùa đông]]
Ngày 19 tháng 11 năm 1942, trong khi Tập đoàn quân 6 và Quân đoàn xe tăng 14 (Đức) vẫn mải miết tiến hành các trận chiến giằng co trên các đường phố Stalingrad để nhổ từng chốt điểm của Tập đoàn quân 62 (Liên Xô) thì ba Phương diện quân Tây Nam (mới), Stalingrad (mới) và Sông Đông của quân đội Liên Xô đã bất ngờ mở Chiến dịch Sao Thiên Vương. Chỉ sau năm ngày tấn công, các mũi đột kích bằng xe tăng, cơ giới ở vòng ngoài, tiến hành đồng tâm với các cuộc xung phong bằng bộ binh, được không quân và pháo binh yểm hộ mạnh đã đè bẹp hai tập đoàn quân 3 và 4 (Romania) ở phía tây Bắc và Đông Nam Stalingrad. Ngày 25 tháng 11, vòng vây kép của quân đội Liên Xô đã khép chặt tại thị trấn Kalach và thị trấn Nizhni-Chirskaya trên ngã ba sông Đông và sông Chir. Nằm trong vòng vây là Tập đoàn quân 6 (Đức) gồm các quân đoàn bộ binh 8, 11, 51 (tổng cộng 14 sư đoàn bộ binh); Quân đoàn xe tăng 14 thuộc Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) gồm 2 sư đoàn cơ giới (3 và 60), 3 sư đoàn xe tăng (14, 16 và 24); sư đoàn cơ giới 29 (trong đội dự bị của Tập đoàn quân xe tăng 4), cùng nhiều đơn vị kỹ thuật, công binh, trợ chiến, thông tin, quân y, hai trung đoàn không quân (Đức); các sư đoàn kỵ binh 1 và 20 (Romania).
[[Chiến dịch Sao Thổ]]
Ở trung lưu Sông Đông, cuộc tấn công của Cụm tác chiến Hollidt bị bẻ gãy ngay từ đầu bởi đòn phản công thứ hai của Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) do thượng tướng N. F. Vatutin trong Chiến dịch Sao Thổ vào hậu cứ của cụm tác chiến này và uy hiếp cả hậu cứ của Cụm tập đoàn quân Sông Đông. Mặc dù phải điều chỉnh mục tiêu chiến dịch nhưng Phương diện quân Tây Nam đã gần như xóa sổ Tập đoàn quân 8 Ý; đánh tan 2 sư đoàn và 4 trung xe tăng Đức, 1 sư đoàn bộ binh Đức, 5 sư đoàn và 3 trung đoàn bộ binh Ý, 5 trung đoàn bộ binh Romania, loại khỏi vòng chiến đấu tổng cộng 120.000 quân Đức và đồng minh của Đức, bắt 60.000 tù binh, thu 1.900 súng các loại, 176 xe tăng và khoảng 350 máy bay. Trận đột kích vào khu vực Tatsinskaya và Minlerovo do Quân đoàn xe tăng 24 (Liên Xô) thực hiện đã phá hủy nhiều sân bay quan trọng của Tập đoàn quân không quân 4 (Đức), làm suy giảm đáng kể sức tiếp tế đường không cho cụm quân Đức đang bị vây trong khu vực Stalingrad. Những trận pháo kích và ném bom của các tập đoàn quân không quân 8 và 16 vào các sân bay Gumrak, Pitomnik và các sân bay dã chiến trong vòng vây của quân Đức cùng các trận không chiến nhằm vào các máy bay vận tải Đức cũng đã làm kiệt quệ các phi đội vận tải của Tập đoàn quân không quân 4 (Đức). Tất cả những yếu tố trên đây đã đẩy Tập đoàn quân 6 cùng các sư đoàn Đức và Romania trong vòng vây vào một "phiên bản của địa ngục".
[[Chiến dịch Cái Vòng (1943)]] Sau khi đánh bại những nỗ lực phá vây của quân đội Đức Quốc xã, ngày 10 tháng 1 nam 1943, quân đội Liên Xô mở lại Chiến dịch Cái Vòng trước đó bị hoãn lại ngày 14 tháng 12. Phương diện quân Sông Đông (Liên Xô) của trung tướng K. K. Rokossovsky được chuyển thuộc các tập đoàn quân 57 và 64 từ Phương diện quân Stalingrad đã sử dụng ba đòn công kích liên tiếp từ Tây sang Đông, tiêu diệt và bắt làm tù binh toàn bộ Tập đoàn quân 6 (Đức) cùng các đơn vị của Quân đoàn xe tăng 14 (Đức) và 2 sư đoàn kỵ binh Romania trong vòng vây gồm trên 285.000 người. Trong số 91.000 người bị bắt có Thống chế Friedrich Paulus (được phong ngày 30 tháng 1 năm 1943) và 24 tướng lĩnh dưới quyền. Quân đội Liên Xô đã phá hủy và thu giữ 5.762 khẩu pháo, 1.312 súng cối, 12.701 súng máy, 80.438 tiểu liên, 156.987 súng trường, 10.722 ô tô, 744 máy bay, 1.666 xe tăng, 261 xe bọc thép, 10.679 mô tô, 240 máy kéo, 571 xe half-track, 3 đoàn tàu hỏa bọc thép và nhiều thiết bị quân sự khác. Những thiệt hại nói trên chưa từng xảy ra đối với nước Đức Quốc xã kể từ ngày đầu chiến tranh thế giới thứ hai. Uy tín về tính bách chiến, bách thắng của quân đội Đức Quốc xã bị tổn hại nghiêm trọng.
Cuộc phản công thắng lợi của quân đội Liên Xô đã biến thành cuộc tổng phản công mùa Đông 1942-1943 trên toàn tuyến mặt trận phía nam Liên Xô, đẩy quân Đức ra khỏi Kavkaz và Kuban, chiếm lại tuyến sông Đông, uy hiếp Donbass, đẩy quân Đức lùi về phía tây từ 250 km (ở trung lưu và thượng lưu sông Đông) đến hơn 700 km (ở Kavkaz). Quân đội Liên Xô chỉ chịu dừng bước trước cuộc phản công đầu mùa hè năm 1943 (Chiến dịch Donets) và bắt tay vào chuẩn bị cho Trận Kursk.
Chiến sự tại trung lưu và thượng nguồn sông Đông
Diễn biến chiến sự tại cánh Nam [[Chiến tranh Xô-Đức|Mặt trận Xô-Đức từ 13 tháng 12 năm 1942 đến 18 tháng 4 năm 1943]] Giai đoạn 2 cuộc tổng tấn công mùa đông 1942-1943 của quân đội Liên Xô mở màn vào 13 tháng 1 năm 1943 với cuộc tấn công của 4 tập đoàn quân thuộc Phương diện quân Voronezh của tướng F. I. Golikov phối hợp với các Tập đoàn quân 13 thuộc Phương diện quân Briansk và Tập đoàn quân 6 thuộc Phương diện quân Tây Nam. Cuộc tấn công này đã bao vây và tiêu diệt Tập đoàn quân số 2 Hungary gần thị trấn Svoboda bên sông Đông, đánh thiệt hại nặng Tập đoàn quân 2 (Đức). Cuộc tấn công thứ hai của Phương diện quân Bryansk Liên Xô vào cánh Bắc của Tập đoàn quân 2 (Đức) đã tạo ra nguy cơ đe dọa bao vây tập đoàn quân này. Mặc dù tập đoàn quân số 2 Đức đã cố gắng thoát được nhưng họ phải rút lui và đến 12 tháng 1, Phương diện quân Voronezh đã mở tiếp chiến dịch tấn công thứ ba trên hướng Ostrogozhsk - Rossoshsk và ngay sau đó là Chiến dịch Voronezh - Kastornoye. Cuối cùng, quân đội Liên Xô đã lần đầu tiên chiếm lại được thành phố Kharkov sau 18 tháng nhưng cũng chỉ còn đủ sức giữ được nó đến ngày 16 tháng 3 năm 1943.
Trên hướng Ostrogozhsk - Rossosh
Diễn biến chiến dịch Ostrogozhsk-Rossosh Chiến dịch Ostrogozhsk-Rossosh là tên gọi chính thức trong lịch sử Liên Xô (trước đây) và Liên bang Nga (hiện nay) của cuộc tấn công mùa đông 1942-1943 tại khu vực Ostrogozhsk - Rossosh trên thượng lưu sông Đông. Khởi đầu ngày 12 tháng 1 và kết thúc ngày 27 tháng 1, trong khi giai đoạn thứ ba của Chiến dịch Cái Vòng còn đang tiếp diễn, Phương diện quân Voronezh do trung tướng Filipp Ivanovich Golikov chỉ huy đã sử dụng tập đoàn quân 40 ở cánh phải, Tập đoàn quân xe tăng 3 ở cánh trái và quân đoàn bộ binh độc lập 18 để tấn công, bao vây và loại khỏi vòng chiến đấu Tập đoàn quân 2 (Hungary) và Quân đoàn sơn chiến Alpino, (quân đoàn còn lại của Tập đoàn quân 8 Ý tại mặt trận phía đông); đánh thiệt hại nặng Tập đoàn quân 2 Đức, buộc tập đoàn quân này phải bỏ phòng tuyến sông Đông, lùi về giữ tuyến Prusky, Khmelevskoye, Krugkoye, phía tây Rossosk, Ilovskoye, Soldarskoye trên bờ tây các con sông nhỏ Potudan, Tikhaya-Sosna và Tsyornaya-Kalitva. Quân đội Liên Xô cắt đứt đoạn phía bắc con đường sắt thứ hai dọc phía tây sông Đông và khôi phục việc sử dụng con đường sắt chiến lược từ Katemirovka đến Liski. Chiếm được khu vực tam giác Ostrogozhsk - Rossosh - Alekseyevka, quân đội Liên Xô đã đẩy quân đội Đức ra xa Voronezh thêm hơn 140 km về phía tây nam, tạo một bàn đạp thuận lợi có thể uy hiếp phàn còn lại của Cụm tập đoàn quân B (Đức) gồm 10 sư đoàn Đức và 2 sư đoàn Hungary đang đóng tại Belgorod - Kharkov (về phía tây) và Kursk (về phía tây Bắc), phía tả ngạn khúc sống Đông chảy qua giữa thành phố Voronezh. Chiến dịch Ostrogozhsk - Rossosh có vai trò khởi đầu cho ba chiến dịch có tính chiến thuật của quân đội Liên Xô tại trung lưu sông Đông. Trong chiến dịch này, 5 sư đoàn Đức, 7 sư đoàn Hungary, 3 sư đoàn sơn chiến Ý đã bị bao vây, tiêu diệt. Số quân Đức và đồng minh bị bắt làm tù binh lên đến 86.000 người. Thất bại của tập đoàn quân 2 (Đức), tập đoàn quân 2 Hungary và quân đoàn Alpino Ý đã đẩy cánh quân Đức đang đối diện với khu vực Voronezh vào tình thế bị uy hiếp từ phía nam trong khi thống chế Maximilian Freiherr von Weichs không còn trong tay một lực lượng dự bị đáng kể nào tại khu vực mặt trận này. Chiến dịch Ostrogozhsk-Rossosh đã tạo bước chuyển biến thuận lợi cho quân đội Liên Xô tiếp tục tiến hành Chiến dịch Voronezh-Kastornoye và Chiến dịch Kharkov sau này.
Trên hướng Voronezh - Kastornoye
Quân đội Liên Xô triển khai chiến dịch Voronezh-Kastornoye
Kết quả thắng lợi lớn của Chiến dịch Ostrogozhsk - Rossosh đã làm cho cụm quân Đức - Hungary đóng trong vùng Voronezh, Kastornoye bị hở một khoảng dài hơn 100 km tại sườn phía nam. Sườn phía bắc của cụm quân này cũng đang bị Tập đoàn quân 13 của Phương diện quân Briansk uy hiếp. Những điều kiện thuận lợi cho việc đánh bại các lực lượng Đức đóng đối diện với khu vực Voronezh, Kastornoye đã xuất hiện. Cũng như tại Chiến dịch Ostrogozhsk-Rossosh trước đó, tại khu vực thượng lưu và trung lưu sông Đông, quân đội Đức Quốc xã không còn các đơn vị dự bị cơ động để tăng viện cho các hướng bị uy hiếp. Quân số và phương tiện của các đơn vị còn lại của Cụm tập đoàn quân B cũng bị tiêu hao bởi các trận đánh nhỏ lẻ hàng ngày và chiến tranh du kích Ngày 28 tháng 1, trong một trận đánh quyết định, họ đã phá vỡ tuyến phòng thủ của quân Đức quanh Kastornoye và chiếm lại thành phố này vào buổi sáng ngày hôm sau. Khi các tuyến đường chính có thể sử dụng để rút lui của quân Đức đã bị quân đội Liên Xô cắt đứt thì có đến 10 sư đoàn quân Đức và 2 sư đoàn quân Hungary bị vây chặt ở phía đông nam thị trấn Kastornoye và mọi cố gắng của quân Đức để phá vây đều trở nên vô ích. Toàn bộ 125.000 quân bị vây, trong đó có đến 83% là quân Đức đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt. Tiếp sau Chiến dịch Ostrogozhsk-Rossosh, chiến dịch Voronezh-Kastornoye đã tiêu diệt một nhóm quân lớn thứ hai của Cụm tập đoàn quân B (Đức) trong khu vực Voronezh-Kursk, đặt nhóm quân Đức còn lại đang đóng tại khu vực Kharkov-Belgorod với binh lực rất mỏng vào tình thế bị đe dọa bao vây và tiêu diệt. Quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng Kharkov lần thứ hai, tháng 3 năm 1943 Chiến dịch Belgorod-Kharkov có tên mã là "Chiến dịch Ngôi Sao" (tiếng Nga: Oпераций «Звезда») được phát động Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) phát động ngày 2 tháng 2 năm 1943 như một sự tiếp nối với hai chiến dịch Ostrogozhsk-Rossosh và Voronezh-Kastornoye trước đó. Chiến dịch này đã diễn ra song song với "Chiến dịch Bước nhảy vọt" (Oпераций «Скачок»), một chiến dịch thất bại nặng nề do Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) thực hiện ở khu vực Nam Donets-Donbass. Bắt đầu tấn công từ ngày 2 tháng 2 tại khu vực Oboyan-Belgorod, đến ngày 16 tháng 2, Phương diện quân Voronezh mới chiếm được Kharkov một cách chật vật và không những không còn lực lượng để tiếp tục tấn công mà còn tiêu hao nốt những đội dự bị cuối cùng lẽ ra phải được bố trí để giữ vững thành phố vừa lấy lại được. Bị mê hoặc bởi giả thuyết "Quân Đức đang tháo chạy về tuyến sông Dniepr", không chỉ tướng F.I. Golikov, Tư lệnh Phương diện quân Voronezh mà cả tướng N.F. Vatutin, Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam cũng đòi hỏi "Phải có những hành động kiên quyết". Bị thôi thúc bởi ý tưởng tái thực hiện lại ý đồ hợp vây quân Đức tại Kharkov trong Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya không thành công gần một năm trước đó, Tổng tư lệnh tối cao Stalin cuối cùng cũng xiêu lòng trước đề nghị của các tư lệnh Phương diện quân mà không tỏ ra một chút băn khoăn về tình trạng hao quân trầm trọng của các đơn vị này sau hơn một tháng chiến đấu liên tục trong bão tuyết, đồng thời đã phải di chuyển trên chiều sâu hơn 300 km và mở rộng thêm chính diện lên đến hơn 800 km. Kết quả là quân đội Liên Xô chỉ trụ lại được tại Kharkov 30 ngày và sau đó, phải rút quân về phía bắc Belgorod sau khi Phương diện quân Voronezh được tăng cường Tập đoàn quân 21 và Tập đoàn quân xe tăng 1.
Chiến dịch Donets và sự hình thành mặt Nam của vòng cung Kursk
Sư đoàn xe tăng 3 Neumann (Đức) tấn công Kharkov, tháng 3 năm 1943
Dựa trên những lợi thế chiến lược mới có được ở cánh Nam mặt trận Xô-Đức, một kế hoạch đầy tham vọng được Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) được hoạch định để tiếp tục đánh chiếm Kharkov, phối hợp với một cuộc tấn công của Phương diện quân Briansk vào Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) tại "chỗ lõm" ở Orel trước khi tiếp tục đột phá hướng về Bryansk. Một chiến dịch nữa (Chiến dịch Bước Nhảy Vọt) không kém phần phiêu lưu của Phương diện quân Tây Nam cũng được tiến hành. Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô đã cảnh báo về tình trạng hao quân tại các tập đoàn quân và về tình trạng chưa sẵn sàng, về những khó khăn của công tác hậu cần trong việc tiếp tế cho các tập đoàn quân đã tiến xa đến hơn 650 km ở phía tây Stalingrad nhưng cả F. I. Golikov (tư lệnh Phương diện quân Voronezh), N. F. Vatutin (Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam) đều quả đoán rằng "quân Đức đang rút chạy về tuyến sông Dniepr và đây là thời điểm tốt nhất để tấn công truy kích".
Việc quân Đức rút bỏ khỏi "chỗ lồi" Rzhev-Viazma ngày 2 tháng 3 và cuộc rút quân của Quân đoàn xe tăng 2 SS ra khỏi Kharkov ngày 15 tháng 2 được các tướng lĩnh chỉ huy các Phương diện quân Voronezh và Tây Nam (Liên Xô) đánh giá là một hành động rút chạy nhưng sự thật không phải như vậy. Quân đội Đức Quốc xã rút khỏi Rzhev-Viazma không chỉ để cứu viện cho cánh Nam mà còn để tập trung lực lượng phản công tại tả ngạn Ukraina. Cuộc phản công của Manstein, được tăng cường bởi Quân đoàn xe tăng 2 SS với những chiếc xe tăng Tiger, mở màn vào 19 tháng 2 năm 1943 và đến tuần thứ ba của tháng 3, khi mùa tuyết tan vừa tới, đã đẩy lùi quân Liên Xô từ Poltava về bên kia sông Bắc Donets. Do kịp thời đưa những lực lượng mới gồm Tập đoàn quân xe tăng 1 từ lực lượng dự bị và Tập đoàn quân 21 từ Phương diện quân Briansk đến lấp vào lỗ trống do Tập đoàn quân xe tăng 3 và Tập đoàn quân 69 thua trận ở Kharkov để lại, Quân đội Liên Xô đã chặn đứng Tập đoàn quân xe tăng 4 và Quân đoàn xe tăng 2 SS trên tuyến Sumy, Krasnopol, Ploretarysk, Yakovlevsk, Belgorod, Volchansk, hình thành mặt chính diện phía nam của vòng cung Kursk. Đến đây, cả hai bên đều tạm ngưng chiến và tiếp tục tập trung binh lực để chuẩn bị cho trận Kursk. Theo tướng Kurt von Tippelskirch, ý đồ này đã làm "quá tải" các quân đội Đức khi tính bình quân cho mỗi tập đoàn quân phải tác chiến trên một chính diện từ 350 đến gần 600 km trong khi quân số và phương tiện không phải là vô hạn. Không những thế, nó còn làm cho các đơn vị ở tuyến trước ngày càng xa rời các đầu mối căn cứ hậu cần và không quân chủ yếu như Rostov, Poltava, Dniepropetrovsk, Zaporozhye từ 700 đến 900 km. Thế nhưng Adolf Hitler vẫn quyết định làm như vậy khi ông ta khăng khăng cho rằng: "Chỉ cần một cú huých mạnh bằng các tập đoàn quân xe tăng là chế độ Xô Viết sẽ đổ nhào".
Đưa quân vào Kavkaz, Adolf Hitler và một số tướng lĩnh Đức Quốc xã cho rằng có thể cắt đứt nguồn dầu mỏ Baku mà họ coi là một trong các nguồn nhiên liệu cơ bản của Liên Xô, cắt đứt con đường bộ nối Liên Xô với các nước đồng minh qua Iran, kích động các thế lực chống đối Xô viết trong các cộng đồng dân tộc ít người ở khu vực Kavkaz, lôi kéo Thổ Nhĩ Kỳ vào vòng chiến chống Liên Xô và các nước đồng minh chống phát xít và xa hơn nữa là để chuẩn bị cuộc hội ngộ với Nhật Bản, người "cùng hội cùng thuyền" với nước Đức Quốc xã trong phe Trục.
Quân đội Đức Quốc xã tấn công
phải|Diễn biến chiến sự trên cánh Nam của [[Chiến tranh Xô-Đức|Mặt trận Xô-Đức từ ngày 23 tháng 7 đến 18 tháng 11 năm 1942]]
Tức giận vì những sự chậm trễ trong việc kết liễu Liên Xô và tin rằng chế độ Xô Viết đang trên đà tan rã, Adolf Hitler đã thực hiện một loạt những thay đổi đối với kế hoạch tác chiến. Ngày 7 tháng 7 năm 1942, Hitler quyết định chia Cụm tập đoàn quân Nam thành Cụm tập đoàn quân A và Cụm tập đoàn quân B. Dưới sự chỉ huy của thống chế Wilhelm von List, Cụm tập đoàn quân A bao gồm Tập đoàn quân xe tăng 1, các tập đoàn quân bộ binh 11 và 17 (Đức) chịu trách nhiệm tác chiến trên hướng Kavkaz. Cụm tập đoàn quân B dưới sự chỉ huy của thống chế Maximilian von Weichs, gồm các tập đoàn quân 2 và 6 (Đức), các tập đoàn quân xe tăng 2 và 4 (Đức), các tập đoàn quân Romania 3 và 4, Tập đoàn quân 8 Ý và Tập đoàn quân 2 Hungary chịu trách nhiệm tác chiến tại hướng Volga-Đông.
Thành công ban đầu của Tập đoàn quân 6 (Đức) trong Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya hồi tháng 5 năm 1943, tiếp đó là các thành công trong Chiến dịch Voronezh, Chiến dịch Braunschweig và cuối cùng là sự kiện Tập đoàn quân này đã tiến ra bờ sông Volga ở phía bắc Stalingrad ngày 25 tháng 8 năm 1942 đã gây ấn tượng mạnh cho Hitler đến nỗi ông ta đã lệnh cho Tập đoàn quân xe tăng 4 tiến xuống phía nam để cùng với Tập đoàn xe tăng 1 thực hiện một cuộc vượt sông tại hạ lưu sông Đông để đột nhập vào Kuban. Việc thay đổi đột ngột thế bố trí và hướng tấn công của Tập đoàn quân xe tăng 4 đã gây ra những vấn đề hậu cần nghiêm trọng khi mạng lưới đường sắt phía sau mặt trận của quân Đức ở cánh Nam không đáp ứng được một khối lượng luân chuyển quân đội và phương tiện khổng lồ như vậy. Sự tắc nghẽn giao thông sau đó đã làm chậm quá trình tấn công của cả hai Cụm tập đoàn quân A và B. Nó cũng khiến Tập đoàn quân 6 chỉ nhận được sự yểm hộ của một quân đoàn xe tă