✨Hiệp ước Xô-Đức

Hiệp ước Xô-Đức

Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946)

Hiệp ước Xô – Đức, còn được gọi là Hiệp ước Molotov – Ribbentrop hay Hiệp ước Hitler – Stalin có tên chính thức là Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Liên Xô (tiếng Đức: Deutsch-sowjetischer Nichtangriffspakt; tiếng Nga: Договор о ненападении между Германией и Советским Союзом); được ký kết ngày 23 tháng 8 năm 1939 giữa Ngoại trưởng Vyacheslav Mikhailovich Molotov đại diện cho Liên Xô và Ngoại trưởng Joachim von Ribbentrop đại diện cho Đức Quốc xã. Hiệp ước này không phải là thoả thuận liên minh, mà là sự hoà hoãn tạm thời giữa 2 quốc gia đối thủ nhằm lùi thời điểm chiến tranh thêm 2 năm (Đức muốn tấn công Ba Lan và Pháp nhưng cần tránh việc Liên Xô hỗ trợ 2 nước kia, còn Liên Xô muốn tranh thủ thời gian để phát triển quân đội).

Các bên thỏa thuận với các cam kết kiềm chế không tấn công lẫn nhau và giữ thái độ trung lập trong trường hợp một trong hai bên trở thành mục tiêu của những hành động quân sự của bất kỳ bên thứ ba nào. Các thành viên Hiệp định cũng cam kết không tham gia vào các nhóm thế lực trực tiếp hoặc gián tiếp chống lại phía bên kia. Trong tương lai, hai bên cam kết việc cung cấp, trao đổi lẫn nhau về thông tin đối với những vấn đề có ảnh hưởng đến lợi ích của các bên.

Kèm theo Hiệp định là một nghị định thư được ký bổ sung. Trong đó quy định ranh giới Đông Âu nằm trong phạm vi quyền lợi của Đức và Liên Xô trong trường hợp có "sự sắp xếp lại về chính trị đối với lãnh thổ" của các quốc gia này. Nghị định thư quy định các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva và Bessarabia thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Ngoài ra, Đức chấp thuận việc Liên Xô thu hồi lại Tây Ukraine và Tây Belarus (bị Ba Lan đánh chiếm năm 1921). Nghị định này cho phép thành lập chính quyền thân Liên Xô tại Litva, Latvia, Estonia. Ngày 1 tháng 9 năm 1939 Đức xâm chiếm Ba Lan, và ngày 17 tháng 9 quân đội Liên Xô tiến quân thu hồi Tây Ukraina và Tây Belarus. Ngày 28 tháng 9 năm 1939, Đức và Liên Xô ký kết Hiệp ước hữu nghị về biên giới. Sau đó, Liên Xô đã sáp nhập các nước Baltic (Estonia, Latvia, Litva), vùng Bessarabia và Bắc Bukovina, và một phần của Phần Lan vào lãnh thổ của mình.

Các thỏa thuận đã được ký kết đã làm dịu sự căng thẳng trong quan hệ chính trị và kinh tế giữa Liên Xô và Đức đang nóng lên sau sự xuất hiện của Hitler trên vũ đài chính trị và nắm quyền điều hành nước Đức cùng với các cuộc xung đột vũ trang (trong đó Liên Xô chống lại sự can thiệp của Đức và Italy ở Tây Ban Nha và ủng hộ phái Cộng hoà Tây Ban Nha, chống lại quân đội Nhật Bản ở Viễn Đông trong các Chiến dịch hồ Khasan và Khalkhyn Gol). Sự kiện này trở thành một bất ngờ chính trị cho các nước thứ ba. Gần như đồng thời với các tin đồn về sự tồn tại của thỏa thuận bí mật bổ sung, các văn bản Hiệp ước đã được xuất bản vào năm 1948 dưới dạng các bản sao. Năm 1993, văn bản gốc của Hiệp ước được tìm thấy.

Sau khi Đức tấn công Liên Xô ngày 22 tháng 6 năm 1941, cũng như tất cả các văn kiện ngoại giao Xô – Đức khác, Hiệp định này đã không còn giá trị..

Bối cảnh quốc tế

Trang cuối bản nghị định thư mật kèm theo Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (bản chụp năm 1946)

Một số nguyên nhân cơ bản dẫn tới hiệp ước bao gồm:

  • Đức đang chuẩn bị tấn công Ba Lan và muốn tránh chiến đấu trên hai mặt trận: phía Tây chống Anh – Pháp và phía Đông chống Liên Xô. Hơn nữa, Đức cũng muốn tăng cường ngoại thương với Liên Xô để bù đắp cho sự phong tỏa của Đồng minh trên mặt biển.
  • Liên Xô muốn đẩy lùi chiến tranh nhưng vấp phải sự cản trở của các nước phương Tây do họ đã ký với nước Đức Quốc xã Hiệp ước München năm 1938. Mặc dù tiềm lực kinh tế quốc phòng đã được củng cố một bước nhưng về vấn đề cán bộ lại đang gặp khó khăn sau đợt thanh trừng của Joseph Stalin những năm 1936–1938. Mục đích của Liên Xô là hòa hoãn với Anh – Pháp để cùng chống Đức, nếu không đạt được mục tiêu này thì có thể hòa hoãn với Đức để tránh chiến tranh.
  • Anh – Pháp luôn đánh giá thấp tiềm lực quân sự của Liên Xô, và nhất là Anh luôn nghi kỵ Liên Xô. Thủ tướng Anh Neville Chamberlain ghi trong nhật ký của mình: "Tôi xin thú thực rằng tôi rất nghi ngờ nước Nga". Vì thế, họ thường tỏ ra thờ ơ mỗi khi Liên Xô đề nghị cùng hợp lực chống Đức. Việc này vô hình trung đẩy Liên Xô phải đàm phán với nước Đức Quốc xã vì nền an ninh của mình.
  • Ba Lan đang có tranh chấp với Đức về vấn đề lãnh thổ thuộc Đông Phổ trước đây và đã chuẩn bị sắn chiến tranh với Đức. Nhưng nước này cũng nghi kỵ Liên Xô (trong quá khứ thời trung cổ, 2 nước đã nhiều lần xâm lược lẫn nhau) nên không muốn Liên Xô mang quân qua lãnh thổ của họ để chống lại Đức. Vì việc này, liên minh Nga – Anh – Pháp nhằm bảo vệ Ba Lan khó thành hiện thực.

Do đó, kế hoạch thiết lập an ninh tập thể châu Âu do Liên Xô đề xướng luôn vấp phải sự chống đối hoặc ít ra cũng là sự lãnh đạm của các nước lớn ở Tây Âu. Điều này buộc Liên Xô phải ký kết với các nước Đông Âu và Pháp các bản hiệp ước song phương về tương trợ an ninh quốc phòng. Mặc dù không ưa Liên Xô nhưng dưới sức ép của dư luận trong nước, chính phủ các nước này cũng phải đàm phán với Liên Xô về các vấn đề quốc phòng và an ninh nhằm chống lại sự đe dọa của nước Đức Quốc xã. Tháng 5 năm 1935, hai hiệp ước được Liên Xô ký kết với Anh và Pháp. Tuy nhiên, tổng thống Tiệp Khắc Benet đã từ chối thi hành hiệp ước này và coi nó là một dĩ vãng còn sót lại. Còn đối với người Pháp, mặc dù các thỏa ước khung đã được ký kết nhưng họ vẫn không chịu ký với Liên Xô một hiệp định chung giữa bộ tham mưu quân đội hai nước để cùng nhau chống nước Đức Quốc xã.

Trong các năm 1936–1937, Liên Xô đã giúp đỡ những người Cộng hòa Tây Ban Nha chống lại chế độ Franco được Adolf Hitler bảo trợ nhưng lại không được Anh, Pháp ủng hộ tích cực. Ngược lại, từ tháng 11 năm 1937, họ đã mở nhiều cuộc hội đàm với các thủ lĩnh Đức Quốc xã tại Obersanzberg. Tham dự các vòng hội đàm còn có cả Huân tước Anh Halifax, các bộ trưởng của chính phủ Pháp. Họ cho rằng chế độ của Hitler đã trở thành thành trì chống chủ nghĩa Bolshevik và đã đến lúc có thể tiến hành cuộc thập tự chinh mới về phương Đông. Thái độ không dứt khoát của Anh và Pháp vô hình trung đã "động viên" Hitler mạnh dạn ra tay. Ngày 1 tháng 3 năm 1938, nước Đức Quốc xã thôn tính Cộng hòa Áo mà không cần nổ một phát súng. Trong khi Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô tuyên bố lên án cuộc xâm lược này thì thủ tướng Anh Neville Chamberlain lại nói: "Chúng ta phải tránh bị mắc lừa. Và chúng ta cũng không để cho các nước nhỏ có ảo tưởng về sự giúp đỡ của Hội Quốc Liên có thể dành cho họ để chống lại sự xâm lược".

Thái độ đó càng khuyến khích Hitler lấn tới. Tháng 8 năm 1938, quân đội Đức tập trung 30 sư đoàn quanh biên giới Tiệp Khắc. Đáng lẽ phải thành lập một mặt trận chung chống nước Đức Quốc xã thì Anh – Pháp lại nhận lời mời của Ribbentrop tham gia Hội nghị Munchen trong các ngày 29 và 30 tháng 9 năm 1938 giữa tứ cường Anh, Đức, Pháp, Ý. Kết quả của hội nghị này là một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau được ký giữa bốn nước này ngày 30 tháng 9 mà không hề đếm xỉa đến Hiệp ước tương trợ giữa Anh và Pháp với chính phủ Tiệp Khắc của tổng thống Benet. Ngày 6 tháng 12 năm 1938, Pháp tuyên bố từ bỏ Hiệp ước tương trợ với Liên Xô để ký với Đức bản tuyên bố thừa nhận hiệu lực hoàn toàn của Hiệp định Munich 1938. Bằng Hiệp định Munich, Anh và Pháp đã thừa nhận việc Đức Quốc xã thôn tính nước Áo là việc đã rồi, cho phép Hitler đánh chiếm xứ Bohemia và Moravia, chia cắt Tiệp Khắc; đặt Ba Lan và cả Liên Xô trước nguy cơ xâm lược của nước Đức Quốc xã. Nhà sử học Cộng hòa Liên bang Đức Michael Freuner viết: "Khi gót giày Đức làm rung chuyển xứ Bohemia thì toàn thế giới sụp đổ. Người ta đã bỏ đi hòn đá tảng của Hiệp ước Versailles. Đế quốc Đức thấy mình đã được mở cửa sang phía Đông" [[Adolf Hitler|Hitler và đại diện các nước Anh, Pháp tại lễ ký Hiệp định Munich 1938]]

Hiệp ước Munich 1938 không chỉ mở đường cho nước Đức Quốc xã chiếm đóng Tiệp Khắc mà còn "bật đèn xanh" cho quân đội Đức tại Đông Phổ chiếm vùng Klaipeda của Litva, áp đặt một hiệp ước kinh tế bất bình đẳng với Romania và khuyến khích nước Ý phát xít của Benito Mussolini xâm lược Albania. Tháng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền an ninh tập thể của châu Âu, Liên Xô mở lại các cuộc thương lượng với Anh và Pháp, thành thực tìm kiếm một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu và Đông Âu. Mặc dù người Nga thực lòng muốn ký một hiệp ước phòng thủ chung càng sớm càng tốt với Anh và Pháp nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của các chính phủ Édouard Daladier và Neville Chamberlain. Họ đòi Liên Xô bảo đảm sự giúp đỡ nếu nước Đức Quốc xã tiến công về phía Tây, nhưng lại lảng tránh vấn đề giúp đỡ Ba Lan nếu nước Đức gây hấn ở phía Đông. Chính thái độ này của Anh và Pháp đã khuyến khích các nước Đức, Ý, Nhật ký kết với nhau tại Berlin bản "Hiệp ước chống quốc tế cộng sản" ngày 27 tháng 9 năm 1940. Toàn bộ tình hình trên đã buộc chính phủ Liên Xô phải có những hành động kiên quyết trong việc tìm con đường để đảm bảo cho nền an ninh đất nước. Con đường đó là con đường lợi dụng mâu thuẫn giữa các kẻ thù, khi Liên Xô quyết định chấp nhận đề nghị (nhiều lần) của Quốc xã ký với họ hiệp ước không xâm lược lẫn nhau. Những lời đề nghị này đã có từ ngày 20 tháng 8 năm 1936 nhưng chỉ đến khi thấy không còn biện pháp ngoại giao nào khác để đẩy lùi chiến tranh; ngày 23 tháng 8 năm 1939, Nhà nước Liên Xô mới cử phái đoàn do Bộ trưởng dân ủy ngoại giao V. M. Molotov dẫn đầu đón tiếp phái đoàn Đức của Ribbentrop tại Moskva để đàm phán với nước Đức Quốc xã.

Về phía Đức Quốc xã, để chuẩn bị cho Chiến tranh thế giới thứ hai, Hitler đặc biệt quan tâm đến vấn đề làm sao tránh cho nước Đức thoát khỏi tình cảnh phải tiến hành chiến tranh cùng lúc trên hai mặt trận như trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Để đạt được mục đích ấy, trong quan hệ với các cường quốc tư bản phương Tây, Hitler đã nói: "Phải dùng con ngáo ộp Bolshevik để đe dọa các cường quốc Versailles làm cho họ tin rằng, nước Đức là con đê cuối cùng ngăn chặn làn sóng đỏ. Đối với chúng ta, đó là cách duy nhất để vượt qua thời kì khủng hoảng này, thanh toán hiệp ước Versailles và tái vũ trang.". Nhưng mặt khác, Hitler cũng chủ trương tạm hòa hoãn với Liên Xô để tập trung lực lượng chống các cường quốc tư bản phương Tây, trước hết là Anh – Pháp. Vào ngày 23 tháng 8 năm 1939, Đức và Liên Xô đã ký hiệp ước Ribbentrop-Molotov, hay Hiệp ước Hitler-Stalin. Trong nội dung hiệp ước này, Đức Quốc Xã và Liên Xô đồng ý chia nhau quyền kiểm soát Ba Lan theo giới tuyến dọc theo sông Bug, người Đức chiếm mọi thứ ở phía tây, Liên Xô chiếm mọi thứ ở phía đông, kèm theo thỏa thuận bất tương xâm giữa hai cường quốc quân sự Đức – Xô, Joachim von Ribbentrop, Ngoại trưởng Đức, đã gặp người đồng cấp Liên Xô V.M. Molotov để ký Hiệp ước Hữu nghị Biên giới Đức – Xô sau khi cả hai nước tấn công xong Ba Lan.

Chính sách đối ngoại của Liên Xô trong những năm 1933–1939

Yêu sách của nước Đức Quốc xã đối với eo đất Dantzig của Ba Lan năm 1939

Sau khi Hitler lên nắm quyền năm 1933 và đưa nước Đức vào tiến trình của chủ nghĩa "quốc gia xã hội" chống Xô Viết, chống bồi thường cho Đảng cộng sản Liên Xô, làm băng giá các quan hệ kinh tế và quân sự Xô – Đức. Có những ý kiến cho rằng ban đầu Stalin nhìn nhận Hitler như một con rối của các tầng lớp tư bản độc quyền Đức. Họ đã đưa Hitler lên cầm quyền nhưng chính họ mới là những người chủ thực sự của Đức. Kể từ đó, lập trường chính thức của các nhà ngoại giao Liên Xô, đứng đầu là Litvinov với chính sách về "an ninh chung châu Âu" trở thành cơ sở của hệ thống các điều ước quốc tế mà Liên Xô ký kết, phù hợp với hệ thống Versailles và ngăn chặn việc tìm kiếm kế hoạch phục thù của nước Đức.

Đến tháng 3 năm 1935, rốt cuộc nước Đức đã đơn phương chấm dứt hoạt động của các quan sát viên theo dõi việc thi hành các điều khoản quân sự của Hiệp ước Versailles năm 1919. Nước này đã thiết lập chế độ cưỡng bách tòng quân, thực hiện phổ biến chế độ đảm phụ chiến tranh phổ biến và thời kỳ tái vũ trang nước Đức đã bắt đầu. Tuy nhiên, hành động này của nước Đức đã không gặp phải sự phản đối có hiệu lực từ các cường quốc phương Tây, những nước bảo lãnh của Hiệp ước Versailles.

Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa Ba Lan và Liên Xô đã được ký ngày 25 tháng 7 năm 1932, ban đầu có hiệu lực trong 2 năm. Đến ngày 5 tháng 5 năm 1934, nó được gia hạn đến ngày 31 tháng 12 năm 1945. Ngày 2 tháng 5 năm 1935, Liên Xô đã ký kết với Pháp, và ngày 16 tháng 6 ký kết với Tiệp Khắc các thỏa thuận hỗ trợ lẫn nhau. Còn Ba Lan thì đã tự nguyện đảm nhận việc bảo vệ lợi ích của Đức tại Hội Quốc Liên. Ngày 26 tháng 1 năm 1934, Ba Lan đã ký một tuyên bố với Đức về tình hữu nghị và không xâm phạm lẫn nhau.

Tiếp đó, tháng 11 năm 1936, Đức và Nhật Bản đã ký hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản Liên Xô, đến năm 1937 có thêm Italia tham gia. Liên Xô cung cấp hỗ trợ quân sự cho chính phủ Cộng hòa Tây Ban Nha, nơi mà Đức và Ý đang tích cực hỗ trợ các cuộc đảo chính của tướng Franco. Trong tháng 3 năm 1938, Đức thôn tính nước Áo và tuyên bố chủ quyền vùng Sudet trên lãnh thổ Tiệp Khắc. Trong khi đó, Anh và Pháp lại theo đuổi một chính sách xoa dịu và nhượng bộ. Rất nhiều tổ hợp và tập đoàn đầu tư của phương Tây đầu tư vào nền kinh tế nước Đức, đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng..

Sự việc rõ ràng hơn qua thư khố của Bộ Ngoại giao Đức. Một bản ghi nhớ ngày 4 tháng 11 năm 1938 cho thấy Hermann Göring nhấn mạnh việc phục hồi quan hệ mậu dịch với Liên Xô, nhất là việc mua nguyên vật liệu của Liên Xô. Những hiệp ước kinh tế Nga – Đức sẽ hết hạn vào cuối năm, và các cuộc đàm phán để ký kết lại thì chưa ngã ngũ. Hai bên vẫn còn nghi ngại nhau nhưng đang chầm chậm tiến đến gần nhau. Trở ngại chính trong mậu dịch là trong khi Đức đang thèm muốn nguyên liệu của Liên Xô, Đức không thể cung cấp cho Liên Xô những hàng hóa để dùng vào việc trao đổi hiện vật.

Tuy nhiên quan hệ kinh tế khó có thể thay thế các quan hệ chính trị ngoại giao đã có những dấu hiệu khác thường. Ngày 10 tháng 3 năm 1939, Josef Stalin đọc một bài diễn văn dài trong Đại hội Đảng lần thứ 18. Ba ngày sau, Đại sứ Đức ở Nga, Friedrich von der Schulenburg, gửi về Berlin một bản báo cáo dài, cho biết: "Trong tình hình quốc tế hiện nay mà họ cho là nghiêm trọng, Chính phủ Xô Viết tìm cách tránh cuộc xung đột giữa Liên Xô với Đức". Anh bỏ qua, nhưng Đức để ý đến việc này.

Stalin tin rằng Anh thích liên minh với Ba Lan hơn là với Liên Xô. Ông cũng cho rằng Thủ tướng Anh Arthur Neville Chamberlain muốn đẩy Liên Xô ra ngoài rìa chính trường châu Âu. Tuy thế, chính sách ngoại giao của Liên Xô vẫn là để mở cho cả hai bên Đức và Anh – Pháp. Ngày 16 tháng 4 năm 1939, Ngoại trưởng Litvinov của Liên Xô chính thức đề nghị Hiệp ước Ba Bên gồm Anh, Pháp và Nga. Đấy là nỗ lực cuối cùng của Litvinov nhằm tạo mối liên minh chống Đức. Không nước nào ở Đông Âu, kể cả Ba Lan, có đủ tiềm lực duy trì một mặt trận ở vùng này. Tuy thế, đề nghị của Liên Xô đã gặp phải thái độ nghi ngại của Anh và Pháp.

"Sứ mạng Kandelaki"

Trong những nỗ lực để mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị nhằm giảm căng thẳng. Việc tìm kiếm những địa chỉ liên lạc bắt đầu vào năm 1934, sau những "đêm yến tiệc" ngoại giao, người Đức đã thuyết phục được Stalin rằng Hitler là biểu tượng của quyền lực lâu bền. Kết quả là vào cuối năm 1934, người Nga đã cử ông David Vladimirovik Kandelaki đến văn phòng đại diện thương mại của họ tại Berlin làm sứ giả để tìm kiếm việc thiết lập quan hệ chính trị với nước Đức. Trước khi chia tay Kandelaki, Stalin đã gặp ông ta hai lần (và cuộc gặp lần thứ hai diễn ra tại tư gia) cho thấy tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Stalin giao. Tại Đức, Kandelaki đã làm việc tích cực để chuyển các mối quan hệ từ vấn đề kinh tế sang vấn đề chính trị trong các cuộc đàm phán của mình với các bộ trưởng của nước Đức Quốc xã, với Hermann Göring và Thống đốc Ngân hàng quốc gia Đức Hjalmar Schacht. Đặc biệt, Kandelaki nói với Schacht: "Nếu có một cuộc gặp giữa Stalin và Hitler, rất có thể sẽ có những thay đổi". Trong bản báo cáo của Kandelaki về chuyện này, Stalin đã phê vào góc trên, bên trái: "Thật thú vị. J. St.". Và ông thông báo việc này với Voroshilov và Kaganovich.

Tháng 3 năm 1935, Stalin đặc biệt lưu ý đối với các báo cáo tình báo "quan trọng, cần xem xét" của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp Pierre Laval, trong đó coi Liên Xô và đối thủ Đức Quốc xã không phải là không thể thay đổi hiện thực chính trị quốc tế. Cuối cùng, Đức và Liên Xô cũng vẫn có thể tấn công nhau và thiệt hại của họ là "một món hời" đối với Pháp. Năm 1936, phía Liên Xô từ chối ký kết với Đức hiệp ước không xâm lược với lý do hai nước không có biên giới chung. Theo người đứng đầu mạng lưới tình báo Liên Xô Walter Germanovich Krivitsky, để chứng tỏ một phần thiện chí của Moskva; trong tháng 12 năm 1936, ông này đã được lệnh phải giảm bớt hoạt động tình báo tại Đức. Cái gọi là "sứ mệnh Kandelaki" tiếp tục đến năm 1937 và kết thúc thất bại. Vì các lý do chính trị và tư tưởng, phía Đức Quốc xã đã không xem nó là cần thiết để đi đến việc mở rộng quan hệ với Liên Xô..

"Những bài diễn văn có màu hạt dẻ"

Theo lịch sử phương Tây và báo chí trong Chiến tranh Lạnh, tên gọi này do Stalin nêu ra hồi tháng 10 năm 1939 tại Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik). Đến nửa sau những năm 80 của thế kỷ XX, với trào lưu "cải tổ", tên gọi này được lược bỏ trong lịch sử và báo chí Liên Xô và sau đó là Nga. Theo một số nhà sử học, trong bài phát biểu, Stalin đã gọi những cáo buộc của Anh và Pháp về chính sách của Liên Xô đối với Đức là sự khiêu khích, kích động chiến tranh, có hại cho hòa bình bằng cái tên này. Tại đây, ông cũng thông báo các mục tiêu chính trong chính sách đối ngoại của Liên Xô:

  • Để tiếp tục các chính sách hòa bình, Liên Xô tăng cường quan hệ kinh doanh với tất cả các nước.
  • Không để đất nước chúng tôi bị kéo vào các xung đột bởi các thế lực hiếu chiến đã quen được người ta ủy cho quyền thao túng trong sự phục thù.

Mặc dù Viacheslav Damichev (Вячеслав Дашичев) cho rằng gợi ý này có vẻ như ngay lập tức được chấp nhận ở Berlin; rằng sau khi ký kết Hiệp ước Xô – Đức, Molotov gọi nó là "sự khởi đầu của những biến đổi" trong quan hệ Xô – Đức, nhưng lại không có một cơ sở tài liệu nào để giải thích tùy tiện bài phát biểu của Stalin tại Đại hội. Tại mục "Vị trí quốc tế của Liên Xô" trong báo cáo của mình, Stalin phân tích tình hình quốc tế lúc đó trực tiếp chỉ ra nguy cơ xâm lược:

:"Đây là các sự kiện quan trọng trong thời kỳ hiện nay, đang mở ra một cuộc chiến tranh đế quốc. Năm 1935, Ý xâm chiếm Abyssinia và nô dịch nó. Vào mùa hè năm 1936 Đức và Ý đã tổ chức một sự can thiệp quân sự ở Tây Ban Nha, và Đức đã thực hiện cuộc can thiệp đó ở phía bắc Tây Ban Nha và vùng giáp giới giữa Tây Ban Nha với Maroc, và Ý ở phía nam của Tây Ban Nha và quần đảo Balearic. Năm 1937, Nhật Bản, sau khi chiếm đóng Mãn Châu, đã xâm chiếm miền Bắc và miền Trung Trung Quốc, đã chiếm Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải và bắt đầu mở rộng phạm vi chiếm đóng ra ngoài khu vực của đối thủ cạnh tranh của họ. Đầu năm 1938, Đức xâm chiếm Áo, và mùa thu năm 1938, chiếm vùng đất Sudet của Tiệp Khắc. Cuối năm 1938, Nhật Bản chiếm Quảng Châu, và vào đầu năm 1939, chiếm đảo Hải Nam"..

Vào ngày 31 tháng 3, Thủ tướng Anh Chamberlain đã thay mặt các nước Anh và Pháp thông báo bảo đảm hỗ trợ Ba Lan trong trường hợp bị gây hấn. Ngày 6 tháng 4, những lời bảo đảm trên được chính thức ghi nhận trong Hiệp ước quân sự Anh – Ba Lan. Trong một bài phát biểu tại nước Đức ngày 28 tháng 4, Hitler đã tuyên bố xóa bỏ Hiệp ước không xâm lược giữa Đức và Ba Lan đã được ký ngày 26 tháng 1 năm 1934 và thỏa thuận hàng hải – hải quân năm 1935 giữa Anh và Đức. Một điểm đáng chú ý rằng Hitler trong bài phát biểu của ông luôn nhấn mạnh "để tránh các cuộc tấn công truyền thống của Liên bang Xô viết"..

Trong nửa cuối tháng 4, Stalin đã có trong tay các tài liệu chính xác chứng tỏ Anh và Pháp đang chuẩn bị để chiến đấu yểm hộ Ba Lan. Theo nhà nghiên cứu, Sergei Zinovievich Slutch, triển vọng của việc tham gia cuộc chiến chống lại Đức không phù hợp với ý định của Stalin, và việc giữ mối quan hệ với Berlin đã trở thành sự "ưu tiên hàng đầu của ông ta"..

Ngày 3 tháng 5 năm 1939, Litvinov được thay thế bởi Vyacheslav Molotov. Tại Berlin, nó được coi như là một dấu hiệu đáng khích lệ. Việc thay đổi đột ngột có ý nghĩa đặc biệt. Litvinov có chủ trương củng cố an ninh cho Nga chống lại Đức Quốc xã bằng cách liên minh với Anh và Pháp. Sự lưỡng lự của Chamberlain với liên minh này đã làm hại đến Litvinov. Theo phán xét của Stalin, chính sách của Litvinov đã thất bại. Hơn nữa, chính sách này đe dọa đưa Nga vào cuộc chiến với Đức. Stalin kết luận rằng phải thay đổi. Nếu Chamberlain đã xoa dịu Hitler, liệu ông ấy sẽ xoa dịu nhà độc tài Nga được không? Việc Litvinov gốc Do Thái được thay thế bởi Molotov không phải là người Do Thái có thể gây tác động lên giới lãnh đạo Quốc xã. Ngày hôm sau, báo chí Đức đã bị cấm đăng tất cả các bài công kích Liên Xô. Trong khi Thủ tướng Anh vẫn có thái độ lạnh nhạt và thậm chí là khinh bỉ đối với Liên Xô thì ngược lại, Winston Churchill (lúc này chỉ là đại biểu Nghị viện) cho rằng Liên Xô đã có đề nghị "công bằng hơn, đơn giản hơn, trực tiếp hơn và hiệu quả hơn" so với đề nghị của chính Chamberlain. Ông van nài Chính phủ Anh quốc nên tiến gần đến Nga, vì "nếu không có Nga sẽ không có mặt trận miền Đông vững chắc.". Từ ngày 9 tháng 5 tại Berlin loan đi tin đồn rằng Đức "đã và đang chuẩn bị để cùng với Nga để thực hiện kế hoạch phân chia lãnh thổ của Ba Lan".

Với các diễn biến như trên thì không có gì là bất bình thường trong việc Liên Xô tăng cường sự tiếp xúc với Đức. Ngày 20 tháng 5, Bộ trưởng dân ủy Ngoại giao Liên Xô tiếp đại sứ Đức Schulenburg trong một cuộc nói chuyện với không khí rất thân thiện. Họ cho rằng sự thành công của cuộc đàm phán về kinh tế "nên được đặt trong một khuôn khổ chính trị". Việc đề cập đến "cơ sở chính trị" của vấn đề là một sự bất ngờ đối với Schulenburg. Đây là đường hướng mới từ Điện Kremli nhưng Molotov vẫn tỏ ra kín đáo. Khi Schulenburg hỏi "cơ sở chính trị" có nghĩa như thế nào, Molotov đáp đấy là điều hai chính phủ nên suy nghĩ. Mọi nỗ lực của vị đại sứ muốn khai thác thêm ý nghĩa từ vị Ủy viên Ngoại giao chỉ hoài công. Ngày 21 tháng 5, Stalin yêu cầu Bộ dân ủy Ngoại giao Liên Xô chuẩn tất cả tài liệu về Đức và các điều ước của Liên Xô..

Ngày 27 tháng 5 Chamberlain lo ngại rằng Đức sẽ có thể làm hòa Liên bang Xô viết nên đã lệnh cho Đại sứ của mình tại Moskva đồng ý thảo luận về một hiệp ước tương trợ, kèm theo một hiệp ước liên minh quân sự giữa hai nước để chống Hitler. Molotov đã ngạc nhiên khi nhận được một gói đề xuất có liên quan của người Anh trong đó có cả một bức thông điệp của người Pháp. Cho đến cuối tháng 7, các cuộc đàm phán vẫn dẫm chân tại chỗ chủ yếu do thái độ thiếu thiện chí của Anh và Pháp trong việc thảo luận định nghĩa của Liên Xô về "gián tiếp xâm lược", trong đó liên minh cam kết là có hiệu lực. Trong phần giải trình của Liên Xô, nó đã được xác định như sau:

Tuy nhiên, điều này lại được các đại biểu Anh và Pháp nhìn nhận như một yêu sách của Liên Xô có thể cho phép họ có lý do để thực hiện ý định đưa quân đội của mình vào các quốc gia láng giềng. Về phần mình, các nhà đàm phán Anh và Pháp đề nghị việc thực hiện các thỏa thuận đó còn tùy theo việc "xâm lược gián tiếp" phải được xác định chỉ sau khi tham khảo ý kiến ba bên. Liên Xô cho rằng Anh và Pháp chỉ cam kết thừa nhận miễn cưỡng một phần đề nghị đó trong trường hợp họ có thể phải đối đầu với Đức trong một cuộc chiến tranh..

:Wilston Churchill đã nhận xét:

Các cuộc hội đàm giữa Liên Xô và Đức

Ngày 24 tháng 7, Cố vấn đặc biệt về Chính sách kinh tế đối ngoại đối với phương Đông của Văn phòng Đế chế Karl Julius Schnurre đã có cuộc hội đàm với phái viên phụ trách các vấn đề đối ngoại của Liên Xô G. I. Astakhov. Sau khi thảo luận về các vấn đề kinh tế hiện tại, hai bên đã vạch ra một kế hoạch để cải thiện quan hệ về chính trị giữa Đức và Liên Xô (hai bên đã thỏa thuận trước đó rằng một phần của cuộc hội đàm này chỉ là một cuộc trao đổi quan điểm, không phải là thỏa thuận chính thức). Kế hoạch của Đức bao gồm: :1 – Tiến hành việc ký kết hợp đồng tín dụng thương mại theo thông lệ. :2 – Thiết lập các mối quan hệ trong lĩnh vực báo chí và hợp tác văn hóa, tạo một bầu không khí tôn trọng lẫn nhau :3 – Thiết lập quan hệ hữu nghị về chính trị. Điều này được Schnurre lưu ý rằng những nỗ lực liên tục của Đức để nâng cao quan hệ này đã vượt qua Liên Xô.

Ngày 26 tháng 7, Schnurre tiếp tục phát triển chủ đề này bằng cách mời Ribbentrop, Astakhov và đại diện thương mại E.I. Babarina đến nhà hàng. Giai đoạn thứ ba của kế hoạch đã được phía Đức kích thích thêm: hoặc quay trở lại những gì nó đã đạt được trước khi hiệp ước trung lập của năm 1926, hoặc một thỏa thuận mới này sẽ đưa vào khuôn khổ lợi ích quan trọng của cả hai đảng chính trị. Ribbentrop còn nói thêm rằng Đức đã sẵn sàng để thảo luận và thương lượng với Liên Xô trên tất cả các vấn đề mà hai bên quan tâm, đề cập đến tất cả những bảo đảm về an ninh những gì mà nước Đức muốn nhận được từ nó. Ngay cả đối với các nước vùng Baltic và Ba Lan, Đức cũng sẽ dễ dàng đồng ý như đã làm đối với Ukraina (trước đó Đức đã từ chối thỏa thuận).

Ngày 3 tháng 8 Ribbentrop lần đầu tiên thực hiện một tuyên bố chính thức về quan hệ Liên Xô – Đức Quốc xã, ngoài những điều khác còn hàm chứa một lời gợi ý về các lĩnh vực và các khu vực chịu ảnh hưởng:

"Đối với tất cả các vấn đề liên quan đến lãnh thổ từ Biển Đen đến biển Baltic, chúng ta có thể dễ dàng dàn xếp... Đối với Ba Lan, trong những sự kiện mới phát sinh, chúng tôi đang theo dõi một cách cẩn thận và bình tĩnh. Trong trường hợp của sự khiêu khích trên một phần của Ba Lan, chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề với Ba Lan trong vòng một tuần. Trong trường hợp này tôi đã thực hiện một gợi ý tinh tế trong khả năng của một thỏa thuận với Liên Xô về số phận của Ba Lan..

Ngày 15 tháng 8, Bá tước Schulenburg chuyển một tin nhắn đến Molotov, trong đó Bộ trưởng Ngoại giao của Đức Ribbentrop bày tỏ ông ta sẵn sàng đến Moskva để "làm rõ mối quan hệ Đức – Xô." Ribbentrop cũng đã bày tỏ sự sẵn sàng để "giải quyết tất cả các vấn đề về lãnh thổ từ Baltic tới Biển Đen." Trong một phản ứng của phía Liên Xô, Molotov đã qua Schulenburg đề nghị ký kết một hiệp ước toàn thể thay vì đề xuất một tuyên bố chung về không sử dụng vũ lực chống lại nhau (có ý nghĩa như một Công ước trong tương lai).

Các cuộc đàm phán quân sự của Liên Xô với Anh và Pháp

Không chờ đến khi có được những thỏa thuận về chính trị, ngày 23 tháng 7, Liên Xô đã mời Anh và Pháp đến Moskva dự các cuộc đàm phán về các vấn đề quân sự. Ngày 25 tháng 7, Anh đồng ý và ngày 26 tháng 7, Pháp cũng đồng ý. Ngoại trưởng Anh Halifax cho biết, đoàn của ông sẽ có thể ở lại Moskva trong vòng 7 đến 10 ngày, nhưng thành phần của nó vẫn còn chưa xác định. Trong khi hoàn toàn có thể đi được bằng máy bay đến Liên Xô thì phía Anh lại lấy cớ bảo đảm bí mật với Đức để đi bằng tàu biển với tốc độ chỉ 13 hải lý/giờ. Đoàn Đại biểu Anh và Pháp rời London đi Moskva ngày 5 tháng 8 dưới danh nghĩa đi du lịch, qua tuyến đường biển đến Leningrad (nay là St.Petersburg) ngày 10 tháng 8, sau đó đi Moskva bằng tàu hoả. Tại Moskva, họ bắt đầu làm việc từ ngày 11 tháng 8. Các quan hệ với phái đoàn Anh cho các cuộc đàm phán tại Moskva được thực hiện thông qua trợ lý được Bộ trưởng Ngoại giao chỉ định làm người đứng đầu đoàn là Đô đốc Drax (mặc dù người chính thức dẫn đầu Đoàn Đại biểu Anh là Thứ trưởng Anthony Eden), người có vị trí không quan trọng lắm trong giới lãnh đạo quân sự Anh tại thời điểm đó. Không giống như trong cuộc đàm phán tại Ba Lan, Anh chỉ cử Tổng Tư lệnh Không quân, Tướng Ironside làm Trưởng đoàn. Điều này chứng tỏ Chamberlain không tin vào khả năng đạt được thỏa thuận với Liên Xô, cũng không tin tưởng ở khả năng quân sự của Hồng quân.Trong một bức thư cá nhân ngày 28 tháng 3, Chamberlain đã viết: "Tôi phải thú nhận rằng tôi hoàn toàn không tin tưởng Liên Xô. Tôi không tin rằng họ có thể thực hiện một cuộc tấn công có hiệu quả, ngay cả khi họ muốn... Trong thực tế, người ta ghét họ vì nghi ngờ họ muốn khống chế các quốc gia lân bang nhỏ, đặc biệt là Ba Lan, Romania và Phần Lan". Tại cuộc họp nội các Chamberlain tuyên bố rằng đối với tất cả mọi thứ "liên quan đến việc liên minh với Liên Xô, ông có linh cảm rằng "hoàn toàn không thể tin vào sức mạnh của Liên Xô và cần phải nghi ngờ về khả năng cung cấp hỗ trợ cho Liên Xô trong trường hợp có chiến tranh". Phía Anh hy vọng sẽ sử dụng các cuộc đàm phán chỉ như là một phương tiện gây áp lực đối với Hitler và vì thế họ kéo dài đàm phán và không muốn đi đến một thỏa thuận đầy đủ.. Trong khi đó, Ngoại trưởng Anh Halifax lại có một thái độ thận trọng hơn. Ông cho rằng: "Không nên đẩy người Nga ra xa mà nên giữ người Nga dưới ảnh hưởng của chúng ta".

Những động thái trên đây không qua được những con mắt dò xét của Đức. Đại sứ Herbert von Dirksen của Đức ở Anh báo cáo về Berlin rằng các giới chính quyền Anh nhìn sự đàm phán quân sự với Liên Xô bằng con mắt hoài nghi: :"Điều này thấy rõ qua thành phần của Phái bộ Quân sự Anh. Đô đốc Drax nằm trong danh sách về hưu và chưa từng ở trong Bộ Tham mưu Hải quân. Thiếu tướng Lục quân là một sĩ quan thuần túy về kế hoạch tác chiến. Đại tướng không quân là một phi công và huấn luyện viên xuất sắc, nhưng không phải là nhà chiến lược. Điều này dường như chỉ ra rằng nhiệm vụ của Phái bộ Quân sự Anh là nhằm đánh giá năng lực tác chiến của quân lực Liên Xô hơn là để ký kết hiệp ước về quân sự..."

Ngày 12 tháng 8, cuộc họp đầu tiên của ba bên, Trưởng Đoàn Đại biểu Liên Xô đề nghị làm rõ các quyền hạn của mỗi đoàn. Ông đã trình bày giấy ủy nhiệm của Đoàn Đại biểu Liên Xô, trong đó nói rằng phái đoàn được uỷ quyền "... thương lượng với người Anh và người Pháp về lĩnh vực quân sự và ký một công ước hợp tác về các vấn đề quốc phòng và quân sự giữa nước Anh, Pháp và Liên Xô chống lại sự xâm lược ở châu Âu..." Người đứng đầu các Đoàn Đại biểu Pháp, Tướng Doumence trình bày thư ủy nhiệm của mình. Trong thư, nói rõ đoàn của ông được phép "thương lượng với Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Liên Xô về tất cả các vấn đề liên quan đến các lĩnh vực hợp tác giữa các lực lượng vũ trang của cả hai nước." Điều ủy nhiệm này tuy ít hơn những người đồng cấp của Liên Xô, nhưng nói chung Doumence đã có đủ quyền hạn để tham gia vào các cuộc đàm phán quan trọng với phía Liên Xô. Người Pháp hy vọng sớm có đạt được một thỏa thuận, song họ đều hoàn toàn phụ thuộc vào Anh. Sau đó, đến lượt đoàn Anh trình bày ủy nhiệm thư thì mới té ra rằng người đứng đầu Đoàn Đại biểu Anh, Đô đốc Drax, nói chung không có thẩm quyền được thừa uỷ bằng văn bản. Trong một cố gắng để thoát ra khỏi tình huống khó xử, Đô đốc Drax đã nói rằng nếu cuộc họp đã được chuyển tới London, ông sẽ có tất cả những quyền hạn cần thiết. Trong những tiếng cười chung của cả hội nghị, Đoàn Đại biểu Liên Xô đã trả lời rằng: "Mang giấy ủy nhiệm từ London tới Moskva là dễ dàng hơn là tất cả chúng ta cùng đi đến London như một công ty lớn"...."

Rốt cuộc, viên đô đốc hứa sẽ có sự ủy nhiệm từ chính phủ của họ bằng văn bản, nhưng ông ta chỉ có thể nhận được vào ngày 21 tháng 8. Mặc dù Đô đốc Drax thiếu quyền hạn được ủy nhiệm nhưng Đoàn Đại biểu Liên Xô nói rằng không thành vấn đề đối với việc tiếp tục cuộc họp. Trong các ngày 13, 14, 15, 16 và 17 tháng 8, bảy phiên họp đã được tổ chức. Tại đó, các bên đã trao đổi thông điệp về lực lượng vũ trang của họ và các kế hoạch của mình trong trường hợp xảy ra cuộc xâm lược của Hitler. Thay mặt cho Anh có Đô đốc Drax, Thống chế không quân Bernett và Tướng Heywood, thay mặt cho Pháp có các Tướng Doumence, Valen và Trung tá Hải quân Viyom, thay mặt cho Liên Xô có Tổng Tham mưu trưởng B. M. Shaposhnikov, Tư lệnh Không quân L. D. Lokhovitionov và Bộ trưởng Dân ủy Hải quân, Đô đốc N. G. Kuznetsov.

Đoàn Anh tỏ vẻ lạnh nhạt với việc đàm phán quân sự. Họ cho rằng không nên bàn đến những vấn đề quân sự trong khi chưa chắc Liên Xô có phải là nước đồng minh của Anh hay không. Phía Liên Xô thì ngược lại, họ muốn biết phương Tây sẽ tham gia như thế nào về quân sự trước khi bàn đến chính trị, như Molotov phát biểu: :Điểm quan trọng là xem mỗi bên đóng góp được bao nhiêu sư đoàn cho sự nghiệp chung và các sư đoàn này sẽ đóng ở đâu.

Trong khi Liên Xô đề nghị một hiệp định quân sự quy định chi tiết "phương pháp, hình thức và tầm mức" mà ba nước sẽ hỗ trợ quân sự lẫn nhau thì Anh và Pháp không đánh giá cao tiềm năng quân sự của Liên Xô. Bộ Tổng Tham mưu của Anh, cũng giống như của Đức sau này, đánh giá quá thấp sức mạnh của Hồng quân, có lẽ do các báo cáo từ tùy viên quân sự của họ, một phần dựa trên cuộc thanh trừng của các sĩ quan cấp cao. Vì thế Anh – Pháp đề nghị chỉ ký các hiệp định về quân sự sau khi đã ký hiệp định chính trị. Nhưng Liên Xô cương quyết là phải tiến hành các hiệp định chính trị và quân sự trong một gói. Sau những trao đổi bất đồng qua lại giữa hai bên, đến ngày 23 tháng 8, chủ yếu do áp lực của Pháp, Chính phủ Anh đành phải đồng ý đàm phán về một hiệp ước quân sự.

Nắm được các thông tin này, Stalin nhận thấy các cuộc đàm phán có thể bị phá hỏng vì mục đích chính của Anh và Pháp chỉ là thăm dò tiềm năng quốc phòng và các cơ sở quân sự của Liên Xô. Chứng cứ được dựa trên các văn bản viết tay của cá nhân Nguyên soái Voroshilov ngày 7 tháng 8, có đoạn như sau: :"6. Nếu Pháp và Anh vẫn tích cực tham gia vào các cuộc đàm phán thì các cuộc đàm phán phải đi vào thảo luận về các vấn đề chính sách cụ thể, chủ yếu cho các đơn vị của quân đội chúng tôi được phép đi qua các hành lang Vilensky và Galicia, cũng như đi qua Romania." :"7. Nếu họ cho rằng các đơn vị quân đội của chúng ta đi qua lãnh thổ của Ba Lan và Romania là một ngoại lệ thì không thể không có những thỏa thuận về điều kiện. Bởi vì nếu không có các đơn vị quân đội Liên Xô tại các vùng lãnh thổ cần bảo vệ, chống xâm lược dưới tất cả các hình thức của nó là chắc chắn thất bại. Mà chúng ta thì lại không biết rằng họ có thể thực sự tham gia vào các chiến dịch đó không, do đó, cũng chắc chắn đến sự thất bại." :"8. Về yêu cầu của các phái đoàn Anh và Pháp đến tham quan các nhà máy quốc phòng, các cơ quan, đơn vị quân đội và học viện quân đội thì cần phải nói với họ nói rằng: sau khi thăm viếng các phi công Liên Xô của phi công Charles Lindbergh trong năm 1938, Chính phủ Liên Xô đã cấm các cuộc tham quan của người nước ngoài đối với các tổ hợp công nghiệp quốc phòng và các đơn vị quân đội, ngoại trừ các đồng minh thực sự của chúng ta."

Theo tác giả của các đoạn văn trên, tất cả các chương trình nghị sự không nhằm mục đích thúc đẩy sự thành công của cuộc đàm phán, thậm chí còn không phải là những mục tiêu mà họ đặt trọng tâm. Và làm như thế sẽ phá vỡ đàm phán. Trách nhiệm về thất bại trong đàm phán thuộc về các đoàn đại biểu của các chính phủ phương Tây. Bằng chứng thực tế về nhận định này là ngày 11 tháng 8, tức là trước khi bắt đầu các cuộc đàm phán, Bộ Chính trị Liên Xô đã quyết định "tham gia vào một cuộc thảo luận chính thức về vấn đề quan hệ với Đức".

Qua hệ thống tình báo của mình, người Đức biết được diễn biến chậm chạp của cuộc đàm phán ở Moskva và họ lập tức có phản ứng. Ngày 8 tháng 8 năm 1939, đại diện ngoại giao của Liên Xô tại Đức Astakhov đã gửi điện cho Molotov có đoạn như sau: :"Theo tôi biết thì người Đức đang quan tâm đến vấn đề này như một sự tất yếu. Những thông tin mà họ chuyển cho tôi cho thấy đã có thể đánh giá rằng, họ không chống đối hay muốn kiểm tra chúng ta về những vấn đề này. Theo ý hiểu của tôi thì họ sẵn sàng tham gia thương lượng với chúng ta trong đàm phán với rất nhiều thỏa thuận; xem xét tất cả các vấn đề về lãnh thổ và các vấn đề chính trị có thể phát sinh giữa chúng ta và họ. Trong bối cảnh này, có cụm từ mà không phải tranh cãi là "từ Biển Đen đến vùng Baltic" có thể được hiểu như là một mong muốn đồng ý trên tất cả các vấn đề liên quan đến người dân ở các nước trong khu vực này. Người Đức sẵn sàng bày tỏ cho chúng ta thấy rằng họ sẵn sàng tuyên bố không quan tâm (ít nhất là về chính trị) đế số phận của vùng Baltic (ngoại trừ Litva), Bessarabia, lãnh thổ cũ của Đế quốc Nga tại Ba Lan (đã được sửa đổi theo quyền lợi của Đức), và từ bỏ những tham vọng của mình đối với Ukraina. Và họ cũng sẽ sẵn sàng xác nhận sự không quan tâm của chúng ta đối với số phận của Danzig, và lãnh thổ cũ của Đức tại Ba Lan (có thể mở rộng đường biên giới đến sông Warta, hoặc ngay cả sông Vistula), và cuối cùng là Galicia. Các thảo luận của cơ quan đại diện của Đức cho thấy rõ ràng là họ hiểu được sự không nhất trí giữa Anh – Pháp – Liên Xô trong các vấn đề quân sự – chính trị."

Ngày 11 tháng 8 năm 1939, Astakhov nhận được một bức điện trả lời của Molotov, trong đó có đoạn: :"Danh sách các đối tượng nêu trong thư ngày 8 tháng 8, chúng tôi đang xem xét. Hãy thảo luận về họ về một số nhu cầu đào tạo và tiến hành giai đoạn chuyển tiếp các hợp đồng thương mại – tín dụng cho các vấn đề khác. Moskva hoan nghênh các cuộc đàm phán về những vấn đề này. Molotov."

Theo các nhà nghiên cứu khác, các văn bản trên không có căn cứ để giải thích như vậy. Theo họ thì Voroshilov bị đặt trước một số câu hỏi cụ thể mà họ không thể cung cấp câu trả lời rõ ràng cho Anh và Pháp, vì họ bị cấm tiết lộ thông tin về bí mật quân sự để bảo đảm chắc chắn rằng không có một thông tin nào cùng với sự thỏa thuận ràng buộc chính trị có thể được chuyển đến Berlin. Liên Xô cũng đã có kế hoạch triển khai các đơn vị, theo đó họ phải động viên tới 136 sư đoàn, nhưng các đại diện của Anh và Pháp đã từ chối cung cấp binh lực cho kế hoạch đó. Phía Liên Xô cần một câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi rằng, trong vòng một ngày, Hồng quân có thể được phép đi qua Ba Lan, Vinius và hành lang Galicia không? Nếu không, phía Liên Xô không thể ngăn chặn được một cuộc xâm lược có thể có của Đức.. Đây là một "điểm chết" mà tại đó cuộc đàm phán đã không thể vượt qua được. Ba Lan từ chối việc cho Hồng quân đi qua lãnh thổ của mình, bất chấp áp lực từ Pháp..

Trong các ngày 17 và 20 tháng 8, người đứng đầu phái đoàn quân sự Pháp, Tướng Doumence báo cáo từ Moskva về Paris: :"Không còn nghi ngờ gì nữa, Liên Xô mong muốn kết thúc đàm phán bằng một hiệp ước quân sự nhưng khó có thể đạt được như họ mong muốn. Do đó, chúng tôi chuyển nội dung hiệp ước thành một biên bản ghi nhớ các kết quả đàm phán mà không có giá trị cụ thể. Sự thất bại của các cuộc đàm phán là không thể tránh khỏi nếu Ba Lan không chịu thay đổi lập trường."

Nhà báo Mỹ William Shirer nói:

:"Mặc dù những tài liệu được phổ biến rộng rãi vào thời gian đó không chỉ ở Moskva mà còn ở cả phương Tây rằng Anh và Pháp đã không làm gì để thuyết phục Ba Lan đồng ý cho quân đội Xô Viết đi qua lãnh thổ của mình nhằm bảo vệ họ chống lại quân Đức. Những bài báo xuất bản gần đây cho thấy sự việc không hẳn là như vậy. Trong trường hợp đó, Anh và Pháp đã không thể đi trên một đoạn đường xa hơn để đến với họ. Từ các tài liệu này, có thể thấy rõ ràng rằng Ba Lan đã có sự dại dột không thể tưởng tượng được về chính trị.".

Đồng thời với các cuộc đàm phán Moskva, chính phủ Anh đã dẫn cuộc đàm phán tại Luân Đôn với các đại diện của Đức đi đến một thỏa thuận trong đó có thể nhận thấy những lợi ích đặc biệt của Đức ở Đông và Đông Nam châu Âu. Ngoài ra, Anh cũng sẵn sàng cho phép Đức sử dụng "các thuộc địa tại khu vực châu Phi". Các cuộc đàm phán đã kết thúc trong sự thất bại vì trên thực tế Đức đã từ chối nhìn nhận các đề nghị của Anh do sự đối lập đã khá sâu sắc..Trong tuyên bố chính thức của mình, Chính phủ Liên Xô cho rằng không thể tin tưởng vào đối tác của họ tại các cuộc đàm phán và Moskva đã đồng ý xem xét đề xuất của Đức cho việc ký kết các Hiệp ước không xâm lược giữa Đức Quốc xã và Liên Xô.

Tình hình chính trị ở Đông Âu

Chính phủ của các nước Đông Âu láng giềng với Liên Xô cũng có sự mất lòng tin sâu sắc. Tháng 3 năm 1939, sau khi Đức đánh úp Klaipeda của Litva, Liên Xô đã cố gắng đặt quan hệ ngoại giao với Latvia và Estonia, nhưng họ đã gặp phải sự lạnh nhạt. Cũng trong tháng 3, mặc dù tình hình quan hệ giữa Đức và Ba Lan đã trở nên rất căng thẳng nhưng Bộ Ngoại giao Ba Lan vẫn nói rằng Ba Lan không muốn bị ràng buộc bởi bất kỳ một thỏa thuận nào với Liên Xô.

Chính sách của Ba Lan trước chiến tranh được nhà báo kiêm sử gia người Mỹ William Shirer mô tả là tương đương với sự tự sát. Shirer giải thích rằng từ năm 1934, Ba Lan đã chấp nhận làm người đại diện một cách nhất quán cho Đức về các vấn đề bồi thường chiến phí theo Hiệp ước Versailles. Cùng thời gian đó, giữa Ba Lan và Đức có một tranh chấp lãnh thổ nhỏ về Hành lang Danzig đã phân chia lãnh thổ của nước Đức thành hai phần. Quan hệ giữa Ba Lan và Nga đã đóng băng kể từ Chiến tranh Nga Xô viết – Ba Lan từ năm 1919 đến năm 1921. Trong đó Ba Lan đã dịch chuyển biên giới phía đông của đường Curzon và kết quả là có khoảng 6 triệu người thuộc các dân tộc Belarusia và Ukraina đã phải sống trên lãnh thổ Ba Lan. Sau cái chết của Jozef Pilsudski, chính sách của Ba Lan đã được các nhà lãnh đạo kế tục ông và từng tham gia chiến tranh Nga Xô viết – Ba Lan như Beck và Edward Rydz – Smigly tiếp tục lập trường đối đầu với Liên Xô. Như vậy, theo Shirer, Ba Lan đã có một đường biên giới "không thể chấp nhận" đối với cả Đức và Liên Xô, trong khi họ không đủ mạnh để có thể "tranh chấp với hai người láng giềng" cùng một lúc..

Theo nhà sử học Estonia, Tiến sĩ Magnus Ilmyarv, các quốc gia vùng Baltic không tin Liên Xô vì lý do có tính chất lịch sử và vì chế độ chính trị khác nhau. Đầu mùa hè năm 1939, khi giữa Liên Xô, Anh và Pháp có các cuộc đàm phán thì họ lo sợ rằng sẽ bị sáp nhập vào Liên Xô. Trước Chiến tranh Nga Xô viết – Ba Lan, Hồng quân Bolshevik đã từng thành lập chính quyền Xô viết ở đó và họ có thể trở lại. Ngoài ra, sau kinh nghiệm của Hiệp ước Munich, các nước vùng Baltic cũng không tin rằng Anh và Pháp có thể thực hiện nghĩa vụ của mình một cách hiệu lực thực sự để bảo vệ họ trong trường hợp họ bị người Đức xâm lược..

Kết quả là ngày 7 tháng 6, các chính phủ của Estonia, Latvia và Phần Lan nói rằng họ bảo đảm không có bất kỳ một yêu sách nào sẽ được xem như là một hành động gây hấn. Và sau đó, họ vội vàng ký kết một hiệp ước không xâm lược với Đức. Cùng lúc đó, Đức đã không chỉ hứa sẽ không tấn công các nước vùng Baltic, mà còn đảm bảo sự hỗ trợ trong trường hợp sự xâm lược của Liên Xô. Điều này đã tạo cho các chính phủ Baltic một cảm giác an toàn. Các quan chức cao cấp quân đội của Đức (Franz Halder và Wilhelm Franz Canaris) đã có cuộc viếng thăm các nước vùng Baltic và có cuộc đàm phán về hợp tác quân sự. Theo Đại sứ Đức tại Tallinn, người đứng đầu quân đội Estonia, tướng Rak nói với ông ta rằng Đức và Estonia có thể giúp kiểm soát biển Baltic, bao gồm cả khai thác mỏ ở vịnh Phần Lan và chống lại tàu chiến của Liên Xô.

Phía Liên Xô cũng đòi Đức công nhận các cảng nhỏ Libau và Windau ở Latvia nằm trong khu vực ảnh hưởng của Liên Xô. Vì lẽ cả Latvia nằm bên phía Liên Xô của đường phân chia ranh giới quyền lợi Liên Xô – Đức, Hitler nhanh chóng chấp nhận. Sau này, khi nhớ lại sự kiện trên tại Tòa án Nürnberg năm 1946, Ribbentrop nói: "Khi tôi đến Moskva năm 1939 để gặp Nguyên soái Stalin, ông đã thảo luận với tôi về khả năng giải quyết hòa bình cuộc xung đột của Đức và Ba Lan theo hiệp ước Kellogg – Briand, đồng thời ám chỉ rằng nếu ông không nhận được một nửa của Ba Lan và các nước vùng Baltic cùng với Litva chứ không không phải chỉ là một cảng Libau thì tôi có thể bay trở lại ngay lập tức."

Hai văn bản quan trọng nhất là Hiệp ước không xâm lược và Nghị định thư bí mật được ký kết trong phiên họp thứ hai tại điện Kremlin vào buổi tối. Hai bên đạt thỏa thuận một cách dễ dàng đến nỗi buổi họp kéo dài quá nửa đêm không phải để thương lượng căng thẳng, mà để thảo luận một cách thân mật tình hình thế giới, tình hình từng quốc gia, và với những lần nâng cốc theo thông lệ. Hội nghị đã lên đến đỉnh điểm trong một bữa tiệc, Stalin nâng cốc chúc mừng: "Tôi biết là dân tộc Đức yêu mến vị Quốc trưởng của mình như thế nào; và tôi muốn được nâng cốc chúc mừng sức khỏe của ông ta".

Đáp lại câu hỏi của Stalin về tham vọng của bạn bè của Đức – Ý và Nhật – Ribbentrop trả lời một cách thông suốt và tạo sự an tâm. Đối với nước Anh, hai bên có những nhận định giống nhau. Stalin thổ lộ với đoàn khách rằng phái bộ quân sự Anh "chưa bao giờ nói cho chính phủ Liên Xô biết họ muốn gì." Ribbentrop đáp lại bằng cách nhấn mạnh rằng nước Anh luôn nỗ lực gây rối cho mối quan hệ Liên Xô – Đức. Ông khoác lác rằng "Anh là nước yếu đuối, và muốn để mặc cho các nước khác đánh nhau để họ thống trị thế giới." Bản ghi nhớ của Đức ghi "Stalin đồng ý một cách hăm hở," và ông nhận xét: "Nếu Anh thống trị thế giới, thì đấy là do những nước khác đã ngu xuẩn để cho bị lừa bịp."

Sau những lần chạm cốc và chúc tụng lẫn nhau giữa hai bên cho đến gần đây còn là hai kẻ thù không đội trời chung, dường như Stalin có vài lo nghĩ về việc liệu Đức Quốc xã có tôn trọng hiệp ước hay không. Khi Ribbentrop chuẩn bị ra về, Stalin nói riêng với ông ta:

:Chính phủ Liên Xô có ý định rất nghiêm túc đối với hiệp ước mới. Ông có thể đảm bảo bằng lời nói danh dự của mình rằng Liên Xô sẽ không phản bội bên liên minh với mình.

Nội dung Hiệp ước

Bộ trưởng Ngoại giao Đức Quốc xã Ribbentrop ký hiệp ước

Hiệp ước như được phổ biến quy định rằng bên này sẽ không tấn công bên kia. Nếu một bên trở thành "đối tượng của hành động thù địch" do bên thứ ba gây ra, bên kia sẽ "không hỗ trợ cho bên thứ ba bằng bất cứ cách nào." Cả Đức và Liên Xô sẽ không "gia nhập bất kỳ phe nhóm nào trực tiếp hoặc gián tiếp nhắm đến bên kia".

Ngôn từ của những điều khoản chủ chốt hầu như giống y bản thảo của Liên Xô mà Molotov đã trao cho Schulenburg ngày 19 tháng 8 và Hitler điện cho Stalin biết phía Đức chấp thuận. Bản thảo của Liên Xô quy định rằng hiệp ước không xâm lược chỉ có hiệu lực nếu một "nghị định thư đặc biệt" được ký kết cùng lúc và là một phần không thể thiếu của hiệp ước.

Ribbentrop muốn đưa vào phần mở đầu nhấn mạnh sự thành lập quan hệ hữu nghị Liên Xô – Đức, nhưng Stalin nhất quyết loại bỏ. Nhà độc tài Liên Xô phàn nàn rằng: "Chính phủ Xô viết không thể bất thình lình đưa ra cho công chúng sự cam kết về tình hữu nghị sau khi đã bị Quốc xã bôi tro giát trấu trong sáu năm."

Thế là, cuối cùng Hitler đã đạt đến điều ông mong muốn: Liên Xô đồng ý không tham gia với Anh và Pháp nếu hai nước này hỗ trợ Ba Lan.

Nghị định thư Phụ lục Bí mật

"Nghị định thư Phụ lục Bí mật" cho hiệp ước, mà chỉ được biết đến sau khi Đệ nhị thế chiến kết thúc vào lúc các tài liệu mật của Đức bị tịch thu. Trong Phụ lục bí mật này 2 nước đồng ý chia Ba Lan, các nước Baltic và Bessarabia, gồm có 4 điểm sau:

:1. Trong trường hợp có sự chuyển biến về lãnh thổ và chính trị ở những quốc gia vùng Baltic (Phần Lan (trước đó cũng được xem là thuộc những nước này ), Estonia, Latvia, Litva), biên giới phía Bắc của Litva sẽ thể hiện biên giới giữa các vùng ảnh hưởng của Đức (Litva) và Liên bang Xô viết (Estonia, Latvia, Phần Lan).

:2. Trong trường hợp có sự chuyển biến về lãnh thổ và chính trị ở những lãnh thổ thuộc Ba Lan, các vùng ảnh hưởng của Đức và Liên bang Xô viết sẽ được phân định ranh giới phỏng chừng bằng các con sông Narew, Wisla và San.

:3. Ở đông – nam châu Âu, Bessarabia sẽ thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô.

:4. "Nghị định thư này sẽ được hai bên xem là tối mật."

Đức và Liên Xô đã đồng ý phân chia ranh giới tại Ba Lan, theo đó vùng phía Tây là toàn quyền của Đức, còn vùng phía Đông (những lãnh thổ mà Ba Lan đã chiếm của Nga Xô viết năm 1921) sẽ được hoàn trả cho Liên Xô. Và Hitler đã cho Liên Xô được toàn quyền hành động ở vùng Đông Baltic.

Cuối cùng, ở đông – nam châu Âu, phía Liên Xô nhấn mạnh họ quan tâm đến Bessarabia, lãnh thổ mà Liên Xô mất về tay Rumani năm 1919, và Đức tuyên bố họ không quan tâm đến lãnh thổ này. Đây là nhượng bộ mà sau này Đức sẽ lấy làm hối tiếc: họ mất nguồn dầu hỏa quan trọng.

Đánh giá tính pháp lý của hiệp ước

Sự phân chia ảnh hưởng của Đức và Liên Xô theo Nghị định thư bí mật (trái) và trên thực tế (phải)

Có nhiều ý kiến trái ngược trong việc đánh giá các khía cạnh pháp lý của hiệp ước. Theo một số ý kiến, bản thân Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau (không kèm theo Nghị định thư) không hàm chứa bất cứ điều gì không bình thường và hoàn toàn giống như bất kỳ một hiệp ước không xâm lược khác đã được ký kết trong lịch sử châu Âu đương đại (ý nói đến một hiệp ước tương tự giữa Đức và Ba Lan)..

A. A. Pronin có một ý kiến khác. Ông đã chỉ ra rằng Hiệp ước đã không có một điều khoản quan trọng được ghi nhận, đó là sự huỷ bỏ hiệu lực của nó nếu một bên ký kết nhưng không giữ cam kết mà lại tiến hành chiến tranh xâm lược bên kia. Đây là một nhược điểm lớn của phía Liên Xô khi soạn thảo Hiệp ước. Trong bản dự thảo hiệp ước của Liên Xô thì tính trung lập là một điều kiện tiên quyết cho việc tuân thủ một tình huống mà trong đó một trong hai bên "phải chịu một hành động bạo lực hay một cuộc tấn công bởi một thế lực thứ ba". Nhưng những từ ngữ cuối cùng của Điều II của Hiệp ước lại giả định rằng "sự trung lập sẽ được thực hiện trong trường hợp một trong hai bên không có đối tượng tấn công hay đối tượng của hành động quân sự của một thế lực thứ ba". Phát biểu như vậy là điển hình của nền ngoại giao Đế chế thứ ba. Ví dụ như Hiệp ước không xâm lược giữa Đức và Latvia và Hiệp ước không xâm lược giữa Đức và Estonia cũng tuyên bố trung lập "trong mọi hoàn cảnh". Nhưng Liên Xô vẫn không tu sửa các cụm từ này. Và kết quả là "hiệp ước này đã mở rộng cửa cho bất kỳ cuộc tấn công nào của Đức, khi một trong hai bên cáo buộc các hành động khiêu khích hoặc bạo lực của một thế lực thứ ba"..

A.A. Pronin cũng chỉ ra rằng hiệp ước có liên quan chặt chẽ với ngh

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
thumb|Hiệp ước trung lập Nhật-Xô,13 tháng 4 năm 1941.|213x213px **Hiệp ước Xô-Nhật** còn được gọi là hay là bản hiệp ước giữa Liên Xô và Đế quốc Nhật Bản được ký kết vào ngày 13
**Hiệp ước Ranh giới và Bạn bè Đức-Xô** là hiệp ước bù vào thứ hai của Hiệp ước Xô-Đức. Nó là một mệnh đề bí mật được sửa đổi vào ngày 28 tháng 9 năm
thumb|Đại sứ Đức, Hans-Adolf von Moltke, lãnh đạo Ba Lan Józef Piłsudski, Bộ trưởng Truyền thông Đức [[Joseph Goebbels và Józef Beck, Bộ trưởng Ngoại giao Ba Lan tại Warsaw vào ngày 15 tháng 6
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Hiệp ước Hai Cộng Bốn** (tên chính thức là "**Hiệp ước về giải pháp cuối cùng liên quan tới Đức**") là một hiệp ước giữa các quốc gia Tây Đức, Đông Đức cũng như Pháp,
**Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, ngoài vũ trụ và dưới nước**, đã cấm tất cả vật nổ vũ khí hạt nhân ngoại trừ những thứ được tiến hành ngầm.
**Hiệp ước Hải quân Washington**, còn được gọi là **Hiệp ước Năm cường quốc** là một hiệp ước được ký kết vào năm 1922 trong số các quốc gia lớn đã thắng Thế chiến thứ
**Hiệp ước München**, hoặc **Hiệp ước Munich** là một thỏa thuận được ký kết tại Munich vào ngày 30 tháng 9 năm 1938, giữa Đức Quốc xã, Anh quốc, Cộng hòa Pháp và Phát xít
**Hiệp ước về việc thành lập Liên Xô** chính thức tạo ra **Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết** (thường được gọi là Liên Xô). Nó _de jure_ hợp pháp hóa một
**Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản** (; ; , _Bōkyō kyōtei(Phòng Cộng Hiệp Định)_), chính thức là **Hiệp ước chống lại Quốc tế Cộng sản** (tiếng Đức: _Abkommen gegen die Kransistische Internationale_), là một
**Hiệp ước Tân Sửu** (辛丑條約) hay **Nghị định thư Bắc Kinh** (北京議定書), **Boxer Protocol** là Hiệp ước được kí kết giữa đại diện nhà Thanh Trung Quốc với đại diện của 11 quốc gia sau
nhỏ|Vụ thử bom nguyên tử 14 kiloton tại [[Nevada, Hoa Kỳ.]] **Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân** là một hiệp ước quốc tế nhằm mục đích hạn chế việc sở hữu các
thumb|Bản đồ 1920 trước hòa ước Riga **Hòa ước Riga 1920** là một thỏa hiệp giữa nước Cộng hòa Latvia và Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nga để chính thức kết thúc
nhỏ|phải|Châu Nam cực nhìn từ [[vệ tinh.]] **Hiệp ước Nam Cực** (tiếng Anh, **Antarctic Treaty**) và các hiệp định liên quan được gọi chung là **Hệ thống Hiệp ước Nam Cực** (gọi tắt là **ATS**),
**Tổ chức Hiệp ước Trung tâm** (**CENTO**), ban đầu được gọi là **Hiệp ước Baghdad** hoặc **Tổ chức Hiệp ước Trung Đông** (**METO**), là một liên minh quân sự trong thời kỳ chiến tranh Lạnh.
thumb|Quan chức lãnh đạo của một số quốc gia thành viên SEATO trước thềm Tòa nhà Quốc hội tại Manila, hội nghị do Tổng thống Philippines [[Ferdinand Marcos chủ trì vào ngày 24 tháng 10
**Hiệp ước Kellogg-Briand** (hay **Hiệp ước Paris**, chính thức là **Hiệp ước chung về từ bỏ chiến tranh với tư cách là một công cụ của chính sách quốc gia** ) là một thỏa thuận
thumb|Máy bay giám sát [[Antonov An-30]] **Hiệp ước Bầu trời Mở** (tiếng Anh: **Treaty on Open Skies**) là hiệp ước thiết lập chương trình thực hiện các chuyến bay giám sát trên không phi vũ
thumb|Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) [[Helmut Schmidt, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) Erich Honecker, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford và Thủ tướng
**Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương**, ký kết tại Washington, D.C. ngày 4 tháng 4 năm 1949, là hiệp ước thành lập ra tổ chức Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO). ## Bối
**Mặt trận Phần Lan** thuộc chiến tranh Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra từ 25 tháng 6 năm 1941 đến 19 tháng 9 năm 1944 là cuộc chiến tranh thứ hai
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Sự giải thể của Liên bang Xô viết** hay **Liên Xô tan rã** ( hoặc распад Советского Союза) là quá trình tan rã nội bộ của Liên bang Xô viết bắt đầu trong những năm
**Chiếm đóng quân sự bởi Liên Xô** viết về các vụ chiếm đóng bằng vũ lực của Liên Xô từ lúc mở màn cho tới sau thế chiến thứ hai và sau đó trong thời
**Lịch sử Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết** phản ánh một giai đoạn thay đổi cho cả Nga và thế giới. Mặc dù các thuật ngữ "Nước Nga Xô viết" và
**Chiến tranh Mùa đông** (, , ) hay **Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940** là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ tại vùng Karelia. Nó diễn ra vào
**Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Byelorussia** (phiên âm tiếng Việt: "Bê-lô-rút-xi-a", , , viết tắt _БССР_, _Bielorusskaja Sovietskaja Socialistitchieskaja Riespublika_, BSSR hoặc đôi khi Byelorussia còn gọi là **Belorussia**) là một trong
**Công ước về Báo hiệu và Tín hiệu Đường bộ**, thường được gọi là **Công ước Viên về Báo hiệu và Tín hiệu Giao thông Đường bộ**, là một hiệp ước đa phương được thiết
Sau khi Cuộc tấn công Ba Lan được phát động bởi cả Liên Xô và Đức Quốc Xã, các chiến dịch khủng bố và đàn áp người Ba Lan của Liên Xô đã bắt đầu
**Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển** (tiếng Anh: _United Nations Convention on Law of the Sea_ - UNCLOS), cũng gọi là **Công ước Luật biển** hay cũng được những người chống đối nó
**Liên Xô chiếm đóng Bessarabia và Bắc Bukovina** là việc tiến chiếm vùng Bessarabia, Bắc Bukovina, và vùng Hertza (các vùng này từng thuộc Đế chế Nga, sau đó Vương quốc Romania chiếm giữ từ
**Thành phố Anh hùng** (tiếng Nga: город-герой, _gorod-geroy_) là một danh hiệu vinh dự được Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho 12 thành phố đã có những
**Liên Xô sáp nhập Tây Ukraina**, là việc nước này thỏa thuận với Đức Quốc xã trên cơ sở của một điều khoản bí mật của Hiệp ước Xô-Đức, để xâm lược Ba Lan vào
**Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự
Trang đầu của Hòa ước Versailles, bản [[tiếng Anh]] thumb|thumbtime=5|_The Signing of the Peace Treaty of Versailles_ **Hòa ước Versailles** năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới thứ
**Hiệp định Genève 1954** (tiếng Việt: **Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954**) là hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố Genève, Thụy Sĩ nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định
**Hiệp định Paris về Việt Nam** (hay **hiệp định Paris 1973**, **Hiệp định Ba Lê**) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa
**Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc,** tên đầy đủ là Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ
**Công ước Viên về quan hệ ngoại giao** năm 1961 là một hiệp ước quốc tế xác định khuôn khổ cho quan hệ ngoại giao giữa các nước độc lập. Nó chỉ định các đặc
2 trang đầu tiên của **hòa ước Brest-Litovsk** **Hòa ước Brest-Litovsk** (phiên âm tiếng Việt: **Hòa ước Brét-Litốp**) là một hiệp ước hòa bình được ký kết vào ngày 3 tháng 3 năm 1918 giữa
**Hòa ước Nhâm Tuất** là hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên giữa Đại Nam và Đế quốc Pháp, theo đó Nhà Nguyễn phải cắt nhượng lãnh thổ 3 tỉnh Nam Kỳ gồm Biên Hòa,
**Chiến tranh biên giới Xô – Nhật** hay còn gọi là **Chiến tranh Nga – Nhật lần 2** là hàng loạt các cuộc xung đột biên giới giữa Liên Xô và Nhật Bản từ năm
**Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng** hay **Công ước về tội diệt chủng** là một điều ước quốc tế quy định diệt chủng là một tội phạm và ràng buộc
**Hiệp định sơ bộ Pháp – Việt** là một hiệp định được ký ngày 6 tháng 3 năm 1946 giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiệp định này được xem là một
**Hiệp định Phòng thủ chung Nhật-Trung** là một loạt các hiệp ước quân sự bí mật giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản, được ký kết vào tháng 5 năm 1918. Hiệp
nhỏ|400x400px|Các bên ký kết Công ước London **Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển do hoạt động đổ chất thải và các vật chất khác** năm 1972, thường được gọi là " **Công ước
thumb|Lãnh tụ Xô Viết [[Joseph Stalin và ngoại trưởng Đức Joachim von Ribbentrop tại điện Kremli vào tháng 8 năm 1939, dịp ký kết hiệp ước Xô-Đức]] Một số các tác giả đã so sánh
**Tập đoàn quân 4** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai tại Mặt trận
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch