✨Quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam

Quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam

Quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ 19 dưới thời Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ bí mật hỗ trợ Việt Minh chống lại Đế quốc Nhật Bản ở mặt trận Đông Dương, mặc dù một liên minh chính thức vẫn chưa được thành lập. Sau khi Liên bang Đông Dương tan rã, năm 1954, Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam Cộng hòa chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Năm 1973, Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam và sau đó là sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa vào năm 1975, Hoa Kỳ áp dụng nhiều lệnh cấm vận thương mại và cắt đứt mối quan hệ với Việt Nam, chủ yếu là do lo ngại liên quan đến thuyền nhân Việt Nam hay vấn đề tù binh, quân nhân mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Những nỗ lực tái thiết lập quan hệ giữa hai nước vẫn không được thực hiện trong nhiều thập kỷ. Năm 1994, Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam. Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính thức tuyên bố thiết lập mối quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ - Việt Nam vào ngày 11 tháng 7 năm 1995. Quan hệ giữa hai nước tiếp tục được cải thiện trong thế kỷ 21.

Việt Nam hiện được coi là một đồng minh tiềm năng của Hoa Kỳ, đặc biệt trong bối cảnh địa chính trị liên quan đến các tranh chấp ở biển Đông và ngăn chặn Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam là một trong những nước có dư luận ủng hộ Hoa Kỳ nhất và là nước duy nhất theo chủ nghĩa Marx-Lenin có quan điểm thuận lợi như vậy. Kể từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1995, các tổng thống Hoa Kỳ đều đến thăm Việt Nam ít nhất một lần, nhấn mạnh tầm quan trọng của Việt Nam trong chính sách xoay trục sang châu Á của Hoa Kỳ, những chuyến thăm này rất được người dân Việt Nam hoan nghênh bất chấp những khác biệt về chính trị. Hai nước thường xuyên mở rộng trao đổi chính trị, đối thoại về nhân quyền và an ninh khu vực. Tháng 7 năm 2000, hai nước ký kết Hiệp định Thương mại song phương và bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001. Đến tháng 12 năm 2006, Hoa Kỳ chấp thuận Quy chế Quan hệ Thương mại Bình thường Vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam.

Ngày 25 tháng 7 năm 2013, Việt Nam và Hoa Kỳ xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ. Ngày 10 tháng 9 năm 2023, trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Joe Biden theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai bên chính thức nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác Chiến lược Toàn diện, lần đầu tiên Việt Nam nâng cấp quan hệ đối tác với một quốc gia từ mức Đối tác Toàn diện lên thẳng mức cao nhất Đối tác Chiến lược Toàn diện, bỏ qua mức Đối tác Chiến lược.

Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam đặt tại thủ đô Hà Nội, cùng với tổng lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ hiện đặt tại thủ đô Washington, D.C. và tổng lãnh sự quán ở San Francisco.thumb|Tổng thống Hoa Kỳ [[Donald Trump và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội, ngày 27 tháng 2 năm 2019]]

Lịch sử

Trước thế kỷ 20

Tháng 7 năm 1787, đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp Thomas Jefferson chú ý đến các loại lúa gạo tốt có xuất xứ từ Cochin China (tên gọi tiếng Pháp của Việt Nam đương thời). Ông thậm chí còn tiếp cận hoàng tử Cảnh để thu thập các giống lúa đó và tìm cách gieo trồng chúng ở Paris.

Năm 1803, thuyền trưởng Jeremiah Briggs nhận nhiệm vụ đến Việt Nam trên con tàu Fame từ Salem, Massachusetts. Sau khi cập thuyền ở Turon Đà Nẵng, ông đi thuyền nhỏ ra Huế xin vua Gia Long cho thông thương. Gia Long cho phép thông thương nhưng tỏ thái độ tức tối vì cho rằng thuyền buôn Hoa Kỳ từ đầu muốn đến thông thương với Tây Sơn, bởi lẽ Gia Long mới lên ngôi có 6 tháng mà thuyền Hoa Kỳ thì đã khởi hành trước đó.''

Cuộc tiếp xúc chính thức giữa chính phủ hai nước thì mãi đến năm 1829, khi Tổng thống Andrew Jackson mới lên nhậm chức thì Bộ Ngoại giao Mỹ cử phái bộ do Edmund Roberts (sử sách Việt ghi là "Nghĩa-đức-môn La-bách") và Đại úy David Geisinger ("Đức-giai Tâm-gia") mang theo dự thảo hiệp định thương mại hầu tìm cách thông thương với nước Cochinchina (Việt Nam).

Tháng 1 năm 1833 chiến hạm Peacock chở phái bộ đến Vũng Lấm (nay thuộc Phú Yên). Sau nhiều ngày thảo luận với đại diện Việt Nam

Nhâm thìn, năm Minh Mệnh thứ 13, mùa đông, tháng 11 [tháng 1-1833]

Quốc trưởng nước Nhã Di Lý (nước này ở Tây dương, hoặc gọi Hoa Kỳ, hoặc gọi là Ma Ly Căn [America], hoặc gọi là Anh Cát Lợi Mới [New England] đều là biệt hiệu nước ấy) sai bọn bề tôi là Nghĩa Đức Môn La Bách Đại [Edmund Roberts], Uý Đức Giai Tâm Gia [David Geisinger] (tên hai người) đem quốc thư xin thông thương thuyền ở cửa Vụng Lấm [Vũng Lấm] thuộc Phú Yên. Vua sai viên Ngoại lang Nguyễn Tri Phương, Tư vụ Lý Văn Phức đi hội với quan tỉnh, lên trên thuyền thết tiệc và hỏi ý họ đến đây làm gì. Họ nói: "Chỉ đến vì muốn giao hiếu và thông thương" nói năng rất cung kính. Đến lúc dịch thư ra có nhiều chỗ không hợp thể thức.

Vua bảo không cần đệ trình thư ấy. Rồi cho quan quyền lĩnh chức Thương bạc làm tờ trả lời. Đại lược nói: "Nước ấy muốn xin thông thương, cố nhiên là ta không ngăn trở, nhưng phải tuân theo pháp luật đã định. Từ nay, nếu có đến buôn bán thì cho đỗ ở vụng Trà Sơn, tấn sở Đà Nẵng, không được lên bờ làm nhà, vượt quá kỷ luật, rồi giao thư cho họ mà bảo họ đi".

Năm 1836, phái đoàn của Edmund Roberts một lần nữa lại ghé Việt Nam qua ngã Đã Nẵng. Tuy nhiên, Đặc sứ Roberts lâm bệnh nặng nên không thể trao đổi với các quan chức Việt Nam. Edmund Roberts mất tại Ma Cao ngày 12 tháng 6 năm 1836.
Bính Dần, Minh Mệnh năm thứ 17 [1836], Binh thuyền Ma Li Căn [America] đậu ở vũng Trà Sơn thuộc Đà Nẵng, Quảng Nam, nói có quốc thư cầu thông đạt, xin vào chầu. Quan tỉnh đem việc tâu lên. Vua hỏi Thị lang bộ Hộ Đào Trí Phú rằng: "Xem tình ý lời lẽ của họ tỏ ra cung thuận, vậy có nên nhận hay không?" [Trí Phú] thưa: "Họ là người nước ngoài, tình ý giả dối cũng chưa biết chừng. Thần tưởng hãy cho họ vào Kinh, lưu ở công quán Thương bạc, phái người đến khoản đãi để thăm dò cái ý họ đến". Thị lang Nội các Hoàng Quýnh tâu nói: "Nước họ xảo quyệt muôn mặt, nên cự tuyệt đi. Một khi dung nạp sợ để lo cho đời sau. Người xưa đóng cửa ải Ngọc Quan, tạ tuyệt Tây Vực, thực là chước hay chống cự Nhung Địch". Vua nói: "Họ xa cách trùng dương trên 40000 dặm, nay ngưỡng mộ uy đức triều đình mà đến sao lại cự tuyệt, chẳng hoá tỏ cho người ta thấy mình không rộng rãi ư?". Liền sai Đào Trí Phú cùng với Thị lang bộ Lại Lê Bá Tú, làm thuộc viên Thương bạc, đến tận nơi uý lạo thăm hỏi. Khi đến nơi, viên thuyền trưởng nói là bị ốm, không tiếp kiến được. Ta sai thông ngôn đến thăm; họ cũng sai người đáp lễ, rồi ngay ngày ấy, giương buồm kéo đi. Bọn Trí Phú đem việc tâu lên và nói: "Chợt đến, chợt đi thực không có lễ nghĩa !" Vua phê bảo rằng: "Họ đến, ta không ngăn cản, họ đi, ta không đuổi theo. Lễ phép văn minh có trách gì man di cõi ngoài!"
Hơn 15 năm sau, trong chuyến hành trình đến vùng biển châu Á năm 1845, chiến thuyền Constitution (thường gọi là Old Ironsides) của Hoa Kỳ đã cập bến Đà Nẵng. Thuyền trưởng là John Percival liên lạc với các quan địa phương xin được tiếp xúc với triều Nguyễn để đặt mối giao hảo. Được tin, vua Thiệu Trị tại Huế cử viên ngoại lang Nguyễn Long đi hỏa tốc vào Đà Nẵng hiệp cùng Kinh lịch thuộc viên ở tỉnh là Nguyễn Dụng Giai đến thăm hỏi và làm việc với Percival. Nhưng thay vì gây thêm cảm tình, Percival khi nhận được thư cầu cứu của giám mục Dominique Lefebvre thì chiếm đoạt lấy 3 chiến thuyền và một số người làm con tin, đòi nhà chức trách phải thả Lefebvre. Sự việc không giải quyết được, Percival sai nổ súng bắn lên bờ rồi nhổ neo ra khơi ngày 16 tháng 5, khiến tình hình thêm rắc rối. Nỗ lực bang giao Việt-Mỹ bế tắc.

Theo sử nhà Nguyễn:

Đệ tam kỷ - quyển XLVIII, Thực lục về Hiến tổ chương hoàng đế, Ất Tỵ, Thiệu Trị năm thứ 5 [1845], ... Nước Phú Lãng Sa [Pháp] sai sứ sang tạ. Trước kia người nước ấy là bọn tên Đoan [tên thực là Phê Đô Sa Đê Y], tên Vọng [Giê Du Ni Mô [Jerónimo Hermosilla Vọng]] lẻn đến, lừa dối dụ dỗ nhân dân, bị bắt, phải giam cấm. Vua cho là không biết mà lầm phạm, đều tha cho ; đến đây Quốc trưởng nước ấy ủy Đầu mục là Đô Rắp Lăng đến cửa biển Đà Nẵng dâng thơ trình tạ ; lại nài xin thảm thiết cho người nước ấy là Đô Ni My Cô [Dominique Lefèbvre, tên Việt Nam là Ngãi] hiện đương phải giam. Thự phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi là Ngụy Khắc Tuần nói rằng trong thư đưa đến có ý cung kính hòa thuận. Vua cũng sai tha cả. Có người Kinh là bọn Nguyễn Văn Thất, theo tả đạo, ngầm thông tin tức với thuyền nước ngoài, bị bắt, chém bêu đầu rêu rao khắp nơi.

Chưa bao lâu, thuyền Man của nước Hoa Kỳ 花旂 cũng đến cửa biển, trong Kinh phái Viên ngoại lang Nguyễn Long, cùng thuộc viên ở tỉnh là Kinh lịch Nguyễn Dụng Giai đi đến thăm hỏi, bị người Man dọa nạt, mang xuống thuyền. Bọn Long không biết cự lại. Người Man bỗng nhổ neo đi. Khi bọn Long về, đều phải cách lưu.

Đệ tứ kỷ - quyển V, Thực lục về Dực tông anh hoàng đế, Canh Tuất, năm Tự Đức thứ 3 [1850] (nước Thanh Đạo Quang năm thứ 30). Mùa xuân, tháng giêng, ...

Sứ nước Ma Ly Căn [America, Hoa Kỳ] ở Tây dương là Ba Ly Chì (tên đầu mục ở thuyền) chở 1 chiếc thuyền đến cửa biển Đà Nẵng (thuộc Quảng Nam) nói : mang thư của nước ấy đến tạ lỗi, xin thông thương. (Trong thư nói : 4 năm trước thuyền nước ấy đến nước ta, lên bờ giết người, vua nước ấy đã đem trưởng thuyền làm tội rồi ; nay mong bỏ hết oán cũ đi, cho được thông thương hòa hảo). [Ý nhắc đến việc năm 1845 thời vua Thiệu Trị, chiến thuyền Constitution (thường gọi là Old Ironsides) của Hoa Kỳ đã cập bến Đà Nẵng, do thuyền trưởng là John Percival chỉ huy đã nổ súng gây rối.]

Tỉnh thần Quảng Nam là bọn Ngô Bá Hy (án sát) đem việc ấy tâu lên. Vua sai Tôn Thất Bật là Hậu quân Đô thống lĩnh Tổng đốc Quảng Nam (khi ấy hiện khuyết) chọn 1 người thị vệ, 1 người thông ngôn có tính cẩn tín đến đồn cửa biển tuỳ tiện làm việc. Khi ấy, Bật bàn với bọn Ngô Bá Hy sai thông ngôn là Hoàng Văn Nghị trả lời rằng : thuyền nước ấy từ trước đến nay, không có việc trái phép giết người nào cả. Nhân dân nước ta chuyên nghề làm ruộng trồng dâu, không thích chơi của lạ, nếu có lại buôn cũng không lợi gì, thư này không dám đề đạt lên. Ba Ly Chì nói : nếu không đề đạt lên, thì thuyền nước ấy không dám trở về. Tôn Thất Bật bèn xin tạm nhận thư kia, tuỳ cơ biện bác bắt bẻ. Vua không cho. Ba Ly Chì xin đi chơi núi Ngũ Hành, rồi chở thuyền đi.

Mãi đến năm 1873, lần này do xúc tiến của triều đình nhà Nguyễn, Bùi Viện được vua Tự Đức cử sang Mỹ như một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền" để cầu viện tìm cách chống Pháp. Bùi Viện sau đó đã đi qua Yokohama (Nhật Bản) để đáp tàu sang Mỹ, rồi lưu lại đó một năm mới gặp được Tổng thống Ulysses Grant (nhiệm kỳ 1868-1876). Lúc này Pháp và Mỹ đang đụng độ trong trận chiến ở México nên Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Nhưng Bùi Viện không mang theo quốc thư nên không đạt được cam kết chính thức. Vì vậy, ông lại quay về Việt Nam trở lại kinh thành Huế. Có được thư ủy nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa. Năm 1875 ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ và Pháp đã hết thù địch nên Ulysses Grant lại khước từ cam kết giúp Đại Nam đánh Pháp.

Thời Pháp thuộc và Chiến tranh Đông Dương

thumb|right|Một [[Điện báo|bức điện năm 1946 của Hồ Chí Minh, người đứng đầu Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, gửi tổng thống Harry S. Truman kêu gọi Hoa Kỳ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.]] Ngày 9 tháng 12 năm 1907, Hoa Kỳ thiết lập lãnh sự quán đầu tiên tại Sài Gòn, thuộc địa Đông Dương thuộc Pháp. Mặc dù từ năm 1889, Hoa Kỳ đã có giao thương với thành phố này.

Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đại diện hội "Những người An Nam yêu nước" gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Hòa bình Versailles cho tổng thống Mỹ Woodrow Wilson nhưng không được trả lời.

Đầu thập niên 1940, Cơ quan Tình báo Chiến lược (tiền thân của CIA) của Mỹ đã giúp đỡ Việt Minh thuốc men và một số vũ khí để chống Nhật, đối tượng lúc ấy là kẻ địch của cả Mỹ và Việt Nam. Việt Minh giúp đỡ lực lượng Mỹ về tin tức tình báo và giúp cứu các lính Mỹ rồi chuyển giao cho người Mỹ.

Trong Chiến tranh Đông Dương, Hoa Kỳ viện trợ cho Pháp và đồng minh Quốc gia Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng và tái chiếm thuộc địa của họ. Đến cuối chiến tranh, 80% chiến phí chủ yếu của Pháp do Mỹ tài trợ, lên đến 1,5 tỷ USD.

Năm 1947, Hoa Kỳ mở lãnh sự quán tại Hà Nội. Đến năm 1973, đã có trên 600.000 binh lính Mỹ và đồng minh chiến đấu trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Trong cuộc chiến này, quân đội Hoa Kỳ đã gây ra rất nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam, những tội ác chiến tranh này làm ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ hai nước, và là cơ sở để Việt Nam yêu cầu Hoa Kỳ bồi thường chiến tranh, vụ kiện hậu quả chất độc da cam tại Hoa Kỳ và các hợp tác tẩy trừ chất độc màu da cam ở Việt Nam sau này, trong nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh giữa hai quốc gia.

Năm 1973, Hoa Kỳ ký Hiệp định Paris với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và rút quân chính quy khỏi miền Nam Việt Nam.

Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ đóng cửa Đại sứ quán tại Sài Gòn và di tản toàn bộ nhân viên.

Năm 1993, Hoa Kỳ tuyên bố ngừng cmas các nước khác cho Việt Nam vay tiền trả nợ cho các tổ chức tài chính quốc tế. Năm 1994, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam và lập cơ quan liên lạc giữa hai quốc gia. Ngày 28 tháng 1 năm 1995, Hoa Kỳ thiết lập văn phòng liên lạc tại Hà Nội. Ngày 10 tháng 4 năm 1997, Douglas “Pete” Peterson được bổ nhiệm là Đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ tại Việt Nam

Năm 1997, Việt Nam đồng ý trả cho Hoa Kỳ khoản nợ trị giá 140 triệu USD mà Việt Nam Cộng hòa trước đây vay để đầu tư vào cơ sở hạ tầng.

Năm 2007, Bộ Ngoại giao Việt Nam ban hành công văn 2243/BNG-CM xác nhận tên đầy đủ chính thức Hoa Kỳ là "Hoa Kỳ".

Ngày 6 tháng 7 năm 2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Obama. Đây là chuyến thăm Hoa Kỳ đầu tiên của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao.

Ngày 23 tháng 5 năm 2016, nhân chuyến thăm tới Việt Nam, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama công bố quyết định dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí áp đặt đối với Việt Nam kéo dài từ năm 1975, nhưng đề cập thêm rằng việc bán vũ khí còn tùy thuộc vào cam kết của Việt Nam về vấn đề nhân quyền.thumb|Cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Mỹ [[Mike Pompeo và Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh năm 2019|300x300px]] thumb|[[Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ|Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter và Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh tại Hà Nội, 1 tháng 6 năm 2015]]

Chủ đề quan hệ ngoại giao

Nhân quyền

Hoa Kỳ thường bất đồng quan điểm với Việt Nam về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Đây cũng là một trong những nội dung được tranh luận sôi nổi ở Quốc hội Hoa Kỳ, nhưng nó rất ít khi được đề cập ở Quốc hội Việt Nam. Bất đồng cơ bản là cách hiểu "nhân quyền" của cả hai bên. Trong khi Hoa Kỳ đòi hỏi Việt Nam những quyền cơ bản nhất tương tự như ở quốc gia họ hay một số quốc gia khác thì Việt Nam cho rằng, nhân quyền có những khác biệt tùy theo hoàn cảnh của mỗi quốc gia. Trong năm 2007, chính phủ Việt Nam bắt giam một số người bất đồng chính kiến mà họ cho là đã vi phạm luật pháp Việt Nam, có cả người Mỹ, trong đó có những người gốc Việt. Chính phủ Hoa Kỳ cho rằng mặc dù có những hạn chế tự do ngôn luận (như không cho phép báo chí tư nhân, nghiêm cấm tuyên truyền chống Nhà nước, sự chỉ trích chính phủ hoặc biểu tình/tụ tập đông người bị hạn chế), Việt Nam cũng đã có những tiến bộ đáng kể về mở rộng tự do tôn giáo. Trong năm 2005, Việt Nam đã thông qua luật về tự do tôn giáo, một số nhóm giáo phái, tôn giáo ngoài vòng pháp luật được chính thức công nhận và cho phép hoạt động. Kết quả là, vào tháng 11 năm 2006, Hoa Kỳ đã gạch tên Việt Nam ra khỏi danh sách "Những quốc gia cần quan tâm đặc biệt".

Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam cho rằng Hoa Kỳ đã từng có điều 2385 về tội danh "Advocating overthrow of Government" (tiếng Việt: Vận động lật đổ chính quyền) của Bộ Hình luật Hoa Kỳ quy định: "Bất kỳ ai cố ý hô hào, kích động, khuyến khích lật đổ hoặc phá rối Chính phủ Mỹ và các tổ chức chính quyền cấp dưới đều phải bị tuyên phạt cao nhất tới 20.000USD, hoặc phải ngồi tù 20 năm. Sau khi mãn hạn tù 5 năm cũng không được Chính phủ và các tổ chức khác tin dùng", và Alien and Sedition Acts (tiếng Việt: Đạo luật Phản loạn) năm 1798 quy định: "Việc viết, in, phát biểu hay phổ biến... mọi văn bản sai sự thật, có tính chất xúc phạm hay ác ý chống chính quyền đều là tội…", là những luật có nội dung tương tự những đạo luật Việt Nam mà Hoa Kỳ đang phản đối và cho rằng việc Hoa Kỳ phản đối là tiêu chuẩn kép và là cái cớ để Hoa Kỳ can thiệp nội bộ vào các quốc gia khác. Tuy nhiên báo Quân đội Nhân dân khi tóm lược nội dung của điều 2385 trong Bộ Hình luật Mỹ không nhắc rõ vấn đề phương thức mà chỉ tập trung nhắc rõ vấn đề vận động lật đổ chính quyền và các hình phạt, trong khi điều luật này cấm các hành vi kêu gọi, vận động lật đổ hoặc hủy hoại chính phủ "bằng vũ lực hoặc bạo lực, hoặc nỗ lực để làm như vậy". Còn Alien and Sedition Acts thì đã hết hạn và bị bãi bỏ từ hơn 200 năm trước.

Cuối năm 2012 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho ra mắt bản báo cáo thường niên năm 2012, trong đó có nhận xét là tình hình nhân quyền tại Việt Nam, nhất là tự do báo chí và tự do ngôn luận đã có chiều hướng xấu đi vì các biện pháp bắt giam và sách nhiễu những ai thực thi tự do phát biểu quan điểm chỉ trích chính phủ. Việt Nam thường dùng điều 88 "tuyên truyền chống Nhà nước" để truy tố và kết án đương sự.

Quân sự

thumb|Một phái đoàn quân sự Việt Nam đến thăm các cơ sở quân sự tại Hoa Kỳ năm 2012 (trong hình là đứng trước máy bay [[F-15 Eagle)]] Cả hai quốc gia đã có những cuộc thăm viếng của các phái đoàn quân sự.

Hoa Kỳ cũng trợ giúp Việt Nam trong các vụ nâng cấp quốc phòng. Năm 2013, Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu vũ khí phi sát thương sang Việt Nam. Đến năm 2016 Hoa Kỳ chính thức dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu vũ khí sát thương cho Việt Nam.

Mỹ chuyển giao tàu tuần tra trọng tải lớn USCGC Morgenthau (WHEC 722) vừa rút khỏi biên chế lực lượng Tuần duyên Mỹ cho phía Việt Nam.

Biển Đông và chủ quyền

Trong tương quan tranh chấp chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông, đại sứ Hoa Kỳ David Shear cho biết "Mỹ có lợi ích quốc gia đối với hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như về an ninh hàng hải và tự do đi lại. Chúng tôi quan ngại về đe dọa vũ lực và Mỹ ủng hộ tiến trình ngoại giao giữa các nước có quan hệ trực tiếp". Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông và cho rằng "đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông vượt quá những gì mà công ước Liên Hiệp quốc về luật biển UNCLOS cho phép". Những tuyên bố này đã làm Trung Quốc không hài lòng và báo chí Trung Quốc đăng nhiều bài chỉ trích "chính sách can thiệp" của Mỹ.

Trong vụ Trung Quốc kéo giàn khoan Hải Dương 981 ra Biển Đông vào tháng 5 năm 2014, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Nghị quyết lên án Trung Quốc.

Hỗ trợ nhân đạo & hàn gắn hậu quả chiến tranh

thumb|Binh sĩ Hải quân Hoa Kỳ, khi viếng thăm Đà Nẵng năm 2010, đã cùng làm việc cho một dự án xây dựng [[Trại trẻ mồ côi]] Qua những tổ chức phi chính phủ, Hoa Kỳ cũng thường xuyên viện trợ nhân đạo cho Việt Nam trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.

Hoa Kỳ và Việt Nam cũng có những đàm phán để khắc phục và hàn gắn những hậu quả từ chiến tranh Việt Nam. Việt Nam tích cực giúp tìm những quân nhân Mỹ mất tích. Việt Nam vẫn ủng hộ các nạn nhân thực hiện vụ kiện hậu quả chất độc màu da cam trong Chiến tranh Việt Nam nhằm đòi các công ty hóa chất sản xuất phải bồi thường thiệt hại. Chính phủ Hoa Kỳ hiện vẫn từ chối trách nhiệm với những nạn nhân này và cho rằng mối liên hệ giữa các khuyết tật và chất độc da cam vẫn "chưa có bằng chứng khoa học". Tuy nhiên vào tháng 5/2007, Quốc hội Hoa Kỳ đã phân bổ khoản ngân sách 3 triệu USD nhằm khắc phục ảnh hưởng của chất độc da cam và môi trường tại một số điểm nóng nhất và năm 2009 tăng lên 6 triệu USD.

Viện trợ kinh tế và công nghệ

Hoa Kỳ cũng có nhiều viện trợ về kinh tế và chuyển tiếp công nghệ cho Việt Nam.

Tháng 3 năm 2015, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh ký kết tài trợ không hoàn lại cho công ty TNHH Xây dựng - thương mại - du lịch Công Lý một khoản viện trợ lên đến gần 1 tỷ USD, để thực hiện chương trình nghiên cứu khả thi phát triển nhà máy điện gió Bạc có công suất 300MW.

Cũng trong khuôn khổ của chương trình hỗ trợ của Chính phủ Hoa Kỳ cho Việt Nam với thời gian kéo dài 15 năm, Cơ quan Phát triển Quốc tế của Hoa Kỳ (USAID) sẽ triển khai 75 dự án về các lĩnh vực như hạ tầng giao thông, giáo dục, y tế và đặc biệt là năng lượng sạch. Ngày 2 tháng 7 năm 1993: Hoa Kỳ tuyên bố không ngăn cản các nước khác cho Việt Nam vay trả nợ tổ chức tài chính quốc tế. Ngày 3 tháng 2 năm 1994: Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam và lập cơ quan liên lạc giữa hai nước. Ngày 11 tháng 7 năm 1995: Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Tháng 8 năm 1995: Việt Nam và Hoa Kỳ khai trương đại sứ quán tại Washington D.C. và Hà Nội, ký thỏa thuận về xử lý nợ của chính quyền Sài Gòn cũ với Bộ trưởng Tài chính Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng.

  • Từ 22 tháng 10 đến 25 tháng 10 năm 1995: Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh và phu nhân gặp chính thức với Tổng thống Bill Clinton và và phu nhân tại Thành phố New York trong dịp đến Mỹ tham dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hợp Quốc. Đại tướng Lê Đức Anh là nguyên thủ nước Việt Nam thống nhất đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ. Ngày 27 tháng 6 năm 1997: Ngoại trưởng Mỹ Madeleine Albright thăm Việt Nam và ký hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm. Ngày 12 tháng 5 năm 1997: Việt Nam và Mỹ trao đổi đại sứ lần đầu tiên sau chiến tranh. Ngày 11 tháng 3 năm 1998: Tổng thống Bill Clinton lần đầu tuyên bố miễn áp dụng đạo luật bổ sung Jackson-Vanik đối với Việt Nam. Từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 năm 1998: Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm lần đầu tiên sau chiến tranh đến thăm chính thức Mỹ. Ngày 2 tháng 6 năm 2000: Tổng thống Bill Clinton tiếp tục tuyên bố miễn áp dụng đạo luật bổ sung Jackson-Vanik đối với Việt Nam. Ngày 14 tháng 7 năm 2000: Tại Washington D.C., đại diện hai nước ký Hiệp định Thương mại song phương sau nhiều vòng đàm phán. Ngày 6 tháng 9 năm 2000: Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương gặp chính thức với Tổng thống Bill Clinton tại Thành phố New York trong dịp tham dự hội nghị Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc và chính thức mời tổng thống Mỹ đến thăm Việt Nam. Từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 11 năm 2000: Tổng thống Mỹ Bill Clinton thăm chính thức Việt Nam. Ngày 4 tháng 10 năm 2001: Thượng viện Mỹ thông qua Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ. Ngày 17 tháng 10 năm 2001: Tổng thống George W. Bush phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ. Ngày 19-25 tháng 6 năm 2005: Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Hoa Kỳ.Tổng thống George W.Bush cũng cam kết ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO và nhận lời mời thăm Việt Nam năm 2006. Ngày 17-20 tháng 11 năm 2006: Tổng thống George W.Bush đến Việt Nam tham dự APEC. Ngày 18-23 tháng 11 năm 2007:Nhận lời mời của Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ George W. Bush và Phu nhân, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Phu nhân đi thăm chính thức Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Ngày 22-26 tháng 6 năm 2008: Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thăm Hoa Kỳ. Tổng thống George W.Bush tuyên bố ủng hộ chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Từ 25-27/7/2013, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang sang thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Trong chuyến thăm này, 2 nhà lãnh đạo đã nhất trí nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác toàn diện. Từ ngày 7-7-2015 đến ngày 11-7-2015 diễn ra chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng theo lời mời của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ và 40 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Đây cũng là chuyến công du chính thức đầu tiên tới Washington của một Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 23/5/2016, Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố chính thức dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương với Việt Nam trong cuộc Hội đàm với Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang mở ra mối quan hệ tốt đẹp và ấm dần lên giữa hai nước từng là cựu thù. Ngày 29 - 31/5/2017, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức Mỹ theo lời mời của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Ngày 11 - 12.11/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump thăm cấp nhà nước tới Việt Nam - là Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thăm Việt Nam trong năm đầu nhiệm kỳ. Ngày 26 - 28/2/2019, Tổng thống Mỹ Donald Trump có chuyến thăm (không chính thức) tới Việt Nam để tham dự Hội nghị Thượng Đỉnh Mỹ-Triều lần 2 *Ngày 10 - 11/9/2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm cấp nhà nước tới Việt Nam - là Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thăm Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Trong chuyến thăm đặc biệt này, 2 nhà lãnh đạo cao nhất của hai nước đã nhất trí nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện.
👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam** bắt đầu từ thế kỷ 19 dưới thời Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ bí mật
**Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** là quan hệ ngoại giao giữa hai nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ
thumb|Bộ Ngoại giao tại Hà Nội Việt Nam hiện nay, dưới chính thể **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** đến nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc
**Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam** (), được phía Việt Nam gọi đầy đủ là **Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hợp chúng quốc Hoa Kỳ tại Việt Nam**, là chức danh dành cho
**Quan hệ Tây Ban Nha – Việt Nam** () gọi tắt là **quan hệ Việt – Tây**, là mối quan hệ hợp tác giữa 2 quốc gia là Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng
**_Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam_** (tiếng Anh: _United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam_, viết tắt: US – Shrimp (Viet Nam), **DS404**) là vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên
**_Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II_** (tiếng Anh: _United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam II_, viết tắt: US – Shrimp II (Viet Nam), **DS429**) là vụ giải quyết tranh
thumb|[[Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Hamburg, Đức tháng 7 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Trung Quốcthumb|Đại sứ quán
**Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam** () là một đội hình quân sự tổng hợp của Lực lượng Vũ trang Liên Xô được đưa đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
nhỏ|Thủ tướng Anh [[Winston Churchill, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, và Lãnh tụ Xô viết Joseph Stalin ở Yalta, Krym, Liên Xô vào tháng 2 năm 1945]] **Quan hệ giữa Hợp chúng quốc
là một bộ chỉ huy thống nhất trực thuộc Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Hoa Kỳ (USINDOPACOM). Đơn vị được kích hoạt tại Phi trường Fuchū ở Tokyo, Nhật Bản, vào ngày
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Chính quyền quân sự Hoa Kỳ tại Quần đảo Lưu Cầu** ( viết tắt _USMGRI_, ) là chính phủ ở Okinawa, Nhật Bản 1945-1950, và rồi nó được thay thế bởi Ủy trị dân sự
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vấn đề **bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ** được đặt ra. Tuy nhiên đến hai mươi năm sau, tức ngày 11
**Quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam** là mối quan hệ ngoại giao được thiết lập chính thức giữa Đại Hàn Dân Quốc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hai quốc gia
**Chuyến thăm Việt Nam của Barack Obama 2016** là một chuyến đi lịch sử, đánh dấu hai thập niên bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Chiếc máy bay Air Force One
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
**Quan hệ Malaysia-Việt Nam** (tiếng Malay _Hubungan Malaysia-Vietnam_) là mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Malaysia, được thiết lập ngày 30/3/1973. Việt Nam đã mở đại sứ quán tại Kuala Lumpur và
Con dấu của Tổng thống Hoa Kỳ **Tổng thống Hoa Kỳ thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Tổng thống Hoa Kỳ đến Việt Nam vào những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau,
Vào ngày 10 tháng 9 năm 2023, tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã có chuyến thăm đến Hà Nội, thủ đô của Việt Nam. Chuyến thăm được báo chí hai nước ca ngợi là
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
**Quan hệ Israel – Việt Nam** là mối quan hệ đối ngoại giữa nhà nước Israel và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Việt Nam và Israel đã thiết lập quan hệ ngoại
**Quan hệ Ba Lan–Việt Nam** là mối quan hệ giữa Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong lịch sử. Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào
Huy hiệu chính thức của Chính phủ Nhật Bản **Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Thủ tướng Nhật Bản đến Việt Nam vào những thời điểm, hoàn cảnh
**Quan hệ Algérie-Việt Nam** là quan hệ song phương giữa Algérie và Việt Nam. Hai nước thiết lập quan hệ vào năm 1962, mặc dù mối quan hệ giữa Algérie và Việt Nam đã được
**Quan hệ Việt Nam - Cuba** là mối quan hệ đặc biệt, đồng minh chiến lược theo ý thức hệ, đồng thời là đối tác chiến lược toàn diện trên tất cả lĩnh vực, được
**Quan hệ Cộng hòa Séc – Việt Nam** (; ) là mối quan hệ ngoại giao song phương giữa Cộng hòa Séc (trước đây là Tiệp Khắc) và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
**Quan hệ Myanmar-Việt Nam** là mối quan hệ song phương giữa Cộng hòa Liên bang Myanmar và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cả hai quốc gia đều là thành viên của Hiệp
**Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ** () là tổng hợp các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ. Lực lượng Vũ trang bao gồm sáu quân chủng: Lục quân, Hải quân, Thủy quân Lục chiến,
**Quan hệ Việt Nam - Mông Cổ** là mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và Mông Cổ. Việt Nam đã thiết lập đại sứ quán tại Ulaanbaatar và Mông Cổ cũng đã thiết
thumb|Tòa đại sứ quán thứ hai nhìn từ bên ngoài **Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn** là tòa nhà có phái bộ ngoại giao của Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam. Tòa
**Quan hệ ngoại giao Liên minh châu Âu (EU)-Việt Nam** chính thức thiết lập vào ngày 28-11-1990. Cơ quan đại điện ngoại giao của EU - Phái đoàn Đại diện thường trực tại Việt Nam-
Quan hệ Việt Nam-Singapore đề cập đến mối quan hệ song phương giữa Cộng hòa Singapore và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Singapore và Việt Nam bắt đầu quan hệ thương mại
**Quan hệ Việt Nam - Hungary** là mối quan hệ ngoại giao giữa Hungary và Việt Nam. Hungary có một đại sứ quán ở Hà Nội và Việt Nam cũng có một đại sứ quán
Bản đồ thể hiện sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trên thế giới, năm 2007. Màu càng đậm nghĩa là ảnh hưởng quân sự càng nhiều, màu càng nhạt thì sự ảnh hưởng
**Hội họa dân gian Việt Nam** là thuật ngữ mô tả một loại hình mỹ thuật dân gian đã hiện diện từ rất lâu đời tại Việt Nam và thường được sáng tác bởi các
Quan hệ của hai nước Việt Nam và Libya tương đối nồng ấm. Hai nước lập quan hệ ngoại giao ngày 15/03/1975. Cơ sở của mối quan hệ là cả hai nước đều tuyên bố
**Quan hệ Việt Nam – Áo** là quan hệ song phương giữa Cộng hòa Áo và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Áo đã đặt Đại sứ quán của mình tại Hà Nội
**Quan hệ song phương giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chúng quốc Mexico** được thiết lập vào ngày 19 tháng 5 năm 1975, không lâu sau khi Chiến tranh Việt
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
nhỏ|phải|Đại sứ quán Đan Mạch tại Hà Nội **Quan hệ Đan Mạch – Việt Nam** hay **quan hệ Đan – Việt** là mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Đan Mạch. Trước năm
**Quân hàm quân đội Hoa Kỳ** là hệ thống cấp bậc đang được sử dụng cho _sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ_ của quân chủng Lục quân, Hải quân, Không quân, Thủy quân
**Quan hệ Brunei – Việt Nam** đề cập đến mối quan hệ song phương giữa Vương quốc Brunei Darussalam và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hai nước chính thức thiết lập quan
thumb|Trump đang chỉ vào một bảng với các mức thuế quan đối ứng trong bài phát biểu của ông vào ngày 2 tháng 4 năm 2025 thumb|Bản đồ các quốc gia và vùng lãnh thổ
nhỏ|Bản đồ [[Hoa Kỳ cho thấy các tiểu bang Hoa Kỳ được chia thành các quận.]] Ở Hoa Kỳ, **quận** hay **hạt** (tiếng Anh: **_county_**) là một cấp chính quyền địa phương nhỏ hơn một
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Quan hệ Nhật Bản–Việt Nam** tắt là **quan hệ Việt-Nhật** (tiếng Nhật:日越関係) bắt đầu từ cuối thế kỷ 16 khi các nhà buôn Nhật Bản đến Việt Nam buôn bán. Việt Nam chính thức lập