✨Chính phủ Bắc Dương

Chính phủ Bắc Dương

Chính phủ Bắc Kinh Trung Hoa Dân Quốc là chỉ chính phủ trung ương đặt thủ đô tại Bắc Kinh trong thời kỳ đầu kiến quốc Trung Hoa Dân Quốc, do nhân sĩ Bắc Dương phái nắm quyền nên được gọi là Chính phủ Bắc Dương () đôi khi còn được gọi với những cái tên như Đệ Nhất Trung Hoa Dân Quốc hay Đệ nhất Cộng hòa Trung Hoa ở những tài liệu nước ngoài, nhằm phân biệt với đệ nhị chính phủ Quốc dân.

Sau Cách mạng Tân Hợi bùng phát năm 1911, Chính phủ Bắc Dương là chính quyền đầu tiên được quốc tế thừa nhận kế thừa pháp thống Trung Quốc, đánh dấu Trung Hoa Dân Quốc chính thức xuất hiện. Ngày 6 tháng 10 năm 1913, Viên Thế Khải qua bầu cử trở thành đại tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc, đánh dấu Chính phủ Bắc Dương chính thức thành lập, tiếp nối Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc.

Chính phủ Bắc Dương là một chính phủ khá dân chủ trong lịch sử Trung Quốc, cũng có cống hiến quan trọng cho duy trì chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Dưới quyền chính phủ Bắc Dương, vào năm 1917 Trung Quốc gia nhập phe Hiệp Ước trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, đồng thời trong năm 1919 lấy thân phận "nước chiến thắng" tham dự Hội nghị hòa bình Paris, song do Phong trào Ngũ Tứ kháng nghị nên không ký vào Hòa ước Versailles. Năm 1928, sau khi Chiến tranh Bắc phạt kết thúc, Chính phủ Bắc Dương chính thức bị Chính phủ Quốc dân thay thế.

Tiến trình

Kế thừa cương vực nhà Thanh

Ngày 12 tháng 2 năm 1912, Long Dụ thái hậu của triều Thanh ban chiếu cho Viên Thế Khải toàn quyền thành lập chính phủ lâm thời tại Bắc Kinh. Ngày 13 tháng 2, Tôn Trung Sơn tuân thủ cam kết từ Nghị hòa Nam-Bắc, từ chức trước Tham nghị viện, đồng thời tiến cử Viên Thế Khải làm đại tổng thống. Ngày 15 tháng 2, Viên Thế Khải được bầu làm đại tổng thống lâm thời thứ hai, đến ngày 10 tháng 3 thì tuyên thệ nhậm chức tại Bắc Kinh. Đầu tháng 12 năm 1912 đến tháng 3 năm 1913, Chính phủ Lâm thời Bắc Kinh cử hành bầu cử quốc hội khóa 1, Tống Giáo Nhân lãnh đạo Quốc Dân đảng giành đa số ghế trong lưỡng viện. Ngày 22 tháng 3 năm 1913, Tống Giáo Nhân bị ám sát trong khi sắp nhậm chức tổng lý nội các. Ngày 8 tháng 4 năm 1913, Quốc hội khóa I Trung Hoa Dân Quốc được triệu tập tại Bắc Kinh. Trong giai đoạn này, Viên Thế Khải hấp thu giới tinh anh xã hội, nhân sĩ Bắc Dương và thiểu số đảng cách mạng thành chính phủ mới, thể chế chính phủ trung ương của Trung Hoa Dân Quốc dần được xác lập, đến ngày 6 tháng 10 tiến hành bầu cử đại tổng thống, Viên Thế Khải trở thành đại tổng thống chính thức đầu tiên, nhậm chức vào ngày 10 tháng 10.

Tháng 7 năm 1913, Tôn Trung Sơn lấy lý do Tống Giáo Nhân bị ám sát và Viên Thế Khải vay mượn nhục nhã phương Tây khi chưa được Quốc hội đồng ý, phát động cách mạng lần thứ hai, song đến tháng 8 thì thất bại hoàn toàn, ông phải lưu vong tại Nhật Bản. Nhật Bản đề xuất 21 điều gây khó khăn cho Viên Thế Khải, dưới nhiều bối cảnh bất lợi, các ngôn luận như "cộng hòa không hợp với tình hình Trung Quốc" không ngừng truyền bá trong xã hội, các nơi kiến nghị Viên Thế Khải thi hành quân chủ lập hiến để củng cố nền tảng quốc gia, Viên Thế Khải cuối cùng vào ngày 12 tháng 12 năm 1915 đồng ý bắt đầu trù bị chế độ quân chủ lập hiến Trung Hoa Đế quốc, định vào năm 1916 lên ngôi vua và cải niên hiệu thành "Hồng Hiến". Tuy nhiên, Trung Hoa Cách mạng đảng của Tôn Trung Sơn, Tông Xã đảng của quý tộc Mãn Thanh đều được Nhật Bản tài trợ, cũng với Khởi nghĩa Vân Nam của Thái Ngạc ngăn chặn, ngày 22 tháng 3 năm 1916 Viên Thế Khải chưa lên ngôi vua đã phải tuyên bố triệt tiêu chế độ quân chủ, Trung Hoa Đế quốc chưa trở thành quốc danh chính thức. Ngày 6 tháng 6 năm 1916, Viên Thế Khải bị bệnh mất.

Phe Bắc Dương nắm quyền

Sau khi Viên Thế Khải từ trần, không ai có năng lực thống trị toàn thể quân phiệt Bắc Dương. Phe Bắc Dương sau đó phân thành ba thế lực lớn là Trực hệ, Hoản hệ, Phụng hệ. Từ sau Chiến tranh Hộ quốc, quân phiệt các địa phương cũng bắt đầu hình thành. Quân phiệt địa phương trên danh nghĩa chịu sự chi phối của chính phủ trung ương Bắc Kinh, song chính phủ trung ương Bắc Kinh thực tế trở thành vũ đài của Bắc Dương quân phiệt, là nguyên nhân chính khiến hậu thế gọi là chính phủ "Bắc Dương".

Trong giai đoạn này, Chính phủ Bắc Dương theo trình tự dân chủ, do Quốc hội tuyển chọn đại tổng thống và tổng lý quốc vụ. Năm 1925, Trung Quốc Quốc Dân đảng thành lập Chính phủ Quốc dân, đồng thời do Tưởng Giới Thạch lĩnh quân Bắc phạt. Ngày 3 tháng 6 năm 1928, chính phủ quân sự của Trương Tác Lâm tan rã. Ngày 8 tháng 6, Quốc Dân Cách mạng quân chiếm được Bắc Kinh. Ngày 29 tháng 12 năm 1928, lãnh tụ Phụng hệ là Trương Học Lương cho hạ Ngũ sắc kỳ, treo Thanh thiên bạch nhật mãn địa hồng kỳ, sử gọi là Đông Bắc thay cờ. Đến đây, Chính phủ Bắc Dương kết thúc hoạt động, Bắc Dương phái rút khỏi vũ đài lịch sử.

Chính trị

Tam quyền phân lập

Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, kiến lập chế độ tam quyền phân lập, lần lượt xuất hiện năm bộ hiến pháp đều lấy "tam quyền phân lập" làm nguyên tắc cơ bản, hạn chế quyền lực tổng thống, phòng ngừa cá nhân độc tài, khiến quyền lợi và tự do của nhân dân được tôn trọng và bảo hộ. Tháng 5 năm 1917, trong vấn đề tuyên chiến với Đức, Tổng lý Đoàn Kỳ Thụy đề xuất tham chiến, song Quốc hội cự tuyệt hợp tác, do đó Đoàn Kỳ Thụy không ngừng gây áp lực với Quốc hội, Quốc hội bèn cải tổ nội các, tạm hoãn thảo luận vấn đề tham chiến. Đại tổng thống Lê Nguyên Hồng theo yêu cầu của Quốc hội đã bãi chức vụ của Đoàn Kỳ Thụy. Quốc hội đương thời thực sự có vai trò giám sát chính phủ, hạn chế quyền lực, không phải là "con dấu cao su", "máy biểu quyết".

Nguyên thủ quốc gia

thumb|Viên Thế Khải Người sáng lập Chính phủ Bắc Dương là Viên Thế Khải không chỉ là một nhà cải cách thực tế, mà còn là một nhân vật ái quốc. Lê Nguyên Hồng là quan thanh liêm, bản tính từ thiện, có thể cùng binh sĩ đồng cam cộng khổ, được binh sĩ yêu kính. Đoàn Kỳ Thụy được gọi là "lục bất tổng lý", tức "không chơi gái, không cờ bạc, không tham ô, không hút thuốc phiện, không thiên vị, không uống rượu". Tào Côn nhờ hối lộ mà được bầu làm đại tổng thống của Trung Hoa Dân Quốc năm 1923, về sau quân Nhật chiếm lĩnh Thiên Tân, có ý đồ thuyết phục Tào Côn lập chính phủ thân Nhật, tuy nhiên Tào Côn kiên quyết cự tuyệt hợp tác với Nhật Bản.

Tự do ngôn luận

Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương tuy có tồn tại sự kiện hạn chế báo chí, song hoàn cảnh dư luận so với thời Chính phủ Quốc Dân và chính phủ cộng sản sau này thì tương đối rộng rãi. Năm Dân Quốc thứ 1, toàn quốc ước tính có 500 báo, có lượng lớn cơ quan độc lập, như "Quốc Dân tân báo", "Ngữ ty", "Thần báo", Thanh Hoa chu khan", "Tân thanh niên", "Kinh báo", "Thế giới nhật báo", "Hiện đại bình luận". Mao Trạch Đông tại Hồ Nam sáng lập "Tương Giang bình luận", chủ biên "Tân Hồ Nam", Chu Ân Lai tại Thiên Tân lần lượt sáng lập "Thiên Tân học sinh liên hiệp hội báo" và "Giác ngộ". Sau khi Tống Giáo Nhân bị sát hại vào năm 1913, sức thâm nhập của giới tin tức khiến Chính phủ Bắc Dương hết sức bất mãn. Do đó, Viên Thế Khải tiến hành cấm chỉ và chỉnh đốn ngành báo toàn quốc, đến cuối năm 1913 toàn quốc chỉ còn 139 báo tiếp tục xuất bản. Sau khi Viên Thế Khải từ trần, báo chí dân gian tăng từ 500 vào năm 1916 lên hơn 1000 vào năm 1920. Năm 1926, đài phát thanh đầu tiên của Trung Quốc được kiến lập tại Cáp Nhĩ Tân, sau đó các đài phát thanh nhà nước và tư nhân bắt đầu xuất hiện với số lượng lớn. Không gian tự do của quốc dân được mở rộng, tạo điều kiện để giới tinh anh xã hội và quảng đại quần chúng tích cực tham dự sự kiện công cộng.

Ngày 5 tháng 11 năm 1913, Viên Thế Khải nhằm đổi lấy việc Nga viện trợ và thừa nhận Chính phủ Bắc Dương, bèn cùng Nga ký kết "Hiệp ước Trung-Nga-Mông". Nga tuy bề ngoài thừa nhận Mông Cổ là "một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc", song Chính phủ Trung Quốc thừa nhận nội dung "Hiệp ước Nga-Mông" và "tự trị" của Mông Cổ, không thiết lập cai trị, trú quân hay di dân tại Ngoại Mông Cổ, trên thực tế thừa nhận quyền khống chế của Nga đối với Ngoại Mông. Năm 1917, Nga bùng phát cách mạng, Chính phủ Bắc Dương thừa cơ thu hồi chủ quyền đường sắt Trung Đông bị Nga cướp đoạt, phế trừ một phần bồi thường của nhà Thanh cho các cường quốc, xuất binh đến Ngoại Mông Cổ, duy trì thống nhất quốc gia. Trong Nội chiến Nga năm 1918, hàng triệu người Trung Quốc tại Siberia bị uy hiếp về sinh mệnh và tài sản, Chính phủ Bắc Dương chịu áp lực từ các bên, quyết định xuất binh sang Siberia bảo hộ kiều dân. Tháng 8 năm 1919, Chính phủ Bắc Dương chính thức thành lập Tổng cục cảnh sát tại Cáp Nhĩ Tân, thu hồi đại bộ phần quyền cảnh sát từ tay người Nga. Chính phủ Bắc Dương phế bỏ "Hiệp ước Trung-Nga-Mông", đồng thời xuất binh đến Ngoại Mông, tháng 11 năm 1919 Ngoại Mông thủ tiêu tự trị, khôi phục chế độ như trước. Chính phủ Bắc Dương đề xuất sửa đổi "Điều ước Y Lê Trung-Nga", cùng Chính phủ Nga Xô viết vào tháng 5 năm 1920 ký kết hiệp định thông thương cục bộ mới, phế trừ hiệp ước cũ mà trong đó đa số là điều khoản bất bình đẳng. Tháng 9 năm 1920, phế bỏ quyền tài phán lãnh sự Nga kiều, thu hồi tô giới Nga. Tháng 8 năm 1922, Liên Xô phái Adolph Joffe sang Bắc Kinh làm đại biểu toàn quyền tại Trung Quốc, đầu tiên gửi thư cho người lãnh đạo Chính phủ Bắc Dương là Ngô Bội Phu, hy vọng lập quan hệ hợp tác, tuy nhiên, Ngô Bội Phụ cự tuyệt du thuyết của Liên Xô, Adolph Joffe chuyển sang liên lạc với Tôn Trung Sơn đang phát triển thế lực tại phương nam, hai người sau đó phát biểu tuyên bố chung, Tôn Trung Sơn đồng ý quân Liên Xô có thể lưu trú Ngoại Mông.

Ngày 29 tháng 5 năm 1914, Nhật Bản uy hiếp Viên Thế Khải ký kết "Biện pháp thi hành giảm thuế vận chuyển qua lại Triều Tiên- Nam Mãn Trung-Nhật" với sáu điều khoản, thương nghiệp Đông Bắc sau đó bị người Nhật lũng đoạn. Sau Cách mạng thứ hai, Viên Thế Khải lo sợ Nhật Bản hỗ trợ Tôn Trung Sơn, đặc phái Tôn Bảo Kỳ, Lý Thịnh Đạt sang Nhật Bản khai thông, Nhật Bản nhân cơ hội này đề xuất quyền xây dựng năm tuyến đường sắt tại Đông Bắc. Tháng 9 năm 1914, Nhật Bản mượn việc tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, tuyên chiến với Đức, xuất binh chiếm lĩnh Sơn Đông. Ngày 7 tháng 1 năm 1915, Chính phủ Bắc Dương yêu cầu quân Nhật triệt thoái về nước, hoặc tạm lưu trú tại tô giới Đức tại Thanh Hải. Sau khi Đức chiến bại trong thế chiến, Chính phủ Bắc Dương lấy thân phận nước chiến thắng tham dự Hội nghị hòa bình Paris, muốn thu hồi quyền lợi của Đức tại Sơn Đông, song bị buộc phải chuyển giao lợi ích đó sang Nhật Bản, đại biểu Trung Quốc chỉ có thể cự tuyệt ký và hiệp ước để kháng nghị. Nhật Bản thừa cơ các nước Âu-Mỹ không để tâm tới Viễn Đông, thấy được dã tâm xưng đế của Viên Thế Khải, vào ngày 18 tháng 1 Nhật Bản đề xuất yêu cầu 21 điều với Viên Thế Khải, dẫn tới bùng phát Phong trào Ngũ Tứ. Do Chính phủ Bắc Dương xoay xở nhiều bên, các điều khoản bất lợi nhất với Trung Quốc bị bác bỏ, là thắng lợi ngoại giao của nước yếu., quân Nhật chiếm lĩnh Thanh Đảo cho đến năm 1922.

Năm 1918, Đức chiến bại trong thế chiến, để mất tô giới và thuộc địa tại Trung Quốc, giảm thiểu một chương ngại trong quan hệ song phương. Năm 1920, đoàn đại biểu của Đức sang thăm Trung Quốc, trải qua đàm phán, hai bên vào ngày 20 tháng 5 năm 1921 ký kết "Hiệp ước Trung-Đức". Đây là một điều ước bình đẳng hiếm thấy trong lịch sử quan hệ đối ngoại cận đại của Trung Quốc, quan hệ Trung-Đức bị gián đoạn trong chiến tranh đến lúc đó được khôi phục.

Xã hội

Chính phủ Bắc Dương chú trọng kiến thiết văn hóa truyền thống Trung Quốc, quốc ca và quốc huy thời kỳ này thể hiện đầy đủ văn hóa truyền thống Trung Quốc. Ngoài ra, Viên Thế Khải từng ban bố một loạt luật định tôn sùng luân thường, tôn sùng Nho học, thiết lập tiết xuân có ảnh hưởng đến nay. Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, không khí dân chủ cung cấp bảo hộ tự do tư tưởng, xúc tiến mạnh phát sinh và phát triển phong trào tân văn hóa. Trong Phong trào tân văn hóa, các loại trào lưu tư tưởng và chủ nghĩa phổ biến tại Trung Quốc, văn hóa tư tưởng xuất hiện đa nguyên hóa. Dưới hai ngọn cờ dân chủ và khoa học, các trào lưu tư tưởng tự do truyền bá, mọi người tranh luận các loại học thuyết, xúc tiến mạnh giải phóng cá tính của người Trung Quốc, cũng như tiến bộ của sự nghiệp khoa học văn hóa. Các nhà văn hóa lớn của Trung Quốc thời kỳ cận hiện đại phải kể đến như Thái Nguyên Bồi, Trần Độc Tú, Hồ Quát, Tiền Mục, Lỗ Tấn hay Chu Tác Nhân, hầu như các ngành khoa học xã hội và nhân văn hiện nay tại Trung Quốc đều đặt nền móng từ thời kỳ Chính phủ Bắc Dương.

Năm 1922, tổng trưởng ngoại giao của Chính phủ Bắc Dương là Vương Chính Đình được mời làm ủy viên Ủy ban Olympic Quốc tế. Trong Thế vận hội Mùa hè năm 1924 tổ chức tại Paris, Pháp, do Chính phủ Bắc Dương thiếu kinh phí nên không thể cử toàn bộ tuyển thủ tham dự, chỉ cử Vi Vinh Lạc và ba vận động viên quần vợt khác sang Pháp tham gia thi đấu, kinh phí do Hoa kiều tại Mỹ tài trợ. Đoàn đại biểu Trung Quốc tham dự lễ khai mạc Thế vận hội, song sau đó lại rút khỏi thi đấu chính thức. Tuy nhiên, họ vận là những người Trung Quốc đầu tiên xuất hiện trên đấu trường Thế vận hội.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chính phủ Bắc Kinh Trung Hoa Dân Quốc** là chỉ chính phủ trung ương đặt thủ đô tại Bắc Kinh trong thời kỳ đầu kiến quốc Trung Hoa Dân Quốc, do nhân sĩ Bắc Dương
**Chính phủ Trung Hoa Dân quốc** (, _Trung Hoa Dân quốc Chính phủ_), trước năm 1949 dùng để chỉ chính quyền cộng hòa mà về danh nghĩa là chính quyền chính thức của lãnh thổ
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Bắc Kinh** (Tiếng Trung Quốc: **北京市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Běijīng shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Bắc Kinh thị Nhân dân Chính phủ
[[Tân quân (nhà Thanh)|Tân quân Bắc Dương đang huấn luyện]] **Quân Bắc Dương** (Tiếng Trung: _北洋軍_; Bính âm: _Běiyáng-jūn_) là lực lượng quân sự kiểu phương Tây do triều đình nhà Thanh thành lập vào
**Chính phủ Vichy**, hoặc **Phát xít Pháp** hay chỉ gọi đơn giản là **Vichy** là thuật ngữ thường dược dùng để miêu tả chính phủ Pháp hợp tác với phe Trục từ tháng 7 năm
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Hà Bắc** được bầu cử bởi Đại hội Đại biểu nhân dân tỉnh Hà Bắc, lãnh đạo bởi thành viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cán bộ,
**Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến** (có tài liệu gọi là **Chính phủ Liên hiệp Quốc gia**) là chính phủ được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1946 dựa trên kết quả của
nhỏ|300x300px| Tân quân Bắc Dương đang huấn luyện **Quân phiệt Bắc Dương** là lực lượng quân phiệt lớn nhất và có thế lực nhất thời sơ kỳ Trung Hoa Dân Quốc. Quân phiệt Bắc Dương
**Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam** là một chính phủ tồn tại ở miền nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chính phủ này tồn tại
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Hồ Bắc** (tiếng Trung: 湖北省人民政府省长, bính âm: _Hú Běi shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Hồ Bắc tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu cử bởi Đại
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thiên Tân** (Tiếng Trung Quốc: **天津市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Tiān Jīn shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán – Việt: _Thiên Tân thị Nhân dân Chính
**Tỉnh trưởng Chính phủ nhân dân** (, bính âm Hán ngữ: _Shěng jí Xíngzhèngqū Xíngzhèng Shǒuzhǎng_, Từ Hán – Việt: _Tỉnh cấp hành chính khu Hành chính Thủ trưởng_) là vị trí cán bộ, công
**Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam** là chính phủ thứ hai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1946 trên cơ sở cải tổ
**Chính phủ Quốc vương Bệ hạ** (/HMG) thường được gọi là **Chính phủ Vương quốc Liên hiệp Anh**, là chính phủ trung ương của Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland. Lãnh đạo
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Liêu Ninh** được bầu cử bởi Đại hội Đại biểu nhân dân tỉnh Liêu Ninh, lãnh đạo bởi thành viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cán bộ,
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Sơn Đông** (tiếng Trung: 山东省人民政府省长, bính âm: _Shān Dōng_ _shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Sơn Đông tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu cử bởi Đại
phải|nhỏ| Huy hiệu của chính phủ lâm thời Kentucky, cho thấy một cánh tay đang nắm giữ ngôi sao thứ 13 của Liên minh miền Nam. Khẩu _Voce Populari_ là "bởi tiếng nói của nhân
**Chính phủ Liên hiệp Quốc dân** được thành lập ngày 3 tháng 11 năm 1946 tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, nhằm thay thế cho Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Chính
**Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** được thành lập vào ngày 28 tháng 8 năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám (danh sách đăng trên các báo ngày
**Phó Thủ tướng Chính phủ** là một chức vụ trong Chính phủ Việt Nam, được quy định ngay từ Hiến pháp 1946. Kể từ năm 1981, theo Hiến pháp 1980, chức vụ này được gọi
**Chính phủ lâm thời**, cũng gọi là **Chính phủ tạm thời** hoặc **Chính phủ chuyển tiếp**, là một cơ quan chính phủ khẩn cấp được thành lập để quản lý quá trình chuyển đổi chính
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Quý Châu** (Tiếng Trung Quốc: 贵州省人民政府省长, Bính âm Hán ngữ: _Guì Zhōu shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Quý Châu tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Nội Mông Cổ** (Tiếng Trung Quốc: **内蒙古自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Nèi Méng Gǔ Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Nội Mông Cổ tự trị Khu Nhân dân
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng** (Tiếng Trung Quốc: **西藏自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Xī Zàng Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, Từ Hán - Việt: _Tây Tạng tự trị Khu Nhân
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thượng Hải** (Tiếng Trung Quốc: **上海市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Shàng Hǎi shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Thượng Hải thị Nhân dân Chính
Chính phủ hiện đại ở Việt Nam xuất hiện vào khoảng tháng 4 năm 1945 với sự thành lập của cơ quan Nội các nhà Nguyễn gồm các Bộ trưởng. Tuy nhiên, một Chính phủ
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Hà Nam** (Tiếng Trung Quốc: 河南省人民政府省长, Bính âm Hán ngữ: _Hé Nán shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Hà Nam tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Quảng Đông** (Tiếng Trung Quốc: 广东省人民政府省长, Bính âm Hán ngữ: _Guǎng Dōng shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Quảng Đông tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ** (Tiếng Trung Quốc: **宁夏回族自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Níng Xià Huízú Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Ninh Hạ Hồi tộc tự trị
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Cát Lâm** được bầu cử bởi Đại hội Đại biểu nhân dân tỉnh Cát Lâm, lãnh đạo bởi thành viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cán bộ,
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Sơn Tây** (Tiếng Trung Quốc: **山西省人民政府省长**, Bính âm Hán ngữ: _Shān Xī xǐng Rénmín Zhèngfǔ Shěng zhǎng,_ Từ Hán - Việt: _Sơn Tây tỉnh Nhân dân Chính phủ
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh An Huy** (tiếng Trung: 安徽省人民政府省长, bính âm: _Ān Huī xǐng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _An Huy_ _tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) gọi tắt là **Tỉnh trưởng
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Giang Tô** (tiếng Trung: 江苏省人民政府省长, bính âm: Jiāng Sū xǐng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng, _Giang Tô tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu cử bởi Đại
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Tứ Xuyên** (Tiếng Trung Quốc: 四川省人民政府省长, Bính âm Hán ngữ: _Sì Chuān shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Tứ Xuyên tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Hồ Nam** (tiếng Trung: 湖南省人民政府省长, bính âm: _Hú Nán shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Hồ Nam tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu cử bởi Đại
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Thiểm Tây** (Tiếng Trung Quốc: 陕西省人民政府省长, Bính âm Hán ngữ: _Shǎn Xī shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Thiểm Tây tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu
**Phủ Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc** là cơ quan giúp việc cho Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, Phó tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, đảm trách các công việc hành chính sự vụ
**Chính phủ Hoàng gia Liên minh các Dân tộc Campuchia** (, **GRUNK**; ) là một chính phủ lưu vong của Campuchia, có trụ sở tại Bắc Kinh, tồn tại từ năm 1970 đến năm 1976,
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương** (Tiếng Trung Quốc: **新疆维吾尔自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Xīn Jiāng Wéiwú'ěr Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Tân Cương Duy Ngô Nhĩ tự
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Phúc Kiến** (tiếng Trung: 福建省人民政府省长, bính âm: _Fú Jiàn_ _xǐng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Phúc Kiến tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu cử bởi Đại
**Chính phủ lâm thời Trung Hoa Dân quốc** là chính phủ lâm thời của Trung Quốc được bảo hộ bởi Nhật Bản đã tồn tại giữa 1937 đến 1940 trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Hải Nam** (Tiếng Trung Quốc: 海南省人民政府省长, Bính âm Hán ngữ: _Hǎi Nán shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Hải Nam tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu
**Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (thường được gọi tắt là **Thủ tướng**, **Thủ tướng Chính phủ**) là người đứng đầu Chính phủ của nước Cộng hòa xã
**Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân quốc** (, giản xưng **Chính phủ Quốc dân** ) hay còn được gọi là **Đệ nhị Trung Hoa Dân quốc** và **Đệ nhị Cộng hòa Trung Hoa** là
**Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ** hay còn được gọi **Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ** là người đứng đầu Văn phòng Chính phủ. Đồng thời là thành viên của Chính phủ Việt
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Hắc Long Giang** (tiếng Trung: 黑龙江省人民政府省长, bính âm: _Hēilóngjiāng xǐng Rénmín Zhèngfǔ Shěng zhǎng_), gọi tắt là **Tỉnh trưởng Hắc Long Giang**, là chức vụ lãnh đạo hành
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Cam Túc** (tiếng Trung: 甘肃省人民政府省长, bính âm: _Gān Sù shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Cam Túc tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu cử bởi Đại
**Chính phủ Hàn Quốc** là chính quyền trung ương của nhà nước Đại Hàn Dân Quốc. Cũng giống như ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, cơ quan này được chia làm 3 nhánh
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây** (Tiếng Trung Quốc: 广西壮族自治区人民政府主席, Bính âm Hán ngữ: _Guǎng Xī Zhuàngzú Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Quảng Tây Choang tộc tự trị
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Trùng Khánh** (Tiếng Trung Quốc: **重庆市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Chóng Qìng shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Trùng Khánh thị Nhân dân Chính