✨Tập đoàn quân số 6 (Đức Quốc Xã)

Tập đoàn quân số 6 (Đức Quốc Xã)

Tập đoàn quân đoàn số 6 (tiếng Đức: Armeeoberkommando 6, viết tắt 6. Armee/AOK 6) là một đại đơn vị của Quân đội Đức Quốc xã. Từng là một trong những đại đơn vị thiện chiến nhất của Đức Quốc xã, nhưng dấu ấn được biết nhiều nhất của tập đoàn quân này lại là thất bại thê thảm tại trận Stalingrad, dẫn đến bước ngoặt quan trọng khởi đầu sự thất bại chiến lược của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông.

Hình thành

Tiền thân của Tập đoàn quân đoàn số 6 là Tập đoàn quân số 10 được thành lập ngày 26 tháng 8 năm 1939, trên cơ sở tập hợp từ các sư đoàn lục quân ở vùng Thượng Silesia. Ngay khi thành lập, Tập đoàn quân số 10 được đặt dưới quyền tư lệnh của Thượng tướng Pháo binh Walter von Reichenau, trực thuộc biên chế của Cụm tập đoàn quân Nam (Heeresgruppe Süd) để chuẩn bị cho Cuộc tấn công Ba Lan. Cuộc chiến kết thúc một cách nhanh chóng với thất bại của người Ba Lan. Tư lệnh tập đoàn quân, tướng von Reichenau được thăng hàm Đại tướng.

Mặt trận phía Tây

Sau thắng lợi nhanh chóng tại Ba Lan, ngày 10 tháng 10 năm 1939, Tập đoàn quân số 10 được đổi phiên hiệu thành Tập đoàn quân số 6 và được chuyển thuộc sang Cụm tập đoàn quân B (Heeresgruppe B) vừa được thành lập. Nhiệm của tập đoàn quân lúc này mới chỉ là đảm trách hệ thống phòng thủ phía tây của Đức chống lại các cuộc tấn công của Anh và Pháp trong Cuộc chiến tranh kỳ quặc.

Ngày 10 tháng 5 năm 1940, Chiến dịch phía Tây (Westfeldzug) nổ ra, Tập đoàn quân số 6 với binh lực 5 quân đoàn bộ binh, 2 sư đoàn thiết giáp và một binh đoàn SS cơ giới, chiến đấu trong đội hình của Cụm Tập đoàn quân B, có nhiệm vụ tiến qua Vùng Đất Thấp và dụ chủ lực Đồng Minh tiến lên nghênh chiến. Lực lượng của Tập đoàn quân số 6 đã vượt sông Meuse, rồi băng qua phía tây của phòng tuyến Maastricht (Liège and Maastricht) và kênh đào Albert, phối hợp với lực lượng lính dù công phá pháo đài Eben-Emael, Liège, và Namur trong Trận nước Bỉ, xuyên thủng phòng tuyến Dyle. Sau đó, tập đoàn quân tham gia chiến dịch công chiếm nước Pháp, kết thúc với thắng lợi công phá Paris. Sau khi Chiến dịch phía Tây kết thúc, tập đoàn quân được điều động sang thuộc biên chế Cụm tập đoàn quân A, chịu trách nhiệm phòng thủ cánh Bắc eo biển Normandy vào tháng 7 năm 1940. Với chiến tích trong Chiến dịch phía Tây, Tư lệnh tập đoàn quân, tướng von Reichenau được thăng hàm Thống chế (Generalfeldmarschall) cùng với 11 tướng lĩnh khác.

Mặt trận phía Đông

Chiến dịch Barbarossa

Cuối tháng 4 năm 1941, Tập đoàn quân số 6 được chuyển tới Ba Lan, thuộc biên chế Cụm tập đoàn quân Nam. Ngày 22 tháng 6 năm 1941, tập đoàn quân cùng đội hình Cụm tập đoàn quân Nam tấn công vào Liên Xô theo hướng Ukraina. Sau trận chiến biên giới ở Galicia và Volhynia, Tập đoàn quân số 6 đã phá vỡ Phòng tuyến Stalin vào tháng 7 năm 1941, dồn các đơn vị Hồng quân về hướng sông Dnepr. Giữa tháng 8 và tháng 9 năm 1941, tập đoàn quân đã tham gia trận chiến bao vây Kiev. Tháng 10 năm 1941, tập đoàn quân đã chiến đấu trong các trận chiến ác liệt tại Kharkov và Belgorod. Mặc dù thu được những chiến tích to lớn, nhưng cũng như trên toàn mặt trận Xô - Đức, sự kháng cự ngoan cường của Hồng quân Liên Xô đã khiến cho ý đồ của quân Đức không thể đạt được mục đích hủy diệt hoàn toàn lực lượng chủ lực của Hồng quân Liên Xô.

Chiến cuộc 1942

Sau những cuộc giao chiến mùa đông năm 1941, trong khi chuẩn bị cho cuộc chiến xuân hè năm 1942, Thống chế Reichenau đã chết đột ngột sau một cơn đau tim. Mùa hè năm 1942, Tập đoàn quân số 6 tiếp tục những trận chiến mới với vị tân tư lệnh, đồng thời cũng là cựu tham mưu trưởng của tập đoàn quân, tướng Friedrich Paulus. Với những thắng lợi lớn trong trận Kharkov, tập đoàn quân đã loại khỏi vòng chiến hơn 20 vạn binh sĩ Hồng quân Liên Xô.

Trận Stalingrad

thumb|right|upright=1.4|Bản đồ phản kích của Hồng quân tại Stalingrad
Theo kế hoạch mang mật danh Chiến dịch Blau (Fall Blau), Tập đoàn quân số 6 được chuyển thuộc về Cụm tập đoàn quân B, được đích thân Hitler giao nhiệm vụ làm lực lượng tiến công chủ lực của quân Đức ở phía Nam, trên hướng sông Don và sông Volga, tiến chiếm các mỏ dầu ở Baku và thành phố Stalingrad, một trung tâm công nghiệp sản xuất nông trang, xe tăng, thiết bị lọc dầu, tàu chiến, súng đạn,... lớn của Liên Xô. Ngày xuất quân của tập đoàn quân này vào Stalingrad đúng vào ngày kỉ niệm 1 năm chiến dịch Barbarossa của Quân đội Đức Quốc xã (22 tháng 6 năm 1942). Sau những thắng lợi to lớn trên hướng Kalach - Ostrovsky - Kljetzkaja, ngày 23 tháng 8, tập đoàn quân đã tiến đến vùng ngoại ô của thành phố Stalingrad.

Sau một thời gian ngắn nghỉ ngơi và chuẩn bị, ngày 13 tháng 9 năm 1942, Tập đoàn quân số 6 bắt đầu cuộc tấn công vào thành phố đang bị vây hãm. Mặc dù nhanh chóng chiếm được hầu hết thành phố và dồn lực lượng phòng thủ ở đây gồm tập đoàn quân 62 và 64 Hồng quân đến sát bờ sông Volga, nhưng quân Đức vẫn không thể chiếm lĩnh được hoàn toàn thành phố và tiêu diệt lực lượng Hồng quân ở đây, dù phải trả giá bằng những tổn thất rất nặng nề.

Cái bóng sau trận Stalingrad

Ngày 19 tháng 11, 1942, Bộ tư lệnh tối cao Hồng quân Liên Xô mở Chiến dịch Uranus, một cuộc tấn công quy mô lớn vào hai bên cánh sườn của quân Đức. Gọng kìm Bắc tiến đến sông Don còn gọng kìm Nam, được tiến hành ngày hôm sau, tiến đến phía Nam thành phố. Quân Rumani bảo vệ hai bên sườn của quân Đức lập tức bị đánh tan rã, và vào ngày 23 tháng 11, cả hai gọng kìm gặp nhau tại thị trấn Kalach-na-Donu, coi như bao vây Tập đoàn quân 6 Đức. Do Paulus không được phép rút lui mà lệnh tử thủ đến cùng để giữ chân càng nhiều Hồng quân càng tốt, ngày 12 tháng 12, quân Đức tiến hành Chiến dịch Bão Mùa đông (Wintergewitter) nhằm giải vây, song thất bại hoàn toàn. Từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2, 1943, quân Đức cuối cùng đầu hàng. Trong cùng, quân Đức chịu 147,200 thương vong và hơn 91,000 người bị bắt sống, bao gồm Paulus(lên chức Thống chế ngày 30 tháng 1), 24 vị tướng và 2,500 sĩ quan dưới quyền. Chỉ có 5,000 lính Đức là sống sót trở về sau cuộc chiến.

Các đời chỉ huy

Tư lệnh

  • Thượng tướng Pháo binh Walter von Reichenau: 26 tháng 8, 1939 - 1 tháng 1, 1942 (thăng Đại tướng 1 tháng 10, 1939; Thống chế 19 tháng 7, 1940)
  • Thượng tướng Thiết giáp Friedrich Paulus: 5 tháng 1 năm 1942 - 31 tháng 1, 1943 (thăng Đại tướng 30 tháng 11, 1942; Thống chế 30 tháng 1, 1943)
  • Thượng tướng Bộ binh Karl-Adolf Hollidt: 6 tháng 3 - 22 tháng 11 năm 1943 (thăng Đại tướng 1 tháng 9, 1943)
  • Thượng tướng Pháo binh Maximilian de Angelis: 22 tháng 11- 19 tháng 12 năm 1943
  • Đại tướng Karl-Adolf Hollidt: 19 tháng 12 năm 1943 - 25 tháng 3 năm 1944
  • Thượng tướng Thiết giáp Sigfrid Henrici: 25 tháng 3 - 8 tháng 4 năm 1944
  • Thượng tướng Pháo binh Maximilian de Angelis: 8 tháng 4 - 17 tháng 7 năm 1944
  • Thượng tướng Pháo binh Maximilian Fretter-Pico: 17 tháng 7 - 23 tháng 12 năm 1944
  • Thượng tướng Thiết giáp Hermann Balck: 23 tháng 12 năm 1944 - 8 tháng 5 năm 1945

Tham mưu trưởng

  • Thiếu tướng Friedrich Paulus: 26 tháng 8, 1939 - 3 tháng 9, 1940
  • Đại tá Ferdinand Heim: 3 tháng 9 năm 1940 - 15 tháng 3, 1942 (thăng Thiếu tướng 1 tháng 2 năm 1942)
  • Đại tá Arthur Schmidt: 15 tháng 3 năm 1942 – 3 tháng 2, 1943 (thăng Thiếu tướng 1 tháng 6 năm 1942; Trung tướng 17 tháng 1 năm 1943)
  • Thiếu tướng Walther Wenck: 6 tháng 3 - 10 tháng 3 năm 1943
  • Thiếu tướng Max Hermann Bork: 10 tháng 3 năm 1943 - 15 tháng 4 năm 1944
  • Đại tá Helmuth Voelter: 20 tháng 4 - 9 tháng 8 năm 1944 (thăng Thiếu tướng 1 tháng 7 năm 1944)
  • Thiếu tướng Ludwig Heinrich Gaedcke: 15 tháng 8 năm 1944 - 8 tháng 5 năm 1945

Biên chế đơn vị chủ lực

Tháng 10 năm 1939

  • Quân đoàn bộ binh III
  • Quân đoàn bộ binh VI
  • Quân đoàn bộ binh XXIII
  • Sư đoàn bộ binh số 3
  • Sư đoàn bộ binh số 17
  • Sư đoàn bộ binh số 23
  • Sư đoàn sơn cước số 3

Tháng 5 năm 1940

  • Quân đoàn bộ binh IV
  • Quân đoàn bộ binh VI
  • Quân đoàn bộ binh XI
  • Quân đoàn bộ binh XXVII
  • Quân đoàn bộ binh XXXX
  • Sư đoàn thiết giáp số 3
  • Sư đoàn thiết giáp số 4
  • Binh đoàn SS-Verfügungstruppe (tương đương sư đoàn)

Tháng 6 năm 1941

  • Quân đoàn bộ binh III
  • Quân đoàn bộ binh XVII
  • Quân đoàn bộ binh XXIX
  • Quân đoàn bộ binh XXXXIV
  • Quân đoàn bộ binh XXXXVIII
  • Quân đoàn bộ binh LV
  • Sư đoàn khinh binh số 99

Tháng 7 năm 1942

  • Quân đoàn bộ binh VIII
  • Quân đoàn bộ binh XVII
  • Quân đoàn bộ binh XXIX
  • Quân đoàn bộ binh XXXX
  • Quân đoàn bộ binh LI

Tháng 2 năm 1943

  • Quân đoàn bộ binh IV
  • Quân đoàn bộ binh VIII
  • Quân đoàn bộ binh XI
  • Quân đoàn bộ binh XIV
  • Quân đoàn bộ binh LI
  • Sư đoàn thiết giáp số 14

Tháng 4 năm 1943

  • Quân đoàn bộ binh XVII
  • Quân đoàn bộ binh XXIV
  • Quân đoàn bộ binh XXIX
  • Sư đoàn bộ binh số 17
  • Sư đoàn bộ binh số 79
  • Sư đoàn thiết giáp số 23

Tháng 6 năm 1944

  • Quân đoàn bộ binh VII
  • Quân đoàn bộ binh XXXXIV
  • Quân đoàn bộ binh LII
  • Quân đoàn bộ binh XXX
  • Sư đoàn thiết giáp số 3
  • Sư đoàn thiết giáp số 13

Tháng 2 năm 1945

  • Quân đoàn kỵ binh I
  • Quân đoàn SS IV
  • Quân đoàn bộ binh III
  • Quân đoàn bộ binh II Hungary

Những cáo buộc tội ác chiến tranh

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tập đoàn quân đoàn số 6** (tiếng Đức: _Armeeoberkommando 6_, viết tắt **6. Armee**/**AOK 6**) là một đại đơn vị của Quân đội Đức Quốc xã. Từng là một trong những đại đơn vị thiện
**Tập đoàn quân số 1** () là một tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Lịch sử hoạt động ### **1939** Tập đoàn quân số 1 được
**Cụm tập đoàn quân** (tiếng Đức: _Heeresgruppe_) là tổ chức tác chiến cấp chiến lược cao nhất của Quân đội Đức Quốc xã, trên cấp Tập đoàn quân. Cũng giống như biên chế phương diện
**Tập đoàn quân** hay **Đạo quân** là thuật ngữ chỉ một đại đơn vị cấp chiến dịch – chiến lược trong tổ chức quân đội chính quy tại một số nước có quân đội rất
**Đức Quốc Xã**, còn gọi là **Đệ Tam Đế chế** hay **Đế chế thứ ba** () hoặc với tên chính thức là **Đế chế Đức** (), là nước Đức trong thời kỳ 1933–1945 đặt dưới
**Cụm tập đoàn quân B** (tiếng Đức: __) là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Theo thời gian, phiên hiệu này
**Cụm tập đoàn quân D** (tiếng Đức: _Heeresgruppe D_) là danh xưng một tổ chức tác chiến cấp Cụm tập đoàn quân Đức trong Thế chiến thứ hai. Trong suốt thời gian tồn tại, cơ
**Lục quân** (, ) là thành phần lực lượng trên bộ của _Wehrmacht_, lực lượng vũ trang chính quy của Đức, từ năm 1935 cho đến khi bị tan rã vào năm 1945 và sau
**Cụm tập đoàn quân Nam** () là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Đơn vị là một trong những cánh quân
**Cụm tập đoàn quân A** () là một phiên hiệu đơn vị cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. ## Chiến thắng chóng vánh trên Mặt trận phía
**Cụm tập đoàn quân Bắc** () là một phiên hiệu đội hình tác chiến chiến lược cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, đặt dưới quyền chỉ huy
**Cụm tập đoàn quân C** (tiếng Đức, _Heeresgruppe C_, viết tắt **HGr C**) là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Trong
**Cụm tập đoàn quân Sông Don** () là một cụm tập đoàn quân tồn tại trong thời gian ngắn của Lục quân Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Ngày 20 tháng 11 năm
**Sư đoàn Bộ binh 110**, được thành lập vào tháng 4 năm 1940 ở Lüneburg, biên chế thuộc Quân đoàn 11 và được chỉ huy bởi trung tướng Ernst Seifert. Đến tháng 6 năm 1941,
**Cụm tập đoàn quân Trung tâm** (tiếng Đức: _Heeresgruppe Mitte_) là tên của tổ chức tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông trong Thế
**Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina** () là biên chế cấp Cụm tập đoàn quân của Lục quân Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, tác chiến tại chiến trường Tây Ukraina trong hơn
**Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina** (, ) là một phiên hiệu đội hình tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của liên quân Đức Quốc xã và Vương quốc Rumani trên Mặt
thumb|Quân hàm Lục quân thumb|Phù hiệu (Hạ sĩ quan và binh sĩ) **_Quân đội Đức_** (Heer), là Lục quân Đức và là một phần lực lượng _Wehrmacht_ rộng lớn hơn, thực sự đã kế thừa
**Cụm tập đoàn quân E** () là một Tập đoàn quân Đức hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Nó được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1943 trên cơ sở phát triển
**Tập đoàn quân 3** () là một đơn vị quân sự chiến lược cấp Tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô hoạt động trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ hai. ## Chiến
thumbnail|Hình vẽ nghệ thuật của chiếc đĩa bay Đức kiểu _Haunebu_, tương tự như hình ảnh UFO được chụp bởi [[George Adamski, Reinhold Schmidt, Howard Menger, và Stephen Darbishire.]] Trong UFO, thuyết âm mưu, khoa
right|thumb|Trang thứ ba và trang cuối cùng của văn bản [[đầu hàng vô điều kiện được ký tại Berlin ngày 9 tháng 5 năm 1945]] **Văn kiện Đầu hàng của Đức Quốc xã** (; ;
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Cấu trúc Đảng Quốc xã Đức** (NSDAP) mang tính chất trung ương tập quyền và có hệ thống phân cấp chặt chẽ. Trong vai trò là đảng quần chúng và lãnh đạo, Đảng Công nhân
Chiến sự trên **Mặt trận Rzhev-Sychyovka-Vyazma** là hoạt động quân sự lớn của Chiến tranh Xô-Đức bao gồm nhiều chiến dịch bộ phận do các Phương diện quân Tây, Phương diện quân Kalinin và Phương
**Phương diện quân Ukraina 1** (tiếng Nga: _1-й Украинский фронт_) là tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Phương diện quân đã tham gia các chiến
**Sư đoàn Panzer số 4** () là một sư đoàn bọc thép trong Quân đội Đức, Wehrmacht, trong Thế chiến II, được thành lập năm 1938. Sư đoàn Panzer số 4 tham gia vào cuộc
**Tập đoàn Volkswagen** (công ty mẹ **Volkswagen Aktiengesellschaft**) là tập đoàn đa quốc gia của Đức về lĩnh vực sản xuất ô tô có trụ sở tại Wolfsburg, bang Niedersachsen. Tập đoàn hoạt động trong
nhỏ|Vòm ánh sáng, Đại hội Đảng Quốc xã năm 1936 nhỏ|Đại hội Đảng lần thứ ba (Nürnberg, 1927) **Đại hội Đảng Quốc xã** (, _Đại hội Đảng Đế chế_) ngày nay thường được dùng để
nhỏ|358x358px|Những thành viên của [[Đoàn Thanh niên Hitler ở Béc-lin thực hiện kiểu chào Quốc xã tại một tụ tập năm 1933]] **Kiểu chào Quốc xã** hay **kiểu chào Hitler** ( – nghĩa đen: **Lời
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Chiến dịch Sao Thiên Vương (Uranus)** (tiếng Nga: _Операция «Уран»_, phiên âm La Tinh: _Operatsiya Uran_; tiếng Đức: _Operation Uranus_) là mật danh của chiến dịch có tính chiến lược của Liên Xô thời gian
**Chiến dịch phòng ngự hồ Balaton** (6 tháng 3 - 16 tháng 3 năm 1945) là một chiến dịch phòng ngự - phản công do Phương diện quân Ukraina 3 của Hồng quân Liên Xô
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
**Cuộc đột kích Tatsinskaya** là một trận đánh nằm trong Chiến dịch Sao Thổ diễn ra từ ngày 24 đến ngày 29 tháng 12 năm 1942. Trong trận này, Quân đoàn xe tăng 24 do
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
**Wilhelm Ritter von Leeb** (5 tháng 9 năm 1876 – 29 tháng 4 năm 1956) là một trong những thống chế Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tư lệnh cụm tập
**Phương diện quân Bryansk** (tiếng Nga: _Брянский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập lần thứ nhất
**Vasily Ivanovich Chuikov** (tiếng Nga: _Васи́лий Ива́нович Чуйко́в_) (sinh ngày 12 tháng 2 năm 1900, mất ngày 18 tháng 3 năm 1982) là một vị tướng nổi tiếng của Hồng quân Liên Xô trong Chiến
**Phương diện quân Stalingrad** (tiếng Nga: _Сталинградский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Tổ chức lần thứ nhất
**Ernst Bernhard Wilhelm Busch** (6 tháng 7 năm 1885 - 17 tháng 7 năm 1945) là một Thống chế Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. ## Tiểu sử ### Tuổi thơ và trước
**Ngày Âu Châu tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Quốc xã**, còn được biết tới như **Ngày dải băng Đen** tại một vài quốc gia, mà được cử hành
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
**Trại tập trung Auschwitz** ( ) là một mạng lưới các trại tập trung và trại hủy diệt do Đức Quốc Xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính
**Hermann Wilhelm Göring** có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Héc-man Gơ-rinh** (hay **Goering**; ; 12 tháng 1 năm 1893 – 15 tháng 10 năm 1946) là một chính trị gia người Đức,
**Claus Philipp Schenk Graf von Stauffenberg** (; 15 tháng 11 năm 1907 – 21 tháng 7 năm 1944) là một nhà quý tộc của Đức dưới thời Đức Quốc Xã, Đại tá, Tham mưu trưởng