✨Quan hệ Tây Ban Nha – Việt Nam

Quan hệ Tây Ban Nha – Việt Nam

Quan hệ Tây Ban Nha – Việt Nam () gọi tắt là quan hệ Việt – Tây, là mối quan hệ hợp tác giữa 2 quốc gia là Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mối quan hệ được thiết lập ngày 23 tháng 5 năm 1977. Trên thực tế mối quan hệ Việt Nam Tây Ban Nha đã có thời gian gắn bó lâu dài trong lịch sử.

Trong chuyến thăm Vương quốc Tây Ban Nha của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 12 năm 2009, Quốc vương Juan Carlos và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ra tuyên bố chung nâng cấp mối quan hệ trở thành đối tác chiến lược giữa hai nước.

Lịch sử

nhỏ|220x220px|Bản tấu của [[Nguyễn Văn Tường về việc bàn định ước với Tây Ban Nha, năm Tự Đức thứ 32 (1879)]] nhỏ|293x293px|Một chiếc khiên và đạn dược thu được từ quân trú phòng trong cuộc tấn công vào thành Sài Gòn. Hiện được trưng bày ở [[Bảo tàng Hải quân Madrid.]] Mối liên hệ chính thức đầu tiên giữa hai nước được thiết lập vào thế kỷ 19 khi Isabella II của Tây Ban Nha liên minh cùng Napoléon III của Pháp tiến hành xâm lược Đại Nam năm 1858 sau các cuộc đàn áp Công giáo ở nước này. Sau đó Tây Ban Nha rút khỏi cuộc chiến và không tham gia các sứ mệnh tiếp theo sau Chiến dịch Nam Kỳ.

Trong Nội chiến Tây Ban Nha, thông tin cho rằng đã có ba lính tình nguyện Việt Nam thuộc Lữ đoàn quốc tế từ Pháp sang Tây Ban Nha để chiến đấu cho Cộng hòa Tây Ban Nha. Trong đó có hai anh em người Hà Nội phục vụ trong Lữ đoàn 13; một người là đại đội trưởng, một người phục vụ trong ủy ban. Người còn lại đến từ Nam Kỳ tên là Văn Vọng Điệp; là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, đến Tây Ban Nha và làm đầu bếp cho lữ đoàn.

Sau khi Đế quốc Nhật đầu hàng, thực dân Pháp tiến hành xâm lược trở lại Đông Dương. Nhiều binh sĩ của Binh đoàn Lê dương Pháp đã trốn sang Việt Minh trong giai đoạn 1945-1954, trong số đó có các binh sĩ và hạ sĩ quan Tây Ban Nha. Người Tây Ban Nha phục vụ trong Việt Minh với tư cách là sĩ quan. Nhiều người bị thương trong cuộc chiến chống Pháp, một số chết vì môi trường rừng rậm.

Tây Ban Nha đóng một vai trò nhỏ trong Chiến tranh Việt Nam khi Francisco Franco, nhà độc tài chống cộng người Tây Ban Nha, đồng ý hỗ trợ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa bằng cách triển khai một đơn vị y tế bí mật trong suốt cuộc chiến, phục vụ các hoạt động quân sự lẫn dân sự.

Sau khi Việt Nam thống nhất, các quốc gia trên thế giới từng bước thiết lập mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam trong đó có Tây Ban Nha. Khi chiến tranh biên giới phía Tây Nam nổ ra, Tây Ban Nha là quốc gia kêu gọi 2 bên kiếm chế và rút quân, tới khi Việt Nam giải phóng Phnôm Pênh thì mối quan hệ trở lên lạnh nhạt do sự đối đầu tiếp tục căng thằng trở lại giữa 2 bên Tư bản và Cộng sản trong Chiến tranh Lạnh. Tây Ban Nha ủng hộ các biện pháp trừng phạt chống Việt Nam và chính thức rút đại sứ về nước đầu năm 1979.

Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, hai nước đã phát triển mối quan hệ tương đối chặt chẽ, bao gồm hợp tác kinh tế và chính trị. Tây Ban Nha cũng là một trong những nhà tài trợ kinh tế lớn nhất cho Việt Nam trong Liên minh châu Âu.

Sự mở rộng ngôn ngữ và văn hóa Tây Ban Nha cũng đã đến được Việt Nam, như các bài hát bằng tiếng Tây Ban Nha và La Liga, thường thu hút những người ủng hộ lớn của Việt Nam.

Đại sứ quán , lãnh sự quán

  • Tại Việt Nam :
  • Hà Nội (Đại sứ quán)
  • Tại Tây Ban Nha :
  • Madrid (Đại sứ quán)
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quan hệ Tây Ban Nha – Việt Nam** () gọi tắt là **quan hệ Việt – Tây**, là mối quan hệ hợp tác giữa 2 quốc gia là Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Cuộc chinh phục Đế quốc Aztec của Tây Ban Nha**, còn gọi là **Cuộc chinh phục Mexico** hay **Chiến tranh Aztec-Tây Ban Nha** (1519-1521) là một trong những sự kiện quan trọng nhất của quá
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vấn đề **bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ** được đặt ra. Tuy nhiên đến hai mươi năm sau, tức ngày 11
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**Đông Ấn Tây Ban Nha** (; tiếng Filipino: _Silangang Indiyas ng Espanya_) là lãnh thổ Tây Ban Nha tại Châu Á-Thái Bình Dương từ 1565 đến 1899. Bao gồm Philippines, Quần đảo Mariana, the Quần
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Tiếng Tây Ban Nha** (**'), cũng được gọi là **tiếng Castilla** () hay **tiếng Y Pha Nho''' theo lối nói cũ, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Iberia-Rôman của nhóm ngôn ngữ Rôman, và là
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
**Lịch sử Tây Ban Nha** bắt đầu từ khu vực Iberia thời tiền sử cho tới sự nổi lên và lụi tàn của một đế quốc toàn cầu, cho tới lịch sử thời hiện đại
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
phải|nhỏ|345x345px| [[Don Quijote|Don Quixote của Cervantes được coi là tác phẩm tiêu biểu nhất trong các kinh điển của văn học Tây Ban Nha và một tác phẩm cổ điển của văn học phương Tây.]]
**María de las Mercedes của Tây Ban Nha hay María de las Mercedes de Borbón y Habsburgo-Lorena** (tiếng Tây Ban Nha: _María de las Mercedes de España_; 11 tháng 9 năm 1880 – 17 tháng
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha** () là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha trên bình diện quốc tế
**Alfonso XII** (_Alfonso Francisco de Asís Fernando Pío Juan María de la Concepción Gregorio Pelayo_; 28 tháng 11 năm 1857 - 25 tháng 11 năm 1885) còn được gọi là **El Pacificador** (tiếng Tây Ban
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Antonia Fernanda de España_; 17 tháng 11 năm 1729 – 19 tháng 9 năm 1785 ) là con gái út của Felipe V
**Letizia Ortiz Rocasolano** (; ngày 15 tháng 9 năm 1972) là Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Felipe VI của Tây Ban Nha. Cũng như hầu hết
**Động từ tiếng Tây Ban Nha** tạo ra một khía cạnh khó của tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Tây Ban Nha là một ngôn ngữ tương đối tổng hợp với một mức độ biến tố
**María del Pilar của Tây Ban Nha** (; 4 tháng 6 năm 1861 – 5 tháng 8 năm 1879) là người con thứ ba cũng như là con gái thứ hai sống qua tuổi ấu
**María Ana của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Ana de España_, tiếng Đức: _Maria Anna von Spanien_; tiếng Anh: _Maria Anna of Spain_; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5
**María de la Paz của Tây Ban Nha** (; 23 tháng 6 năm 1862 – 4 tháng 12 năm 1946) là một Vương nữ Tây Ban Nha, con gái của Isabel II của Tây Ban
nhỏ|phải|389x389px|Các nước có cơ quan đại diện ngoại giao thường trú của [[Việt Nam]] **_Cơ quan đại diện_** thực hiện chức năng đại diện chính thức của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với
**María Teresa Antonia Rafaela của Tây Ban Nha, Trữ phi nước Pháp** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa Rafaela de España_; 11 tháng 6 năm 1726 – 22 tháng 7 năm 1746), là con gái
**Isabel II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel II, María Isabel Luisa de Borbón y Borbón-Dos Sicilias_; 10 tháng 10 năm 1830 – 9 tháng 4 năm 1904) là Nữ vương Tây
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
**Beatriz của Tây Ban Nha** hay **Beatriz de Borbón y Battenberg** (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: _Beatrice of Spain_; tiếng Scotland: _Beatrice o Spain_; tiếng Ý: _Beatrice di Borbone-Spagna_; tiếng Đức:
**Ana của Tây Ban Nha, hay Ana của Áo** (tiếng Tây Ban Nha: _Ana María Mauricia de Austria y Austria-Estiria_ hay _Ana de España_; tiếng Đức: _Anna von Österreich_; tiếng Bồ Đào Nha: _Ana da
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**Cuộc chinh phục Chiapas của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột quân sự khởi phát bởi những chinh phục tướng công Tây Ban Nha nhằm chống lại các chính thể Trung Bộ
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3
Tiếng Tây Ban Nha có những danh từ diễn tả các vật cụ thể, các nhóm và phân loại của vật, số lượng, cảm xúc và các khái niệm trìu tượng khác. Tất cả các
**Amadeo I** (tiếng Ý: _Amedeo_, đôi khi được Latinh hóa thành _Amadeus_; tên đầy đủ: _Amedeo Ferdinando Maria di Savoia_; 30 tháng 5 năm 1845 – 18 tháng 1 năm 1890) là một vương tử
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
Huy hiệu chính thức của Chính phủ Nhật Bản **Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam** là các chuyến thăm của các Thủ tướng Nhật Bản đến Việt Nam vào những thời điểm, hoàn cảnh
**Kiểm toán Nhà nước Việt Nam** là cơ quan do Quốc hội thành lập, theo lí thuyết hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lí, sử
Tại Thế vận hội Mùa hè 1992 diễn ra ở Barcelona, Tây Ban Nha đoàn Việt Nam tham dự với 12 thành viên (7 vận động viên, 3 huấn luyện viên và 2 quan chức)
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Đài Truyền hình Việt Nam**, được biết đến rộng rãi với tên gọi **VTV** (viết tắt của từ ), là đài truyền hình quốc gia thuộc sở hữu của Chính phủ nước Cộng hòa Xã
**Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc** (_Quan hệ Việt-Trung_, ) là mối quan hệ giữa hai nước láng giềng vì có chung biên giới trên bộ và trên biển, hai nước có chung thể
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên
**Quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam** bắt đầu từ thế kỷ 19 dưới thời Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ bí mật
**Đối tác chiến lược, đối tác toàn diện** là cụm từ chỉ quan hệ ngoại giao giữa hai nước với nhau. Quan hệ từ đối tác song phương, đối tác khu vực tới đối tác
**Đài Tiếng nói Việt Nam** (**TNVN**), cũng được gọi là **VOV** (viết tắt từ tên ), là đài phát thanh quốc gia trực thuộc Chính phủ Việt Nam, có nhiệm vụ "tuyên truyền đường lối,
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực