✨Hòa ước Versailles

Hòa ước Versailles

Trang đầu của Hòa ước Versailles, bản [[tiếng Anh]] thumb|thumbtime=5|The Signing of the Peace Treaty of Versailles Hòa ước Versailles năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914–1918) được ký giữa nền Cộng hòa Weimar của Đức và các quốc gia thuộc phe Hiệp ước. Nội dung Hòa ước được soạn thảo bởi Georges Clemenceau, Thủ tướng Pháp, cùng với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh – ba nước thắng trận.

Sau nhiều trận đánh đẫm máu từ năm 1914 cho đến giữa năm 1918, quân đội Pháp đã khánh kiệt. Tuy nhiên, nhờ có sự hỗ trợ của quân đội Anh và Hoa Kỳ, Pháp đã tiếp tục nỗ lực chiến tranh của mình. Cuối cùng, khi tình hình nước Đức trở nên rối loạn, nước Pháp ăn mừng chiến thắng và mong ước có một hội nghị hòa bình nhằm xóa bỏ hoàn toàn mối đe dọa từ phía nước này đồng thời có được khoản bồi thường chiến phí.

Hoà ước này đặt ra những điều khoản khắt khe lên nước Đức bại trận. Nó có thể được so sánh với Hòa ước Tilsit mà Napoléon Bonaparte áp đặt lên Vương quốc Phổ vào năm 1807, hoặc là Hòa ước Brest-Litovsk do Đế quốc Đức áp đặt lên nước Nga Xô Viết vào đầu năm 1918. Sau khi Nhà nước Đức Quốc xã được thành lập với sự lãnh đạo của Adolf Hitler, hoà ước đã bị Hitler lách luật ở 1 số điều khoản của hoà ước rồi cuối cùng Hitler đã xoá bỏ vào thập niên 1930.

Nội dung

Hòa ước quy định Đức phải trả lại cho Pháp miền Alsace-Lorraine, một mảnh đất cho Bỉ, một mảnh tương tự ở Schleswig cho Đan Mạch – tùy kết quả một cuộc trưng cầu ý dân – mà Thủ tướng Otto von Bismarck đã chiếm trong thế kỷ trước sau khi đánh bại Đan Mạch trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai. Hòa ước trả lại một số mảnh đất cho Ba Lan, vài nơi tùy kết quả cuộc trưng cầu ý dân, mà Đức đã chiếm trong sự xâm lược Ba Lan. Đây là một trong những điều khoản khiến dân Đức tức giận nhất. Họ bất mãn thấy việc miền Đông Phổ bị chia cắt khỏi nước Đức, nhường chỗ cho một hành lang thông ra biển của Ba Lan (người Đức vốn rất khinh thường người Ba Lan). Người Đức cũng giận dữ không kém khi thấy hòa ước đòi hỏi họ phải chấp nhận trách nhiệm đã khởi động cuộc chiến và đòi giao cựu Hoàng đế Wilhelm II – người bị kết án đã khởi động chiến tranh và khoảng 800 tội phạm chiến tranh cho phe Hiệp ước.

Số tiền bồi thường chiến tranh sẽ được định sau, nhưng khoản đầu gồm 5 tỉ đô-la phải được trả trong thời gian 1919–1921. (Có thể giao vài loại hiện vật – than, tàu, gỗ, bò... thay cho tiền bồi thường.)

Điều khoản nặng nhất là Hòa ước Versailles vô hình chung giải giới nước Đức với mục đích, ít nhất trong một thời gian, ngăn chặn bước đường bá quyền của Đức ở châu Âu. Hòa ước giới hạn Đức có tối đa quân số 1.000.000 người tình nguyện tức không được bắt thi hành nghĩa vụ quân sự, cấm sở hữu máy bay và xe tăng. Bộ Tổng Tham mưu phải bị dẹp bỏ. Hải quân bị giảm thành lực lượng tượng trưng, bị cấm chế tạo tàu ngầm hoặc tàu trọng tải trên 100 tấn.

Phản ứng

Nội dung của Hòa ước được công bố ở thủ đô Berlin ngày 7 tháng 5 năm 1919. Chính phủ lâm thời chống đối mạnh mẽ việc chấp nhận bản Hòa ước Versailles "Vô lý", theo tên gọi chế giễu bây giờ. Đại đa số nhân dân Đức, dù cho thiên về cánh Hữu hoặc cánh Tả, đều hậu thuẫn chính phủ. Ngày 9 tháng 5, đại biểu Đức tại Versailles viết thư cho Georges Clemenceau rằng một hòa ước như thế là "không thể chấp nhận được đối với bất cứ quốc gia nào."

Chính phủ lâm thời hỏi ý kiến của quân đội: Nếu từ chối ký vào hòa ước, liệu quân đội có thể chống cự cuộc tấn công của Đồng minh hay không? Tổng thống lâm thời Friedrich Ebert đặt câu hỏi này cho Bộ Tư lệnh Tối cao. Ngày 17 tháng 6, Thống chế Paul von Hindenburg cho ý kiến:

Lời kết luận của một vị Tổng Tham mưu trưởng được sùng kính là đúng theo truyền thống của quân đội Đức, nhưng có vẻ không được trung thực. Nhân dân Đức không biết Hindenburg đã nghĩ rằng nếu cố chống cự phe Hiệp Ước thì không những vô vọng, mà còn có thể khiến cho cấp chỉ huy quân đội quý giá bị tiêu diệt và từ đó nước Đức cũng bị hủy diệt theo.

Thủ tướng [[David Lloyd George của Vương quốc Anh, Vittorio Orlando của Ý, Thủ tướng Georges Clemenceau của Pháp, và Tổng thống Woodrow Wilson của Hoa Kỳ.]]

Qua việc này, Quân đội Đức bị chê trách là đã quá khôn lanh và hèn nhát đã thúc đẩy chính phủ lâm thời ký hiệp ước đình chiến, và sau đó kết án chính phủ là quá yếu đuối, làm tổn hại đến quyền lợi của Đức.

Bây giờ, Đồng minh đang đòi hỏi Đức trả lời dứt khoát. Ngày 16 tháng 6, một ngày trước khi Hindenburg gửi văn bản trả lời cho Ebert, Đồng minh ra tối hậu thư: phải chấp nhận hòa ước chậm nhất là ngày 24 tháng 6, nếu không thỏa ước đình chiến sẽ bị chấm dứt và lực lượng Đồng minh sẽ "có biện pháp cần thiết để áp chế các điều khoản".

Một lần nữa, Ebert kêu gọi đến Quân đội: Nếu Bộ Tư lệnh Tối cao nghĩ có cơ may nhỏ nhoi nào đó để chống cự được Đồng minh, Ebert hứa đảm bảo Quốc hội sẽ bác bỏ hòa ước. Nhưng ông phải có ngay câu trả lời. Thời hạn chót của tối hậu thư, 24 tháng 6, đã đến. Nội các họp vào lúc 16:30 giờ để lấy quyết định cuối cùng.

Hindenburg và Tướng Wilhelm Groener, nhân vật số 2 trong Quân đội, hội ý với nhau. Vị Thống chế già nua, mệt mỏi nói: "Ông cũng như tôi biết rõ rằng không thể kháng cự bằng quân sự." Nhưng một lần nữa, ông không có can đảm nói sự thật với Tổng thống Lâm thời của nền Cộng hòa. Ông bảo Groener: "Ông có thể trả lời cho Tổng thống cũng tốt như tôi thôi."

Và một lần nữa, vị tướng can đảm Groener nhận trách nhiệm cuối cùng đáng lẽ phải thuộc về vị Thống chế, dù ông biết rằng ông bị đưa ra làm vật tế thần cho quân đội. Ông gọi cho Tổng thống nói rõ về quan điểm của Bộ Tư lệnh Tối cao.

Phê chuẩn và ký kết

Cảm thấy nhẹ nhõm vì các cấp chỉ huy Quân đội đã nhận trách nhiệm – sự kiện mà nhiều người chẳng bao lâu quên bẵng – Quốc hội với đa số lớn chấp nhận việc ký kết hòa ước. Quyết định được thông báo cho Clemenceau chỉ mười chín phút sau thời hạn chót của tối hậu thư. Bốn ngày sau, 28 tháng 6 năm 1919, hội nghị hòa bình được ký kết trong Lâu đài Versailles ở Paris. Đây chính là nơi Đế quốc Đức được tuyên bố thiết lập vào ngày 28 tháng 1 năm 1871, trong giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870 – 1871) – cuộc chiến đã chấm dứt vào tháng 5 năm 1871 với sự thất bại của Pháp. Điều này thể hiện tinh thần báo thù của người Pháp đối với Đức kể từ sau thất bại trong Chiến tranh Pháp-Phổ.

Hòa ước Versailles được phê chuẩn bởi Hội Quốc liên (tiếng Pháp: Société des Nations) ngày 10 tháng 1 năm 1920. Riêng Hoa Kỳ không phê chuẩn Hòa ước Versailles, mà chủ trương đàm phán riêng lẻ với Đức.

Hậu quả

Thống chế Pháp là Ferdinand Foch phản đối Clemenceau và không bằng lòng với những điều khoản của hòa ước Versailles đối với nước Đức. Ông suýt nữa thì không cam chịu hội nghị hòa bình này. Foch cho rằng hội nghị quá mềm dẻo, không bắt thiết lập đầu cầu ở sông Rhine. Đồng thời, ông ta cũng nhận thấy những điềm báo về sự thất bại của hội nghị. Vào ngày 21 tháng 6, Foch cho rằng người Đức vẫn tiếp tục "xảo trá" khi ông chứng kiến cảnh họ tự hủy hoại hạm đội của mình không rơi vào tay Pháp. Chưa kể, Foch còn trở nên nổi cáu khi quần chúng nhân dân Đức đốt cháy mọi lá cờ Pháp mà quân đội Phổ giành lấy được trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, nhằm ngăn cản việc trao trả những lá cờ này cho Pháp. Ông ta gửi thư cho vợ mình: "Bọn họ nhạo báng chúng ta. Toàn thể châu Âu là một đám nhốn nháo. Ấy là công trình của Clemenceau".

Bất chấp những nỗ lực lớn nhất của Clemenceau, Hòa ước này đã thất bại trong việc thay đổi sự bất cân bằng chiến lược giữa nước Đức và Pháp: Đức vẫn còn đông dân hơn nhiều và có nền công nghiệp phát triển vượt trội Pháp. Quân đội Pháp thì quá yếu để có thể hủy diệt sức mạnh quân sự của Đức, và nhìn chung là Pháp không thể gây ảnh hưởng lớn trong khối Hiệp Ước để thuyết phục đồng minh của mình phân chia nước Đức. Tổng quan, không những thắng lợi của Pháp năm 1918 hoàn toàn là một chiến thắng kiểu Pyrros, mà Pháp đã thất bại trong việc thiết lập một nền hòa bình lâu dài.

Quá trình hủy hoại Hòa ước Versailles của Đức

Hậu quả của Hòa ước Versailles trong nhất thời là gây bất mãn và làm phẫn nộ cho toàn thể nước Đức. Nó cũng cho thấy sự thiếu hiểu biết về tâm lý và ngoại giao của phe Đồng minh để thuyết phục hoặc chuẩn bị tinh thần cho người Đức chấp nhận là họ phải gánh trách nhiệm đã gây ra chiến tranh và tự nguyện bồi thường thiệt hại. Thay vào đó, người Đức nghĩ rằng họ đã bị chèn ép một cách tủi nhục. Ngay trong ngày ký kết Hòa ước, tờ báo Deutsche Zeitung đã ghi nhận:

Vào năm 1919, Tướng Hans von Seeckt chỉ huy Quân đội Liên bang Đức (Reichswehr) thời Cộng hòa Weimar trở nên đánh phá mạnh mẽ vào Hòa ước Versailles. Theo Điều khoản 160 thì Bộ Tổng Tham mưu Đức bị cấm chỉ, nhưng ông tái hiện Bộ Tham mưu Đức thông qua việc thành lập Bộ chỉ huy Quân đội Đức (Truppenamt). Dù các Điều khoản 176 và 177 cấm đoán các Hàn lâm viện Chiến tranh và Học viện đào luyện Sĩ quan, nhưng ông gầy dựng lại những tổ chức này. Vào năm 1922, nước Đức ký kết Hiệp định Rapallo với Liên bang Xô Viết. Dưới danh nghĩa là tái lập quan hệ ngoại giao, thỏa thuận thương mại và xóa bỏ đòi hỏi chiến phí của hai bên, Hiệp định Rapallo cho phép sĩ quan Quân đội Liên bang Đức đến huấn luyện cho chiến sĩ Hồng quân Liên Xô, là một sự phá vỡ hạn chế của Hòa ước Versailles về sự mở mang khả năng quân sự của Đức. Hiệp định này đã phá tan hy vọng về một liên minh Pháp - Xô, đồng thời Đức được công nhận ngầm là một cường quốc.

Chính phủ Đức cũng dùng những biện pháp kinh tế để tránh né Hòa ước Versailles, thí dụ như chủ ý gây lạm phát tiền tệ đất nước. Cụ thể hơn, họ chủ trương không nộp khoản chiến phí mà Hòa ước này yêu cầu. Đồng thời, Hoa Kỳ khẩn cấp yêu cầu Pháp trả nợ cho mình. Điều này đã dẫn tới khủng hoảng vào năm 1923: trong tháng 1 năm ấy, liên quân Pháp - Bỉ xâm lược thung lũng Ruhr giàu sắt và than đá và chiếm đóng trong suốt 2 năm rưỡi. Cuối cùng, một giải pháp chính thức được đề xuất để chấm dứt cuộc khủng hoảng: đó là kế hoạch Dawes, quân xâm lăng rút khỏi Ruhr. Nhưng cuộc khủng hoảng còn có ý nghĩa to lớn hơn, đó là cuộc kháng cự bất bạo động của những người thợ mỏ Đức chống quân xâm lược Pháp - Bỉ đã khiến cho nhân dân đồng loạt ủng hộ họ, trong khi đó, việc quân Pháp kêu gọi họ làm việc trở lại chỉ khiến cho toàn dân Đức càng thêm căm ghét kẻ thù xâm lăng. Sau khi khủng hoảng kết thúc, khoảng chiến phí mà Đồng Minh áp đặt cho nước Đức trong Hòa ước Versailles bị giảm đi rất nhiều, và quan hệ Anh - Pháp càng thêm suy sụp do nước Anh có thiện cảm với cuộc kháng cự bất bạo động vì chính nghĩa của những người thợ mỏ Đức.

Quan hệ quốc tế từ năm 1933 cho đến năm 1939 có một điểm bật là Hòa ước Versailles bị Lãnh tụ Đức Quốc xã là Adolf Hitler nghiền nát thành hàng trăm mảnh. Vốn trước thời Hitler, nhân dân Đức đã căm ghét Hòa ước đó, các nhà chính trị của Cộng hòa Weimar đã chú trọng việc phá vỡ Hòa ước này, và khi Hitler lên nắm quyền thì nó đã suy sụp. Anh Quốc và Pháp đã rút quân khỏi miền Rheinland, và các khoản bồi thường chiến phí đã bị xóa sổ. Nước Mỹ càng trở nên cô lập, trong khi Đế quốc Nhật Bản trỗi dậy mạnh mẽ ở vùng Viễn Đông làm cho Anh Quốc lo sợ.

Bấy giờ Hội Quốc Liên suy yếu trong khi nước Ý liên minh với Đức. Trong một cuộc bỏ phiếu toàn dân, nước Đức lấy lại được vùng Saarland, và nhận thấy các quốc gia châu Âu khác rối loạn Hitler cho quân tiến vào vùng phi quân sự hóa Rheinland vào tháng 3 năm 1936. Đây là một hành động liều lĩnh, táo bạo của ông, đã chọc thủng tàn dư của Hòa ước Versailles, là chiến thắng to lớn của Hitler, dời đi cái vùng đệm giữa nước Đức và Pháp. Với việc phòng thủ biên giới phía Tây Đức, Hòa ước Versailles thì đổ nát còn Pháp thì khó thể tiến quân vào nước Đức. Anh Quốc thì thờ ơ khi người Đức hành binh vào lãnh thổ của chính họ, còn Pháp thì bất lực, không thể làm gì được. Không những thế, Đức can thiệp mạnh mẽ vào cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, trong khi Anh Quốc và Pháp chẳng làm gì và điều này dẫn đến việc hình thành khối Trục Roma - Berlin vào tháng 11 năm 1936. Thất bại của Hòa ước Versailles tuy là nguyện vọng của Hitler nhưng đồng thời còn là mong ước của biết bao người dân Đức. Cho đến cuối năm 1937, dù chưa được chôn cất nhưng Hòa ước này đã bị tiêu diệt, và nước Đức với sức mạnh quân sự vô song trở thành một cường quốc trên thế giới, cùng với Ý và Nhật Bản đe dọa đến Pháp và Anh Quốc.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Trang đầu của Hòa ước Versailles, bản [[tiếng Anh]] thumb|thumbtime=5|_The Signing of the Peace Treaty of Versailles_ **Hòa ước Versailles** năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới thứ
**Hòa ước Saint-Germain-en-Laye** hay **Hiệp ước Saint-Germain-en-Laye** là hòa ước được ký vào ngày 10 tháng 9 năm 1919 tại Cung điện Saint-Germain gần Paris giữa nước bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ
Cung điện Trianon nơi diễn ra việc ký kết hoà ước **Hoà ước Trianon** là hoà ước được ký vào ngày 4 tháng 6 năm 1920 tại Cung điện Trianon ở Paris giữa nước bại
[[Bản đồ thể hiện những vùng lãnh thổ của Đế quốc Ottoman mất sau **hiệp ước Sevres** (những vùng bị gạch chéo là vùng ảnh hưởng)]] **Hòa ước Sèvres** là hòa ước được ký vào
thumb|Bản đồ 1920 trước hòa ước Riga **Hòa ước Riga 1920** là một thỏa hiệp giữa nước Cộng hòa Latvia và Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nga để chính thức kết thúc
2 trang đầu tiên của **hòa ước Brest-Litovsk** **Hòa ước Brest-Litovsk** (phiên âm tiếng Việt: **Hòa ước Brét-Litốp**) là một hiệp ước hòa bình được ký kết vào ngày 3 tháng 3 năm 1918 giữa
nhỏ|Chữ ký của Armand Marc, comte de Montmorin, Bộ trưởng bộ Ngoại giao và Hải quân Pháp, trong Hiệp ước Versailles 1787. Chữ ký còn lại _Evèque d'Avran_, hay [[Pigneau de Béhaine.]] **Hiệp ước Versailles
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADptin:Treaty_of_Versailles,_English_version.jpg|phải|nhỏ| [[Hòa ước Versailles, được ký kết khi Thế chiến I kết thúc]] **Hiệp ước hòa bình** hay **hòa ước** là một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên thù địch, thường là các quốc
Bản đồ Bulgaria sau Hòa ước Neuilly **Hòa ước Neuilly** là hoà ước được ký vào ngày 27 tháng 11 năm 1919 tại Neuilly-sur-Seine, ngoại ô Paris giữa nước bại trận trong Chiến tranh thế
thumb|Bản đồ thế giới các nước tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất. Khối Hiệp ước màu xanh, [[Liên minh Trung tâm màu cam, và các nước trung lập màu xám.]] **Hội nghị Hòa
**Cung điện Versailles** (tiếng Pháp: _Château de Versailles_) là nơi ở của các vua (và hoàng hậu) Pháp Louis XIV, Louis XV và Louis XVI. Nằm ở phía Tây của Paris tại thành phố Versailles,
**Đảng Dân chủ** (tiếng Anh: _Democratic Party_), cùng với Đảng Cộng hòa, là một trong hai chính đảng lớn nhất tại Hoa Kỳ. Đảng Dân chủ, truy nguyên nguồn gốc của mình đến thời Thomas
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Liên đoàn Phụ nữ Quốc tế vì Hòa bình và Tự do** (tiếng Anh: _Women's International League for Peace and Freedom_, viết tắt là WILPF) được thành lập năm 1915, là tổ chức hoà bình
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
**Hiệp ước Hải quân Washington**, còn được gọi là **Hiệp ước Năm cường quốc** là một hiệp ước được ký kết vào năm 1922 trong số các quốc gia lớn đã thắng Thế chiến thứ
**Cộng hòa Nhân dân Ukraina** là một nhà nước tồn tại ngắn ngủi tại Đông Âu. Hội đồng Trung ương Ukraina được bầu ra vào tháng 3 năm 1917 do kết quả từ Cách mạng
**Đông Phi thuộc Đức** (, viết tắt tiếng Đức là _GEA_) là thuộc địa của Đế quốc Đức ở Đông Phi. Lãnh thổ của nó thuộc về Rwanda, Burundi, Tanzania và bắc Mozambique ngày nay,
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
thumb|Đại sứ Đức, Hans-Adolf von Moltke, lãnh đạo Ba Lan Józef Piłsudski, Bộ trưởng Truyền thông Đức [[Joseph Goebbels và Józef Beck, Bộ trưởng Ngoại giao Ba Lan tại Warsaw vào ngày 15 tháng 6
**Cộng hòa Genova** (, tiếng Liguria: _Repúbrica de Zêna_) là một quốc gia độc lập từ năm 1005 đến năm 1797 ở Liguria trên bờ biển phía tây bắc Ý, đã sáp nhập Corsica từ
**Hiệp ước Tân Sửu** (辛丑條約) hay **Nghị định thư Bắc Kinh** (北京議定書), **Boxer Protocol** là Hiệp ước được kí kết giữa đại diện nhà Thanh Trung Quốc với đại diện của 11 quốc gia sau
**Cộng hòa Áo-Đức** ( hay ) là một quốc gia được thành lập sau Thế chiến I trên cơ sở các vùng nói tiếng Đức của Đế quốc Áo-Hung. Lãnh thổ Áo-Đức có diện tích
**Quan hệ Đức – Hoa Kỳ**, còn được gọi là **quan hệ Đức - Mỹ**, là quan hệ song phương giữa Đức và Hoa Kỳ. Quan hệ Đức-Hoa Kỳ là mối quan hệ lịch sử
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**Đệ Tam Cộng hòa Pháp** (tiếng Pháp: _la Troisième République_, đôi khi còn được viết là _la IIIe République_) là Chính thể cộng hòa của Pháp tồn tại từ cuối Đệ Nhị Đế
**Quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam** bắt đầu từ thế kỷ 19 dưới thời Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ bí mật
**Cộng hòa Corse** là một quốc gia có chủ quyền trên đảo Corse được Pasquale Paoli dựng nên vào tháng 11 năm 1755 sau khi giành độc lập khỏi Cộng hòa Genova. Ông đã tạo
**Hội Quốc Liên** là một tổ chức liên chính phủ được thành lập vào ngày 10 tháng 1 năm 1920 theo sau Hội nghị hòa bình Paris nhằm kết thúc Thế Chiến 1. Đây là
**Adolf Hitler** (20 tháng 4 năm 188930 tháng 4 năm 1945) là một chính khách người Đức, nhà độc tài của nước Đức từ năm 1933 cho đến khi tự sát vào năm 1945. Tiến
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
**Alsace–Lorraine** (tiếng Đức: _Elsaß-Lothringen_; tiếng Pháp: _Alsace-Lorraine_), nay được gọi là **Alsace–Moselle**, là một vùng lịch sử nằm ở nước Pháp ngày nay. Nó được thành lập vào năm 1871 bởi Đế quốc Đức sau
**Sơn Đông** () là một tỉnh ven biển phía đông Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Đông là tỉnh đông thứ hai về số dân, đứng thứ ba về kinh tế Trung Quốc với 100,4 triệu
**Chính phủ Bắc Kinh Trung Hoa Dân Quốc** là chỉ chính phủ trung ương đặt thủ đô tại Bắc Kinh trong thời kỳ đầu kiến quốc Trung Hoa Dân Quốc, do nhân sĩ Bắc Dương
**Florida** (phát âm tiếng Anh: ) là một tiểu bang ở đông nam bộ của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, giáp vịnh Mexico ở phía tây, giáp Alabama và Georgia ở phía bắc, giáp Đại
**Frank Billings Kellogg** (22.12.1856 – 21.12.1937) là một luật sư, chính trị gia và chính khách quốc gia người Mỹ, đã làm thượng nghị sĩ và Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ. Ông là đồng
Sau khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào năm 1914, Quân đội Đế quốc Đức đã mở ra **Mặt trận phía tây**, khi họ tràn qua Luxembourg và Bỉ, rồi giành
**Mao Trạch Đông** (phồn thể: 毛澤東; giản thể: 毛泽东; bính âm: _Máo Zédōng_; 26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), còn được người dân Trung Quốc gọi với tên tôn kính
**Lorraine** (tiếng Đức: **Lothringen**) từng là một vùng của nước Pháp, bao gồm bốn tỉnh: Meurthe-et-Moselle, Meuse, Moselle và Vosges (theo quan điểm lịch sử, tỉnh Haute-Marne cũng nằm trong vùng), bao gồm 2.337 xã.
**Strasbourg** (tiếng Đức: _Straßburg_) là thủ phủ của vùng Grand Est trong miền đông bắc của nước Pháp, tỉnh lỵ của tỉnh Bas-Rhin, đồng thời cũng là trụ sở quản lý hành chính của hai
**Hòa bình kiểu Carthage** là sự áp đặt một "hòa bình" rất tàn bạo nhằm mục đích làm tê liệt vĩnh viễn bên thua cuộc. Thuật ngữ này bắt nguồn từ các điều khoản hòa
thumb|Một biểu ngữ năm 2013 tại Trường Trung học Nam Hải Trùng Khánh thông báo đây là địa điểm tổ chức kỳ thi cho Kỳ thi Tuyển sinh Đại học Toàn Quốc năm 2013 thumb|right|Phụ
**_Kiến đảng vĩ nghiệp_** (; ) là một bộ phim điện ảnh tuyên truyền của Trung Quốc công chiếu năm 2011 nhân kỷ niệm 90 thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bộ phim do
nhỏ|phải|Một bữa tiệc đường phố ở Mỹ với các món [[hải sản]] nhỏ|phải|Một bữa tiệc đường phố ở quận [[Manhattan (Hoa Kỳ)]] **Bữa tiệc đường phố** (tiếng Anh: _block party_) hay **liên hoan đường phố**
Quảng cáo của triển lãm Werkbund năm 1914 tại Coln **Hiệp hội Công trình Đức** (_Deutscher Werkbund_) là một tổ chức của các kiến trúc sư, các chủ công nghiệp và các nhà thiết kế
**_Ten no hate made - Porando hishi_** (天の涯まで―ポーランド秘史?), tiếng Việt gọi là **_Tới cuối thiên đường - Lịch sử bí mật của Ba Lan_**, là một manga lịch sử của Ikeda Riyoko viết vào năm
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Đoàn Kỳ Thụy**
**段祺瑞**
x|}