✨Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya

Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya

Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya (Lozova) (được Thống chế Đức Wilhelm Bodewin Gustav Keitel gọi là Trận Kharkov lần thứ hai) là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã tại sườn phía Nam mặt trận Xô-Đức, chiến trường chính của chiến dịch là khu vực tam giác Barvenkovo-Vovchansk-Krasnograd ở phía Đông Kharkov, trên khu vực nằm giữa hai con sông Bắc Donets và Oskol. Dựa vào ưu thế tương đối về binh lực tại khu vực mặt trận Tây Nam, Phương diện quân Tây Nam đã đệ trình kế hoạch chiến dịch từ cuối tháng 2 năm 1942 với ý đồ chiếm lại Kharkov bằng hai đòn vu hồi từ phía Bắc và phía Nam. Kế hoạch này bị Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô phản đối vì khi tính toán tại thì thấy không được bảo đảm về nhân lực và vật chất. Tuy nhiên, I. V. Stalin lại ủng hộ kế hoạch này và lệnh cho Bộ Tổng tham mưu phải tuân thủ do Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam S. K. Timoshenko cam đoan sẽ thành công.

Khởi đầu ngày 12 tháng 5, sau ba ngày tấn công, bốn tập đoàn quân bộ binh và hai quân đoàn xe tăng Liên Xô đã tiến công đến cách phía Bắc và phía Nam Kharkov khoảng 40 đến 60 km. Ngày 14 tháng 5, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) bắt đầu giai đoạn đệm của Chiến dịch Blau với mục đích chiếm một số bàn đạp chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công lớn vào mùa hè tại phía Nam mặt trận Xô-Đức. Sự cố tình trì hoãn việc dừng chiến dịch khi hậu cứ các cánh quân tấn công bị uy hiếp của nguyên soái S. K. Timoshenko đã khiến Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) đã phải trả giá đắt. Hai tập đoàn quân và hai quân đoàn xe tăng bị bốn tập đoàn quân Đức và Tập đoàn quân 2 Hungary bao vây tiêu diệt và bị bắt làm tù binh. Hai tập đoàn quân và hai quân đoàn xe tăng khác bị thiệt hại nặng. Phương diện quân Tây Nam và Phương diện quân Nam (Liên Xô) phải rút lui về sông Oskol. Một tháng sau, với binh lực lên đến 102 sư đoàn, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) được tăng cường Tập đoàn quân xe tăng 4 từ Cụm tập đoàn quân Trung tâm tiếp tục tấn công, đánh chiếm tuyến đường sắt bên hữu ngạn sông Đông, chiếm một loạt các vị trí quan trọng trên bờ Tây sông Đông và mở các chiến dịch Braunschweig tấn công trực diện vào Stalingrad, chiến dịch Edelweiss tràn vào Bắc Kavkaz.

Do mặt trận ngày càng mở rộng với tổng chiều dài chính diện từ hơn 1.400 km (năm 1941) lên hơn 2.500 km (đầu năm 1942), Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã đã điều động thêm nhiều đơn vị từ Tây Âu và nước Đức tăng cường cho Mặt trận phía Đông, nâng tổng số các đơn vị chiến đấu lên 178 sư đoàn, 8 lữ đoàn và 4 tập đoàn không quân Đức cùng 39 sư đoàn và 12 lữ đoàn quân của các nước đồng minh Đức như România, Italia, Hungary. Tổng quân số gồm 5.400.000 quân Đức, 810.000 quân các nước đồng minh của Đức; 3.230 xe tăng và pháo tự hành; gần 57.000 pháo và súng cối, 3.400 máy bay chiến đấu. Cùng thời điểm này, quân đội Liên Xô có 5.534.500 người, 4.959 xe tăng và pháo tự hành, 40.798 pháo và súng cối, 2.480 máy bay. Tuy có ưu thế về xe tăng nhưng chất lượng phần lớn xe tăng Liên Xô vẫn kém xe tăng Đức. Tại cánh Nam của mặt trận Xô-Đức, Tập đoàn quân xe tăng 1 của tướng Ewald von Kleist sau khi rút khỏi Rostov với những thiệt hại đáng kể đã được bù đắp bởi 3 sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn cơ giới rút từ châu Âu sang. Tập đoàn quân này đã chuyển đến khu vực Slaviansk - Kramatorsk để phục vụ cho ý đồ chiến dịch Blau mà quân đội Đức trù tính sẽ khởi sự vào đầu mùa hè năm 1942. Tại cánh Bắc của Cụm tập đoàn quân Nam cũng được tăng cường bởi Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) chuyển từ Cụm tập đoàn quân Trung tâm sang, tập trung tại khu vực Belgorod, Kursk, Oryol.

Tại Hội nghị quân sự tháng 2 năm 1942, Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô I. V. Stalin cho rằng quân Đức sẽ tấn công trên hai hướng quan trọng nhất là khu vực Moskva và mặt trận hướng Nam, trong đó hướng Moskva là trọng điểm. Khi Bộ Tổng tham mưu đề nghị chỉ nên phòng ngự tích cực để tiêu hao các lực lượng Đức thì I. V. Stalin lại muốn mở một số cuộc tấn công có tính chất cục bộ tại Krym, khu vực Kharkov, khu vực Lgov-Kursk, khu vực Smolensk, khu vực Leningrad và "chỗ lõm" Demyansk. Ông cho rằng trong lúc này, quân đội phát xít Đức đã bị suy yếu nghiêm trọng sau thất bại tại Moskva, vì vậy các cuộc tấn công này có thể cải thiện tình thế chiến lược của các phương diện quân. I. V. Stalin muốn khai thác tối đa sự suy yếu của quân Đức bằng các chiến dịch tấn công trong mùa xuân. Ông cho rằng các đợt tấn công chủ động vào mùa xuân sẽ gây thiệt hại lớn cho quân Đức và đập tan dự định tấn công vào Moskva của Đức ngay từ trong trứng nước. Zhukov, tháng 10 năm 1941 Quyết định của I.V. Stalin gặp phải sự phản đối quyết liệt của Bộ Tổng tham mưu cũng như của Đại tướng G. K. Zhukov và A. M. Vasilevsky. Zhukov đồng ý với Bộ Tổng tham mưu và cho rằng Tổng tư lệnh đã đưa ra quá nhiều cuộc tấn công trong khi lực lượng dự bị chưa được xây dựng xong để phục hồi sức chiến đấu của quân đội. Ông cho rằng chỉ nên mở một cuộc tấn công cục bộ để xóa bỏ bàn đạp của quân Đức tại khu vực Rzhev - Vyazma và giải vây cho số quân Liên Xô đang mắc kẹt tại đây. Ý kiến này của Zhukov bị Stalin cho đó là sự nửa vời, là việc khoanh tay ngồi chờ quân Đức tấn công. Bất chấp những lời cảnh báo của các tướng lĩnh và Bộ Tổng Tham mưu, I. V. Stalin quyết định tổ chức một số trận tiến công cục bộ nhằm giáng cho quân Đức một đòn bất ngờ. Về tình hình lúc đó, Vasilevsky viết:

Khi I. V. Stalin hỏi đến mặt trận hướng Tây Nam, Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam, nguyên soái S. K. Timoshenko lại cho rằng phương diện quân của ông đã có thể và cần thiết phải đánh bại quân Đức trên hướng này. Ý kiến của S. K. Timoshenko được K. E. Voroshilov ủng hộ. Mặc dù G. K. Zhukov tiếp tục phản đối nhưng kết luận cuối cùng vẫn thuộc về Tổng tư lệnh tối cao. Mặc dù các chuyên gia của Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô đã chỉ ra rằng để thực hiện chiến dịch tại khu vực Barvenkovo - Vovchansk thì cần phải có những lực lượng dự bị to lớn mà hiện nay chưa thể có được nhưng I. V. Stalin vẫn lệnh cho Bộ Tổng tham mưu phải chuẩn bị tiến hành các chiến dịch cục bộ tạị Krym và khu vực Kharkov.

Những nhận định của I. V. Stalin, S. K. Timoshenko và K. E. Voroshilov đã tỏ ra sai lầm rất lớn với tình hình thực tế. Sau trận phản công tại Moskva, quân đội Đức Quốc xã đã ráo riết chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công mùa hè của họ. Tháng 4 năm 1942, Bộ Tổng tham mưu Đức đã hoàn chỉnh Kế hoạch Xanh và trình lên Adolf Hitler. Ngày 5 tháng 4 năm 1942, Hitler đã phê chuẩn kế hoạch này bằng Chỉ thị số 41 yêu cầu tập trung 102 sư đoàn tại cánh Nam của mặt trận Xô-Đức để triển khai cuộc tổng tấn công mùa hè, đánh chiếm Donbass, tiến ra sông Đông, xa hơn nữa đến sông Volga và tràn vào Bắc Kavkaz nhằm cắt đứt liên lạc của Liên Xô với các đồng minh thông qua Iran. Viễn tưởng hơn nữa, Hitler còn đặt mục tiêu hội quân giữa quân đội Đức tại Liên Xô và Tập đoàn quân 20 của Thống chế Erwin Rommel ở Ai Cập để cùng tiến vào Ấn Độ, cùng phân chia Ấn Độ với quân đội Đế quốc Nhật Bản lúc này đã tiến đến Miến Điện.

Binh lực và kế hoạch của hai bên

Quân đội Liên Xô

Binh lực

Lực lượng tham gia vào cuộc tấn công của quân đội Liên Xô gồm cánh trái của Phương diện quân Tây Nam và cánh phải của Phương diện quân Nam; được bố trí như sau: *Phương diện quân Tây Nam do Nguyên soái S.K. Timoshenko làm Tư lệnh, Trung tướng I.Kh. Bagramian làm Tham mưu trưởng, Chính ủy Sư đoàn K.A. Gurov làm Ủy viên hội đồng quân sự; huy động 4/6 tập đoàn quân trên cánh trái tham gia chiến dịch:) - phần lớn các binh sĩ Hồng quân trong thời điềm này là lực lượng vừa mới được động viên và dĩ nhiên kinh nghiệm chiến trường cùng với sự huấn luyện của họ rất nghèo nàn. Liên Xô cũng đang trong quá trình chịu nhiều khó khăn về hậu cần do nhiều trung tâm công nghiệp, nông nghiệp lớn của họ đã bị phát xít Đức chiếm giữ. Về sau, Nguyên soái A.M. Vasilevsky cho rằng chiến lược thích hợp trong giai đoạn lúc đó đáng ra phải là "phòng ngự chiến lược tạm thời". Cũng theo Nguyên soái Vasilevsky lực lượng Hồng quân năm 1942 chưa được chuẩn bị đầy đủ để chủ động tổ chức một chiến dịch tấn công nhằm vào quân Đức vốn có trang bị và huấn luyện tốt hơn; rõ ràng là Hồng quân không có đủ ưu thế về quân số cũng như về "chất lượng" của binh sĩ, và vì đội ngũ cán bộ chỉ huy các cấp vẫn đang trong quá trình phục hồi sau giai đoạn đen tối năm 1941.

Kế hoạch

Kế hoạch tấn công do Nguyên soái S.K. Timoshenko trình bày tại hội nghị của Đại bản doanh ngày 27 tháng 3 gồm hai mũi tấn công theo chiến thuật gọng kìm vào phía Bắc và phía Nam Kharkov. Mũi phía Nam là mũi chủ công do Tập đoàn quân 6 thực hiện. Cụm xung kích của tập đoàn quân này do thiếu tướng xe tăng L.V. Bovkin chỉ huy xuất phát từ phòng tuyến trên sông Orel tấn công qua Staraya Vodolaga - Rakitnoye - Merefa - Zmiev rồi đột kích vào Kharkov từ phía Nam. Dành một phần lực lượng bên cánh trái của tập đoàn quân đột kích đến Krasnograd để che đỡ sườn trái. Mũi phía Bắc lấy tập đoàn quân 28 mới được tổ chức lại làm chủ lực, vượt sông Bắc Donets tấn công vào Vovchansk - Livny, đột kích Kharkov từ phía Bắc, phát triển đến Kozacha Lopan và Dergachi. Tập đoàn quân 38 ở giữa mặt trận có nhiệm vụ kiềm chế Tập đoàn quân 6 (Đức) tại các khu phòng thủ Chuguev và Balaklaya. Tập đoàn quân 21 ở cánh cực Bắc cũng có nhiệm vụ giữ chân cánh phải của Tập đoàn quân xe tăng 4 và Quân đoàn 2 Hungary ở khu vực Belgorod. Trên hướng Nam, các tập đoàn quân 9 và 57 có nhiệm vụ ngăn chặn các Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân 17 (Đức), giữ chặt tuyến phòng thủ Lozovaya - Kramatorsk - Sloviansk, che chở cho Tập đoàn quân 6 (Liên Xô) từ phía sau. Kế hoạch cũng dự kiến lấy xe tăng và kỵ binh làm lực lượng đột kích chủ lực. Cụm xung kích của Tập đoàn quân 6 có 4 lữ đoàn xe tăng và 1 quân đoàn kỵ binh. Cụm xung kích của tập đoàn quân 28 có 5 lữ đoàn xe tăng và 1 quân đoàn kỵ binh. Cánh phải của Tập đoàn quân 38 tham gia tấn công cũng điều động 3 lữ đoàn xe tăng. Nguyên soái Timoshenko tin rằng quân đội Đức đã chịu thiệt hại nặng về binh lực, vũ khí và trang thiết bị chiến đấu, và rằng họ không có đủ thời gian đủ dài để nghỉ ngơi dưỡng quân và nhận được sự tăng viện lớn từ hậu phương nước Đức nên không thể tiến hành những hành động mạnh mẽ. Khi phân tích vấn đề này, Timoshenko tin rằng với ưu thế tương đối đã đạt được trên hướng tấn công chủ yếu, Phương diện quân có thể lấy lại Kharkov và một phần Donbass. Toàn bộ 925 xe tăng hiện có của Phương diện quân Tây Nam được huy động cho cuộc tấn công. Phương diện quân Nam chỉ có 450 xe tăng, dự kiến được sử dụng cho các trận đánh phòng ngự là chính. Tuy nhiên, khi nhận xét về tình hình đối phương, Tham mưu trưởng Phương diện quân Tây Nam I.Kh. Bagramian đã phải thừa nhận rằng:

Một vấn đề phát sinh ở đây là, việc chuẩn bị và tập hợp lực lượng ở khu vực mặt trận gặp nhiều cản trở nghiêm trọng. Một nguyên nhân là trong thời gian này, mặt đất đã biến thành các bãi bùn sình lầy lội, điều này khiến cho thời gian huy động lực lượng bị kéo dài. Nhiều tướng lĩnh Hồng quân cũng chỉ trích các sĩ quan chỉ huy phương diện quân về những yếu kém trong khâu tập hợp, chuẩn bị và quản lý lực lượng, trong việc tổ chức tấn công cũng như thái độ quan liêu, "chỉ tay năm ngón" của họ, điều này Nguyên soái Vasilevsky đã chỉ ra trong hồi ký của mình. Chính vì việc chuẩn bị quân lực quá cẩu thả, quân Đức đã có thể đoán biết được kế hoạch và các hướng tấn công của Hồng quân. K.S. Moskalenko, lúc ấy là chỉ huy của Tập đoàn quân số 38, chỉ trích các sĩ quan chỉ huy phương diện quân về việc họ không chuẩn bị sẵn một kế hoạch điều binh và điều này thể hiện sự yếu kém trong công tác quản lý binh lực của phương diện quân. Ông kết luận rằng việc "phát xít Đức đoán trước được kế hoạch của chúng ta" là điều hiển nhiên.

Quân đội Đức Quốc xã

Binh lực

[[Thống chế (Đức Quốc xã)|Thống chế Fedor von Bock Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) từ 15 tháng 3 năm 1942]] Thượng tướng Thiết giáp [[Friedrich Paulus
tháng 6/1942]] Từ ngày 22 tháng 6 năm 1941 đến ngày 30 tháng 4 năm 1942, tại mặt trận Xô-Đức, Quân đội Đức Quốc xã đã bị thiệt hại to lớn. Chỉ tính riêng về người, thương vong đã lên đến 34.395 sĩ quan, 1.133.440 hạ sĩ quan và binh sĩ, tổng số thiệt hại là 1.167.835 người Để phục hồi sức chiến đấu cho chuẩn bị cho Chiến dịch Blau, quân đội Đức Quốc xã đã huy động đến hướng Nam và Tây Nam của mặt trận Xô-Đức 102 sư đoàn, trong đó có nhiều sư đoàn còn sung sức được rút từ nước Pháp, Đông Âu và cả trong nội địa nước Đức. Bộ chỉ huy các Cụm tập đoàn quân của Đức cũng có sự thay đổi. Thống chế Gerd von Rundstedt được điều sang chỉ huy các lực lượng Đức tại Tây Âu. Thống chế Fedor von Bock trao lại Cụm tập đoàn quân Trung tâm cho thống chế Günther von Kluge để nhận chức Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam.

Tại thời điểm tháng 5 năm 1942, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) do thống chế Fedor von Bock làm tư lệnh tại mặt trận Barvenkovo - Vonchansk có các đơn vị sau: *Tập đoàn quân 6 của Thượng tướng Thiết giáp Friedrich Paulus chỉ huy (thay thống chế Walther von Reichenau chết ngày 12 tháng 1 năm 1942 do máy bay chở ông ta bị rơi); trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh 8 (quân đoàn Breslau) của Trung tướng Walter Heitz gồm các sư đoàn bộ binh 62, 108, 113, 454 và lữ đoàn quân cảnh 408. Quân đoàn bộ binh 17 của Thượng tướng Bộ binh Karl Strecker gồm các sư đoàn bộ binh 75, 79, 294; lữ đoàn xe bọc thép trinh sát 66 và trung đoàn công binh 417. Quân đoàn bộ binh 29 của Thượng tướng Bộ binh Hans von Obstfelder gồm các sư đoàn bộ binh 57, 168, 299 và lữ đoàn công binh 429. Quân đoàn cơ giới 40 của Thượng tướng Thiết giáp Georg Stumme gồm các sư đoàn xe tăng 3, 23, sư đoàn cơ giới 29, các sư đoàn bộ binh 331, 336 và sư đoàn công binh 440. Quân đoàn bộ binh 51 của Trung tướng (sau thăng Thượng tướng Pháo binh) Walther von Seydlitz-Kurzbach gồm các sư đoàn bộ binh 44, 71, 297 và sư đoàn quân cảnh 451. Trong chiến dịch được tăng viện sư đoàn bộ binh 305. Tập đoàn quân xe tăng 4 có Quân đoàn xe tăng 14 tham gia chiến dịch gồm sư đoàn xe tăng 16, sư đoàn xe tăng SS "Wiking". sư đoàn bộ binh 100 và sư đoàn khinh binh Slovakia do các sĩ quan Đức chỉ huy. Tập đoàn quân 17 do Thượng tướng Bộ binh Hans von Salmuth chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn hỗn hợp 44 của Thượng tướng Pháo binh Maximilian de Angelis gồm các sư đoàn bộ binh 68, 101, 257; sư đoàn pháo binh 27; sư đoàn pháo phòng không 279; sư đoàn không quân tiêm kích 861; các trung đoàn không quân ném bom 17 và 42 và sư đoàn công binh 8. Quân đoàn bộ binh 4 của Thượng tướng Bộ binh Viktor von Schwedler gồm các sư đoàn bộ binh 9, 68, 76, 94 và 295, sư đoàn cơ giới trinh sát 23, sư đoàn pháo binh 849, sư đoàn súng cối 245, trung đoàn pháo hạng nặng 704, các trung đoàn pháo phòng không 8 và 24, sư đoàn công binh 601. Quân đoàn bộ binh 52 (quân đoàn Hannover) của Thượng tướng Bộ binh Eugen Ott gồm các sư đoàn bộ binh 50, 111 và 370, sư đoàn mô tô trinh sát 32, sư đoàn pháo binh 658, trung đoàn pháo chống tăng 66. *Tập đoàn quân xe tăng 1 do Đại tướng Paul Ludwig Ewald von Kleist chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng 3 mới được điều đến từ nước Đức do Thượng tướng Thiết giáp Leo Geyr von Schweppenburg chỉ huy, gồm các sư đoàn xe tăng 6, 7, 19 và sư đoàn bộ binh 168. Quân đoàn xe tăng 40 của Thiếu tướng Gustav Fehn mới được điều từ Pháp sang gồm các sư đoàn xe tăng 3, 23, sư đoàn pháo chống tăng tự hành 670 và sư đoàn bộ binh 13. *Quân đoàn bộ binh 11 của Thượng tướng Bộ binh Joachim von Kortzfleisch gồm sư đoàn bộ binh 73, sư đoàn bộ binh sơn chiến 1, các sư đoàn kỵ binh 5, 6 Romania. Tập đoàn quân 2 do Đại tướng Maximilian von Weichs chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh 55 (Quân đoàn Pillau) của Thiếu tướng Rudolf Freiherr von Roman gồm các sư đoàn bộ binh 45, 95, 299 và lữ đoàn bộ binh 1 của lực lượng SS. Quân đoàn bộ binh 6 của Thượng tướng Bộ binh Bruno Bieler gồm các sư đoàn bộ binh 6, 26, 256; sư đoàn pháo binh 69, trung đoàn pháo binh 57, các trung đoàn pháo hạng nặng 808 và 848, sư đoàn công binh 10. Quân đoàn bộ binh 2 Hungary gồm 5 sư đoàn. Sư đoàn bộ binh độc lập 88.

Kế hoạch

Trong khi Hồng quân Liên Xô chỉ có thể phỏng đoán được lực lượng của quân đội Đức thì tình báo Đức lại nắm khá rõ về các lực lượng dự bị của Liên Xô đang xây dựng trong mùa xuân năm 1942. Theo báo cáo của tùy viên quân sự Phần Lan tại Ankara làm việc cho cơ quan tình báo quân sự Đức Abwehr: tại các khu vực của Ufa, Kazan, Astrakhan, Orenburg, quân đội Liên Xô đang tổ chức khoảng 20 đến 25 sư đoàn bộ binh và kỵ binh; tại các khu vực Kazan, Kirov, Vologda, Tambov và phía đông của Moskva cũng có đến 30 sư đoàn bộ binh và 10 lữ đoàn xe tăng đang được xây dựng và huấn luyện, tại khu vực Ural cũng đang tập trung khoảng 10 sư đoàn lấy từ quân dự bị động viên. Tổng cộng có khoảng 50 đến 60 sư đoàn tương đương 6 đến 7 tập đoàn quân (theo cách tính biên chế kiểu Đức) đang được Nguyên soái S. M. Budyonny tư lệnh các lực lượng dự bị của quân đội Liên Xô chỉ đạo tổ chức.

Ngày 5 tháng 4, Hitler ký ban hành Chỉ thị 41 về việc triển khai chiến dịch Blau. Mục đích của chiến dịch được hoạch định ngay sau khi Tập đoàn quân số 11 của Erich von Manstein giành được thắng lợi tại Krym. Lần này trọng tâm chiến sự hướng về phía Nam với mục tiêu chính là vựa dầu vùng Kavkaz cùng một mục tiêu phụ là thành phố Stalingrad. Vì vậy cụm Tập đoàn quân Nam được chú ý bổ sung và trang bị tối đa cho chiến dịch. Ngày 11 tháng 4, Bộ Tổng tham mưu Đức đã ra các mệnh lệnh quy định trình tự thực hiện kế hoạch này. Trước hết là dự kiến thương vong và tuyển quân đợt mới đối với những người Đức sinh từ năm 1924 trở về trước (đủ 18 tuổi). Bộ Tổng tham mưu Đức dự kiến với mức độ thương vong như hiện tại thì đến ngày 1 tháng 5 năm 1942 đã cần bổ sung ngay 318.000 quân; từ tháng 5 đến tháng 9 cần động viên tiếp tục 960.000 quân. Tuy nhiên, nếu làm như vậy thì đến cuối năm, quân đội Đức sẽ cạn hết lực lượng dự bị. Cuối cùng, các tướng lĩnh tham mưu Đức đều thống nhất trước hết, hãy phát lệnh động viên 260.000 người cho lục quân và đưa 240.000 người thuộc niên hạn nhập ngũ cuối năm 1941, đã qua hai tháng huấn luyện quân sự đến mặt trận Xô-Đức.

Ngày 19 tháng 4, có tin đồn về một cuộc tấn công của quân đội Liên Xô nhằm vào ngày sinh nhật Hitler nhưng đến ngày 20 tháng 4, tình hình mặt trận vẫn yên tĩnh. Việc tăng viện cho quân đội Đức tại mặt trận vẫn thực hiện đều đặn nhưng chưa đạt mức yêu cầu. Theo báo cáo của Bộ Tổng tham mưu Đức thì mặt trận phía Đông mới chỉ nhận được 1.847/2.340 xe tăng cần bổ sung; 7.411/74.183 xe cơ giới các loại. Số xe này đủ trang bị mới cho 10 sư đoàn xe tăng. Ngoài ra, quân Đức tại mặt trận đã nhận được 28.000 súng trường, 14.000 súng tiểu liên MG-34, 7.000 khẩu pháo hạng nặng và 1.900 pháo dã chiến đủ trang bị cho 5 sư đoàn bộ binh. Đã có 179.609 ngựa chiến bị chết từ 11 tháng 10 năm 1941 đến nay nhưng quân Đức chỉ nhận được bổ sung 20.000 con. Sau một tháng tăng cường lực lượng bổ sung, các sư đoàn Đức tại Cụm tập đoàn quân Nam đã đạt biên chế tương đương biên chế chuẩn, đặc biệt là các sư đoàn xe tăng và cơ giới; các cụm tập đoàn quân Bắc và Trung tâm chỉ đạt từ 50% đến 75% biên chế chuẩn. Ngoài ra, quân Đức còn huy động đến mặt trận phía Đông 195.000 nhân công lao dịch thuộc tổ chức Todt, trong đó có 45.000 người Đức và 150.000 người các nước khác; được biên chế vào 200 tiểu đoàn lao công để thay thế cho khoảng 1/3 lính công binh (khoảng 10 sư đoàn) được chuyển thành bộ binh. Vấn đề phục hồi và tăng cường số quân, trang bị của quân Đức trên mặt trận Xô-Đức về cơ bản đã được giải quyết. Đây là đòn "hồi mã thương" nhằm vào các đơn vị Hồng quân đang đóng tại cung lồi Izium - Barvenkovo. Nhiệm vụ hủy diệt lực lượng Hồng quân tại Izium được giao cho Tập đoàn quân số 6 của Paulus, và lệnh ban xuống nói rằng ngày khởi sự tốt nhất có thể là ngày 18 tháng 5 năm 1942. Tuy nhiên, trên thực tế thì Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) mới là đơn vị đóng vai trò chủ chốt trong việc thực hiện nhiệm vụ này.

Ý đồ của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức trong Chiến dịch Blau là sử dụng hai tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 làm hai mũi đột tấn công theo các hướng song song. Một cánh từ Kursk qua Kastornoye và Stary Oskol về hướng Voronezh - Liski; một cánh từ khu vực Slaviansk - Kramatorsk đánh sang Millerovo và rẽ xuống Rostov. Qua đột phá khẩu đã được xe tăng Đức mở ra, các tập đoàn quân 6, 17 sẽ tấn công về hướng Stalingrad, tiến ra sông Volga và Kavkaz. Tập đoàn quân 2 tiến ra thượng lưu sông Đông, thay thế cho Tập đoàn quân xe tăng 4 tiếp tục càn quét dọc sông Đông từ Bắc xuống Nam, chặn toàn bộ đường rút sang bờ đông sông Đông của các sư đoàn Liên Xô đang chiến đấu tại các phương diện quân Tây Nam và Nam. Nếu hành động nhanh chóng, quân Đức sẽ tiếp tục lặp lại những thành công tại phía Đông Kiev tám tháng trước, bao vây và đánh sập cánh Nam của quân đội Liên Xô trên mặt trận Xô-Đức. Tại khu vực xung quanh Kharkov, tướng Paulus đã bố trí ba tuyến phòng thủ kiên cố. Tuyến đầu có chiều sâu từ 6 đến 7 km, tuyến thứ hai cách tiền duyên từ 10 đến 15 km và tuyến thứ ba nằm trong chiều sâu 20 đến 25 km.

Chiến sự từ ngày 12 đến 14 tháng 5

Diến biến Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya

Từ "chỗ lồi" Barvenkovo, Cụm quân xung kích của tướng L. V. Bovkin trong đội hình Tập đoàn quân 28 có 206 xe tăng của các quân đoàn xe tăng 21 và 23 cùng 5 sư đoàn bộ binh đột kích vào tuyến phòng thủ của các sư đoàn bộ binh 62, 113, 454 và 108 (Đức). Ở thê đội 2 có Quân đoàn kỵ binh 6 và 2 lữ đoàn xe tăng gồm 87 chiếc sẵn sàng tiến theo cụm xung kích để mở rộng cửa đột phá.

6 giờ 30 phút sáng ngày 12 tháng 5 một trận pháo kích kéo dài 60 phút được quân đội Liên Xô thực hiện vào nhằm tuyến phòng thủ của quân Đức. Trong 15 đến 20 phút cuối của trận pháo kich, các phi đội máy bay ném bom và cường kích của Liên Xô cũng phối hợp oanh tạc và bắn phá. 7 giờ 30 phút, thê đội 1 của các tập đoàn quân 6 và 28 xuất phát tấn công. Tuy nhiên, cuộc chiến đã diễn ra khó khăn hơn dự đoán của các tướng lĩnh Liên Xô. Mật độ đạn của pháo binh và cường độ oanh tạc bằng không quân tương đối thấp, không đủ chế áp các hỏa điểm và hủy diệt các lực lượng dày đặc của quân Đức đang phòng thủ trên tuyến đầu. Vấp phải làn hỏa lực dày đặc ấy, mật độ xe tăng mỏng của quân đội Liên Xô khiến cho lực lượng đột kích này không đủ sức đột phá và nhiệm vụ yểm hộ cho bộ binh lại trở thành công việc chính. Do đó, đến cuối ngày 12 tháng 12, các tập đoàn quân 6 và 28 chỉ tiến được trung bình từ 1 đến 3 km.

Tại cánh quân phía Nam trên khu vực đột phá của Tập đoàn quân 6 (Liên Xô), đột phá khẩu đã được mở rộng đến 55 km và có chiều sâu từ 25 đến 50 km. Cho rằng mình đã đột phá thành công tuyến phòng thủ thứ hai của đối phương, Bộ chỉ huy chiến dịch đã tung thêm hai quân đoàn xe tăng với khoảng 300 xe vào cuộc chiến. Tuy nhiên, trinh sát Liên Xô đã bị đánh lừa khi họ cho rằng cánh quân xe tăng chủ yếu của quân Đức đang tập trung tại khu vực Zmiev trong khi, sư đoàn xe tăng 19 (Đức) đang ở khu vực Balaklaya, sát bờ Tây sông Berestov và chỉ còn cách sườn phải của Cụm xung kích do tướng Bobkin chỉ huy khoảng 15 km. Tại hướng trung tâm, nhằm đánh chiếm dứt điểm Chuguev, tạo bàn đạp thuận lợi để tấn công Kharkov từ phía Đông, nguyên soái S. K. Timoshenko đã tăng cường cho Tập đoàn quân 38 thêm sư đoàn bộ binh 126 và lữ đoàn xe tăng 6. Với lực lượng đã lên đến 5 sư đoàn bộ binh, 4 lữ đoàn xe tăng (khoảng 200 xe tăng) và 1 lữ đoàn bộ binh cơ giới, được yểm hộ bằng 500 pháo, súng cối và khoảng 100 máy bay ném bom, máy bay cường kích; S. K. Timoshenko tin rằng có thể giải quyết được khu phòng thủ Chuguev trong ngày 14 tháng 5. Cuối ngày 13 tháng 5, trong khi cánh Nam của mặt trận do tướng D. I. Riebyshev chỉ huy và cánh quân xung kích hướng Bắc của Tập đoàn quân 28 đã tiến thêm được từ 6 đến 8 km về hướng Kharkov thì Tập đoàn quân 21 vẫn phải dẫm chân tại chỗ trước các ngôi nhà cao tầng tại thị trấn Murom do Sư đoàn bộ binh 79 (Đức) phòng thủ với sự hỗ trợ của Sư đoàn cơ giới SS "Wiking" (Tập đoàn quân xe tăng 4). Tập đoàn quân 38 của tướng K. S. Moskalenko cũng đang quần nhau kịch liệt với sư đoàn bộ binh 297, sư đoàn cơ giới 29 và sư đoàn xe tăng 16 (Đức) tại khu phòng thủ Chuguev. A. M. Vasilevsky mới nhậm chức Tổng tham mưu trưởng được một tuần (thay Nguyên soái B. M. Shaposnikov được điều về làm Giám đốc Học viện Bộ Tổng tham mưu vì lý do sức khoẻ) đã không dám cãi lại.

Chiến sự từ ngày 15 đến 17 tháng 5

nhỏ|Bản đồ chiến dịch bằng tiếng Nga Sáng 15 tháng 5, Tập đoàn quân 28 trên cánh Bắc tiếp tục đột phá tuyến phòng thủ của quân Đức nhưng đã vấp phải đòn phản kích lớn của sư đoàn xe tăng 16 mới được điều từ Belgorod đến. Đòn phản kích nhằm vào sư đoàn bộ binh cận vệ 13 được tăng cường lữ đoàn xe tăng 244 đang chiến đấu nhằm chiếm căn cứ bàn đạp Dragunovsk (???) nằm giữa nơi tiếp giáp của Tập đoàn quân 28 với tập đoàn quân 38. Phát hiện Lữ đoàn xe tăng 244 (Liên Xô) một mình đột phá sâu đến 10 km qua phía Nam Ternovaya 2 đến 5 km trong khi hai lữ đoàn còn lại của Quân đoàn xe tăng 22 còn đang kẹt lại ở phía Đông và phía Bắc thị trấn Veseloye, Sư đoàn xe tăng 16 (Đức) đã bao vây lữ đoàn này. Đến đêm 16 tháng 5, số quân còn lại của lữ đoàn đã phải mở đường máu rút về phía Bắc Veseloye (Vesele). Sư đoàn bộ binh cận vệ 13 cũng phải bở dở cuộc tấn công vào Dragunovsk. Đây là thất bại lớn đầu tiên của Tập đoàn quân 28 (Liên Xô) trên cánh Bắc của chiến dịch. Nó báo hiệu sự "xuống sức" của các đơn vị cơ giới Liên Xô và cũng chưa phải là thất bại duy nhất. Mặc dù gặp phải sức phòng ngự yếu hơn của quân Đức nhưng các sư đoàn bộ binh 169 và 175 vẫn phải dừng lại cách Livny 5 km về phía Đông. Những dấu hiệu đáng lo ngại đã trở thành hiện thực khi ngày 17 tháng 5, Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân 17 (Đức) nằm trong "Cụm tác chiến Kleist" bắt đầu tấn công vào các đơn vị mỏng yếu của các tập đoàn quân 9 và 57 (Liên Xô) đang phòng ngự tại toàn bộ sườn phía Nam của "chỗ lồi" Izium-Barvenkovo. Các cánh quân xe tăng mạnh nhất của quân Đức đã đột phá vào điểm tiếp giáp giữa Tập đoàn quân 57 và Tập đoàn quân 9 (Liên Xô) tại khu vực Slaviansk - Kramatorsk và bắt đầu dồn hai tập đoàn quân Liên Xô về phía Bắc. Lúc 18 giờ 30 ngày 18 tháng 8, Ủy viên Hội đồng quân sự Phương diện quân Tây Nam N. S. Khrushev điện thoại cho A. M. Vasilevsky thông báo vắn tắt tình hình mặt trận và đề nghị có ý kiến để Tổng tư lệnh tối cao cho dừng tấn công, tập trung lực lượng đối phó với cánh quân xe tăng rất mạnh của Đức trên hướng Nam. A. M. Vasilevsky cho rằng từ các báo cáo của Phương diện quân Tây Nam cho thấy sự không thống nhất quan điểm đánh giá tình hình và đề nghị N. S. Khrushev lấy danh nghĩa Ủy viên Bộ Chính trị để nói chuyện trực tiếp với I. V. Stalin. 15 phút sau, N. S. Khrushev gọi lại cho A. M. Vasilevsky thông báo quyết định của Tổng tư lệnh tối cao: Đồng chí Stalin khẳng định mệnh lệnh: Tiếp tục tấn công.

Chỉ đến ngày 19 tháng 5, khi cánh quân xe tăng của tướng Paul Kleist đã đột kích rất sâu vào sau lưng các tập đoàn quân 6 và 57, băm nát hậu cứ của các tập đoàn quân này thì S. K. Timoshenko mới ra lệnh ngừng tiến công và rút các lực lượng ở cánh Nam quay sang chống lại các sư đoàn xe tăng Đức. Cho dù quyết định này được I. V. Stalin chuẩn y ngay nhưng nó đã được đưa ra quá muộn, hai tập đoàn quân 6, 57 và Cụm quân xung kích của tướng L. V. Bobkin đã bị bao vây tại chính chỗ lồi Izium - Barvenkovo. Những diễn biến cực kỳ bất lợi cho quân đội Liên Xô vẫn còn ở phía trước khi đây chỉ là màn dạo đầu của cuộc tổng tấn công mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã tại cánh Nam của mặt trận Xô-Đức với cái tên nghe có vẻ hiền hòa "Kế hoạch Xanh".

Ở khu vực phía Đông Karkov, quân Đức tấn công một cách cầm chừng vào Tập đoàn quân 38 nhằm giữ chân tập đoàn quân này lại, không cho nó được tự do di chuyển để đỡ đòn cho hai bên sườn và sau nữa là để hợp vây nó trong bước hai của Chiến dịch Friderikus sau khi đã thanh toán xong các tập đoàn quân 6 và 57 trên cánh Nam và Tập đoàn quân 28 trên cánh Bắc của quân đội Liên Xô. Tuy nhiên, việc này đã không thực hiện được do ngày 16 tháng 5, một tài liệu của Tập đoàn quân 51 (Đức) chuyển đến các sư đoàn xe tăng 3, 23 và sư đoàn bộ binh 71 đã bị quân báo của Tập đoàn quân 38 (Liên Xô) bắt được khi họ tấn công vào một xe liên lạc của quân Đức trên vùng phía Nam Chuguev. Trong tài liệu chỉ rõ rằng các lực lượng xe tăng và bộ binh Đức phải tập trung tại hai khu vực: đầu cầu Andreevka ở phía Nam và thị trấn Savintsev (???) ở phía Bắc, bỏ lỏng khu vực Stary Saltov - Chervona Rogankov ở giữa mặt trận. Tin tức này được báo cáo lên Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam; song rất tiếc, nó đã không được xem xét đến. Tuy vậy, do biết trước ý đồ của quân Đức nên tướng S. K. Moskalenko đã chủ động rút quân đoàn xe tăng 24 về phía Tây Kupiansk, lập được tuyến phòng ngự đệm trên bờ đông, rút được phần lớn Tập đoàn quân 38 về bên kia sông Bắc Donets và ba ngày sau đó về bên kia sông Oskol, chỉ chịu để mất sư đoàn bộ binh 300 tại khu vực Savintsev và trung đoàn cơ giới 7 ở đầu cầu Andreevka.

Tại hướng Volokonovka - Novy Oskol

Vì đây không phải là địa bàn tấn công chủ yếu của quân đội Liên Xô trong chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya nên chính quân Đức đã phát động cuộc công kích tại đây như là hành động mở đầu cho Chiến dịch Blau trên sườn cực Bắc của Cụm tập đoàn quân Nam. Để dọn đường cho cuộc tấn công đầu tiên trên cánh Bắc, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức đã yêu cầu Hungary cung cấp thêm 3 sư đoàn bộ binh cơ giới và nâng cấp Quân đoàn bộ binh 2 Hungary thành Tập đoàn quân 2 Hungary, tách nó ra khỏi đội hình Tập đoàn quân 17 (Đức) và đặt trực tiếp dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam. Ngày 24 tháng 5, Tập đoàn quân này có sự yểm hộ của Quân đoàn xe tăng 14 (Đức) đã mở cuộc đột kích sâu từ khu vực giữa Vovchansk và Belgorod về hướng Novy Oskol. Đòn đột kích này đã làm cho Tập đoàn quân 21 (Liên Xô) không còn khả năng chi viện và yểm hộ cho Tập đoàn quân 28 bên sườn trái của họ mà còn buộc họ phải rút lui sâu về bên kia sông Oskol trên hướng Voronezh. Trước tình thế bị hở sườn phải, Tập đoàn quân 38 của tướng K. S. Moskalenko cũng phải lùi về Ostrogozhsk.

Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng

Kết quả

Ngày 22 tháng 5, vòng vây đã hoàn toàn khép chặt xung quanh các tập đoàn quân 6, 57 và Cụm quân của tướng L. V. Bobkin trong "cái túi tác chiến" Izium - Barvenkovo. Theo báo cáo của các tư lệnh Đức tại chiến trường do tướng Đức Kurt von Tippelskirch dẫn trong hồi ký của ông ta, quân số bị bắt của các đơn vị này có thể lên đến 240.000 người. nhưng theo nghiên cứu của David Glantz, trong tổng số thiệt hại 207.000 người của quân đội Liên Xô; quân Đức chỉ bắt được khoảng 70.000 đến 80.000 tù binh Liên Xô do phần lớn quân số của họ đã chết và bị thương đến trên 130.000 người trong các cuộc tấn công kéo dài hàng tuần lễ cũng như trong 5 ngày chiến đấu cuối cùng để cố thoát khỏi vòng vây. Chính tướng Franz Halder thông qua báo cáo của trinh sát đường không (Đức) cũng ghi nhận "đã có từ 8 đến 12 sư đoàn thoát ra khỏi vòng vây tại khu vực tiếp giáp giữa hai phương diện quân của kẻ thù (các phương diện quân Nam và Tây Nam) tại khu vực Izium và vội vã rút sâu về phía Đông". Tuy nhiên, theo Wilheim Adam cho biết, đây chỉ là con số thương vong của riêng Tập đoàn quân 6 (Đức); thương vong của các tập đoàn quân 17 và Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) cho đến nay vẫn chưa có thống kê. Bất kể con số tổn thất là bao nhiêu thì Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya vẫn là một thất bại lớn của Hồng quân và nó đặt dấu chấm hết cho giai đoạn thắng lợi của Hồng quân trong và sau chiến dịch phản công mùa đông 1941-1942.

Đánh giá

Tình hình cánh Nam mặt trận Xô- Đức từ ngày 22 tháng 5 đến ngày 7 tháng 7 năm 1942

Nhiều học giả đã cố gắng phân tích và tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thất bại của Hồng quân Xô Viết trong trận này. Một vài tướng lĩnh Hồng quân cho rằng việc Bộ Tổng Tư lệnh tối cao và bản thân I. V. Stalin đã bị choáng ngợp trước thắng lợi to lớn tại thủ đô Moskva cũng như trong chiến cuộc đông-xuân 1941-1942, vì vậy họ đã đánh giá sai thực lực của quân phát xít Đức. Trong hồi ký của mình, Nguyên soái Zhukov đã nhận xét rằng thất bại của chiến dịch là điều dễ đoán vì quá trình chuẩn bị của Hồng quân cho chiến dịch là hoàn toàn không phù hợp; đồng thời nguy cơ bị quân Đức đánh bọc sườn ở cánh trái tại chỗ lồi Izium là điều hiển hiện ngay trên bản đồ tác chiến. Zhukov cũng cho rằng nguyên nhân thất bại chủ yếu của Hồng quân là do sai lầm của chính I. V. Stalin trong việc coi thường nguy cơ bị quân Đức tấn công ở khu vực Tây Nam (trái ngược với tình hình ở mặt trận Moskva) và không tập hợp đủ lực lượng dự bị để đối phó với mối đe dọa từ những đòn phản kích của quân Đức. Thêm vào đó, I. V. Stalin cũng bỏ ngoài tai những cảnh báo của Bộ Tổng Tham mưu khi họ đề nghị củng cố các phòng tuyến ở mặt Tây Nam nhằm đề phòng một đòn phản kích của phát xít Đức tại đây. Thật vậy, thắng lợi to lớn của Hồng quân trong mùa đông 1941-42 đã làm suy yếu quân Đức, nhưng chưa đủ để tiêu diệt họ. Moskalenko đã trích dẫn câu nói của một binh sĩ để minh họa cho việc này:

Đồng thời, việc I. V. Stalin lạm dụng các lực lượng Hồng quân mới được động viên - vốn chưa nhận được sự huấn luyện và trang bị đầy đủ - cho thấy sự ảo tưởng của I. V. Stalin về khả năng của Hồng quân cũng như khả năng của các quân, binh chủng trong Hồng quân cũng như thái độ đánh giá quá thấp đối thủ về việc họ có thể phòng ngự và tổ chức một đòn phản công đập tan cuộc tiến công của Hồng quân. Sức mạnh của quân Đức lại một lần nữa bộc lộ rõ rệt trong Chiến dịch Blau và trong Trận Stalingrad, dù lần này phát xít Đức gặp phải một kết cục trái ngược 180 độ.

Tuy nhiên, chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya cho thấy một khía cạnh khác của sức mạnh Hồng quân: các chỉ huy Hồng quân đã bộc lộ tiềm năng về việc có thể tổ chức thành công một chiến dịch tấn công lớn vào phát xít Đức. Đây là một trong những nỗ lực đầu tiên của Hồng quân nhằm giành thế chủ động tiến công ngay trong thời điểm mùa hè. Về sau, khả năng của các chỉ huy Hồng quân được cải thiện rõ rệt qua ba chiến dịch phản công lớn: Chiến dịch Sao Hỏa, Chiến dịch Sao Thiên Vương và Chiến dịch Sao Thổ. Mặc dù chỉ có hai chiến dịch sau đem lại thành công mỹ mãn, những chiến dịch này là bằng chứng rõ rệt về việc Hồng quân Xô Viết hoàn toàn có thể chuyển cục diện chiến trường theo ý muốn của họ. Chiến thắng lớn tại vòng cung Kursk vào tháng 7 năm 1943 càng khẳng định chắc chắn hơn về sức mạnh của Hồng quân trong cuộc chiến tranh. Đồng thời, thất bại lớn tại Barvenkovo-Lozovaya cũng có một tác động tích cực tới I. V. Stalin, nó khiến ông hiểu rõ sự hạn chế về mặt quân sự của mình, và vì vậy ông trở nên tin tưởng các tướng lĩnh cũng như Bộ Tổng Tham mưu của mình hơn - ví dụ như sau đó ông đã để cho Bộ Tổng Tham mưu có tiếng nói quyết định trong việc chọn lựa các tướng lĩnh chỉ huy các Phương diện quân. Từ chỗ thanh trừng các tướng sĩ vào năm 1937, thất bại trong việc tiên đoán và chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công xâm lược của Đức năm 1941, xem thường sức mạnh quân Đức năm 1942, cuối cùng I. V. Stalin đã học được cách lắng nghe và tin tưởng các tướng sĩ dưới quyền. Trong khi đó, Hitler thì càng lúc càng trở nên độc đoán trong việc chỉ huy và đến tháng 9 năm 1942 ông ta đã sa thải Tổng Tham mưu trưởng của mình, tướng Franz Halder.

Xét trong phạm vi của trận đánh nói riêng, có hai yếu tố đã đóng vai trò chủ đạo trong việc quyết định cục diện của trận đánh: Hồng quân không tập hợp lực lượng một cách chuẩn xác và việc phát xít Đức đã dự đoán chính xác về các cuộc điều quân của Hồng quân. Sự thể hiện yếu kém của các đơn vị Hồng quân tại cánh Bắc cũng như những yếu kém khác trong việc thu thập và phân tích thông tin tình báo của Bộ Tổng tư lệnh Tối cao cũng góp phần đem lại thảm họa cho Hồng quân trong chiến dịch. Tuy nhiên, xét cho cùng, chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya vẫn cho thấy một bước tiến lớn về việc xây dựng các chiến thuật tác chiến của Hồng quân

Đối với quân đội Đức và các đồng minh của họ, việc thực hiện thành công các đòn phòng ngự - phản công đã giúp họ lấy lại quyền chủ động chiến lược đã tạm thời bị mất sau cuộc phản công của quân đội Liên Xô tại khu vực Moskva. Người Đức xem cuộc tấn công này như một đòn chặn trước Kế hoạch Blau của họ và buộc quân đội Đức phải sử dụng sớm các lực lượng còn sung sức lẽ ra dành cho cuộc tấn công. Tuy nhiên, tướng Kurt von Tipenskisch cũng thừa nhận chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya đã làm cho Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam phải lùi ngày khởi sự Chiến dịch Blau một thời gian để bổ sung quân số và trang bị cho các tập đoàn quân; đồng thời sắp xếp lại các lực lượng đã bị đảo lộn do phải tiến hành các cuộc phản công cục bộ.

Chẳng bao lâu sau khi đã rõ là thất bại tại "chỗ lồi" Izium-Barvenkovo tiếp tục kéo theo những thiệt hại nặng nề của quân đội Liên Xô trên toàn bộ cánh Nam mặt trận Xô-Đức, ngày 21 tháng 6 năm 1942, Tổng tư lệnh tối cao Stalin hạ lệnh giải tán Bộ Tư lệnh khu vực Tây Nam mặt trận Xô-Đức. Timoshenko vẫn chỉ huy Phương diện quân Tây Nam nhưng chỉ đến cuối tháng 6 thì bị triệu hồi về Đại bản doanh, để lại chức vụ Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam cho Trung tướng N.F. Vatutin thay thế. Trung tướng Bagramian cũng bị triệu hồi về Moskva và được giao chỉ huy Tập đoàn quân 11 của Phương diện quân Tây. Chỉ có Khruchev vẫn được giữ lại làm Ủy viên hội đồng quân sự Phương diện quân Tây Nam và sau đó là Phương diện quân Stalingrad.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya** (Lozova) (được Thống chế Đức Wilhelm Bodewin Gustav Keitel gọi là **Trận Kharkov lần thứ hai**) là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô và quân đội Đức
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch Donets** hay **Trận Kharkov lần thứ ba** là một chuỗi những chiến dịch phản công của quân đội Đức quốc xã nhằm vào Hồng quân Liên Xô tại gần khu vực Kharkov trong
**Chiến dịch Sao Thiên Vương (Uranus)** (tiếng Nga: _Операция «Уран»_, phiên âm La Tinh: _Operatsiya Uran_; tiếng Đức: _Operation Uranus_) là mật danh của chiến dịch có tính chiến lược của Liên Xô thời gian
**Chiến dịch Ngôi Sao** (Tiếng Nga: Oпераций «Звезда») là tên mã của **Chiến dịch Belgorod-Kharkov**, hoạt động quân sự lớn thứ ba do Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) tiến hành tại miền Trung nước
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch phản công Belgorod–Kharkov** là một chuỗi các hoạt động quân sự lớn do hai phương diện quân Voronezh và Thảo nguyên của Quân đội Liên Xô làm chủ lực, có sự hỗ trợ
**Chiến dịch phản công** là thuật ngữ quân sự sử dụng để mô tả các chiến dịch tấn công quy mô lớn, thường là chiến dịch tiến hành sau khi một đạo quân đã chặn
**Chiến dịch Donbas** là một chiến dịch tấn công lớn của quân đội Liên Xô trong khuôn khổ chuỗi chiến dịch Dniepr. Trong khi các Phương diện quân Trung tâm đang hoàn tất Chiến dịch
**Chiến dịch Velikiye Luki** (tiếng Nga: _Великолукская наступательная операция_) là một chiến dịch tấn công do Phương diện quân Kalinin của Hồng quân Liên Xô tiến hành nhằm vào Tập đoàn quân thiết giáp số
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
**Trận bán đảo Kerch (1942)** là tổ hợp ba chiến dịch quân sự lớn của Hồng Quân Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã và quân chư hầu România tại bán đảo Kerch
**Trận Prokhorovka** là một trận đánh diễn ra giữa Quân đoàn xe tăng SS số 2 của Đức Quốc xã với Tập đoàn quân Cận vệ 5 và Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ
Ngày **12 tháng 5** là ngày thứ 132 (133 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 233 ngày trong năm. ## Sự kiện *254 – Stêphanô I trở thành giáo hoàng thứ 23 của Giáo
**Mikhail Artemievich Parsegov** (tiếng Nga: _Михаил Артемьевич Парсегов_; 15 tháng 6 năm 1899 - 26 tháng 4 năm 1964), tên gốc tiếng Armenia là **Mikael Barseghyan** (Միքայել Բարսեղյան), là một chỉ huy quân sự Liên
**Phương diện quân Tây Nam** (tiếng Nga: _Ю́го-За́падный фро́нт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Địa bàn tác chiến của phương diện quân