✨Quân Bắc Dương

Quân Bắc Dương

[[Tân quân (nhà Thanh)|Tân quân Bắc Dương đang huấn luyện]] Quân Bắc Dương (Tiếng Trung: 北洋軍; Bính âm: Běiyáng-jūn) là lực lượng quân sự kiểu phương Tây do triều đình nhà Thanh thành lập vào cuối thế kỉ 19. Đây là lực lượng cốt lõi trong chương trình cải tổ quân đội của nhà Thanh. Quân Bắc Dương đã đóng một vai trò quan trọng trong nền chính trị Trung Quốc suốt khoảng 3 thập kỉ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Nó tạo điều kiện cho cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 thành công và tạo ra tình trạng cát cứ ở Trung Quốc bởi các quân phiệt Bắc Dương.

Hình thành

Chế độ Bát Kỳ là một thành tố quan trọng giúp nhà Thanh chiếm được Trung Nguyên và cai trị Trung Quốc trong hơn 200 năm. Tuy nhiên, vào thời Thanh mạt, sự suy thoái và lỗi thời của chế độ quân sự Bát Kỳ Lục Doanh dẫn đến những thể hiện kém trước những đội quân địa phương được tổ chức tốt hơn theo kiểu phương Tây như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, Sở quân của Tả Tông Đường, Hoài quân của Lý Hồng Chương và đạo quân đánh thuê nước ngoài Thường Thắng quân trong cuộc chiến với Thái Bình Thiên Quốc.

Trong số các đội quân địa phương đó, Hoài quân dưới quyền Lý Hồng Chương được xem là có thực lực nhất. Lý đã dùng hầu hết các khoản thuế thu được, gồm cả thuế hải quan, của các tỉnh mà Lý làm Tổng đốc, để dùng vào việc huấn luyện và trang bị hiện đại cho Hoài quân.

Trước tình hình đó, triều đình nhà Thanh đã quyết định cải tổ quân đội, tổ chức thêm một đội quân kiểu mới, được huấn luyện theo kiểu phương Tây gọi là Tân quân (Lục quân) và Hạm đội (Hải quân). Tháng 5 năm 1875, Lý Hồng Chương được bổ nhiệm làm Bắc Dương Đại thần kiêm Bắc Dương Thủy sư, phụ trách việc hiện đại hóa lực lượng Tân quân và Hải quân các tỉnh ven biển phía Bắc Trung Quốc. Ban đầu, thuật ngữ "Bắc Dương quân" bắt đầu được dùng để chỉ các đội quân chính quy (cả Lục quân lẫn Hải quân) do Lý xây dựng.

Sau thảm bại của Bắc Dương quân trong Chiến tranh Giáp Ngọ, nhà Thanh đã cho thành lập 10 doanh Định Vũ quân tại Thiên Tân, huấn luyện hoàn toàn theo phương pháp của Tây phương. Định Vũ quân được phân chia thành Bộ binh 3.000 người, Pháo binh 1.000 người, Kỵ binh 250 người, Công binh 500 người; tổng cộng 4.700 binh sĩ. Một võ quan Hoài quân là Viên Thế Khải được bổ nhiệm làm chỉ huy Định Vũ quân. Viên cải xưng Định Vũ quân thành Tân kiến lục quân. Tân kiến lục quân phỏng theo tổ chức quân đội của Nhật Bản, được huấn luyện bởi các sĩ quan Đức và trang bị vũ khí của Đức. Cùng lúc đấy, tại Lưỡng Giang, Trương Chi Động cũng thành lập một đội Tân quân với tên gọi Tự Cường quân, cũng được huấn luyện và trang bị theo phương pháp Tây phương, phân thành bộ binh, kỵ binh, pháo binh, công binh, tổng cộng 13 doanh.

Ngày 8 tháng 12 năm 1895, để thưởng công đã tiết lộ âm mưu chính biến của phe Duy tân, Thái hậu Từ Hi đã bổ nhiệm Viên Thế Khải làm Bắc Dương Đại thần. Tự Cường quân cũng được hợp nhất vào Tân kiến lục quân. Từ đó, thuật ngữ "Bắc Dương quân" bắt đầu được dùng để chỉ các đội quân chính quy do Viên Thế Khải và võ quan xuất thân từ Hoài quân hoặc tốt nghiệp từ Bắc Dương võ bị học đường, chỉ huy. Đội quân này trở thành nòng cốt của Tân quân và phát triển nhanh chóng lên hơn 2 vạn binh sĩ. Bên cạnh đó, Viên cũng cho thành lập trường huấn luyện sĩ quan tại Thiên Tân, đào tạo các chỉ huy tương lai cho Tân quân.

Tháng 2 năm 1905, Viên Thế Khải tấu thỉnh Thanh triều thống nhất toàn quốc lực lượng Tân quân, đề xuất biên chế lục quân thường trực thống nhất theo mô hình của Tân quân Bắc Dương do ông ta chỉ huy. Năm 1907, nhà Thanh thành lập Bộ Lục quân, dự kiến biên chế các đội quân thường trực trên toàn quốc thành 36 trấn. Tuy nhiên, đề án đó không bao giờ có thể thực hiện do sự sụp đổ của nhà Thanh vào năm 1911.

Tổ chức

Bộ chỉ huy ban đầu của Tân quân Bắc Dương, bấy giờ mang tên Tân kiến lục quân, gồm:

  • Tổng biện Tham mưu doanh vụ xứ (Tham mưu trưởng): Từ Thế Xương :* Tham mưu doanh vụ xứ kiêm Giám đốc Binh quan học đường (Tham mưu phó kiêm Hiệu trưởng trường Sĩ quan): Giang Triều Tông
  • Tổng biện Đốc thao doanh vụ xứ kiêm Giám đốc Bộ binh học đường (Trưởng ban Huấn luyện kiêm Hiệu trưởng trường Bộ binh): Phùng Quốc Chương : Đề điệu Đốc thao doanh vụ xứ (Phó ban Huấn luyện): Đoàn Chi Quý : Chỉ huy Bộ đội Đệ nhất doanh (Tiểu đoàn 1 Bộ binh): Khương Quế Đề  : Chỉ huy Bộ đội Đệ nhị doanh (Tiểu đoàn 2 Bộ binh): Ngô Trường Thuần : Chỉ huy Bộ đội Đệ tam doanh (Tiểu đoàn 3 Bộ binh): Lôi Chấn Xuân :* Chỉ huy Mã đội Đệ nhất doanh (Tiểu đoàn 1 Kỵ binh): Ngô Phượng Lĩnh
  • Thống đái Pháo binh doanh (Trưởng ban Pháo binh) kiêm Giám đốc Pháo binh học đường: Đoàn Kỳ Thụy :* Chỉ huy Pháo đội Đệ nhất doanh (Tiểu đoàn 1 Pháo binh): [[Trương Hoài Chi
  • Chỉ huy Công trình doanh kiêm Tổng giáo tập Giảng võ đường: Vương Sĩ Trân
  • Chỉ huy Công trình doanh kiêm Hành doanh trung quân (Trưởng ban Tác chiến): Trương Huân
  • Chỉ huy Học binh doanh (Tiểu đoàn Học viên) kiêm Đề điệu Đốc thao doanh vụ xứ: Tào Côn

Ngoài ra còn có các sĩ quan Vương Anh Giai, Trương Vĩnh Thành, Triệu Quốc Hiền, Hà Tông Liên, Lý Thuần, Trần Quang Viễn, Lý Hậu Cơ, Vương Chiêm Nguyên, Lô Vĩnh Tường, Vương Nhữ Hiền, Dương Thiện Đức, Điền Trung Ngọc, Bào Quý Khanh, Lục Kiến Chương, Điền Trung Ngọc, Chung Lân Đồng, Mã Long Tiêu, Mạnh Ân Viễn...

Năm 1905, lực lượng Tân quân Bắc Dương phát triển, được tổ chức thành 6 trấn, mỗi trấn được tổ chức theo mô hình sư đoàn của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, với đủ bộ binh, kỵ binh, pháo binh, công binh, gồm 20 doanh, tổng số xấp xỉ 1 vạn quân.

Chỉ huy các trấn (tương đương Sư đoàn trưởng) theo thứ tự quản nhậm, nhiều người sau này nổi tiếng trong thập niên 1920.

  • Đệ nhất trấn Thống chế: Phụng Sơn, Hà Tông Liên
  • Đệ nhị trấn Thống chế: Vương Anh Giai, Trương Hoài Chi
  • Đệ tam trấn Thống chế: Đoàn Ký Thụy, Tào Côn
  • Đệ tứ trấn Thống chế: Ngô Phượng Lĩnh
  • Đệ ngũ trấn Thống chế: Ngô Trường Thuần, Trương Vĩnh Thành 
  • Đệ lục trấn Thống chế: Vương Sĩ Trân, Triệu Quốc Hiền, Đoàn Kỳ Thụy

Hệ thống quân hàm

thumb|Viên Thế Khải trong quân phục Bắc Dương quân Hệ thống quân hàm ban đầu của Tân quân Bắc Dương do Viên Thế Khải tham chiếu hệ thống đẳng cấp của Bát Kỳ, mô phỏng hệ thống quân hàm Quân đội Phổ, xây dựng thành nền tảng quân hàm hiện đại của Tân quân nhà Thanh. Một hệ thống cấp hiệu cũng được thiết kế, pha trộn ảnh hưởng của hệ thống cấp hiệu của Phổ bấy giờ.

Hệ thống cấp bậc sĩ quan gồm 3 bậc gồm Đô thống (cấp Tướng), Tham lĩnh (cấp Tá), Quân hiệu (cấp Úy). Mỗi bậc lại phân thành 3 cấp Chánh (Đại), Phó (Trung), Hiệp (Thiếu). Hạ sĩ quan phân 3 cấp: Thượng sĩ, Trung sĩ, Hạ sĩ. Binh sĩ cũng phân 3 cấp: Thượng đẳng binh, Nhất đẳng binh, Nhị đẳng binh.

Tháng 8 năm 1912, chính phủ Bắc Dương của Viên Thế Khải cải tổ và thống nhất hệ thống quân hàm trên toàn quốc, cơ bản dựa trên hệ thống quân hàm của Bắc Dương quân nhưng có loại trừ những tàn tích của chế độ Bát kỳ Lục doanh. Tuy vẫn giữ 3 bậc 9 cấp, nhưng danh xưng thay đổi thành 3 bậc thành Tướng, Hiệu, Úy; và 3 cấp trở thành Thượng, Trung, Thiếu. Bên cạnh đó, cấp bậc Chuẩn úy cũng được đặt ra. Hệ thống cấp bậc này trở thành nền tảng cho hệ thống quân hàm của Trung Hoa Dân Quốc về sau này, kể cả sau khi chính phủ Bắc Dương sụp đổ.

Phân liệt

Cách mạng Tân Hợi năm 1911 đã dẫn đến hàng loạt cuộc nổi dậy trên khắp miền nam Trung Quốc. Những binh sĩ từng trung thành với nhà Thanh bắt đầu đào ngũ sang lực lượng cách mạng. Phiến quân đã thiết lập một chính quyền địa phương tại Nam Kinh năm 1912 do Tôn Dật Tiên đứng đầu. Phe cách mạng không đủ mạnh để đánh bại quân Bắc Dương và nếu tiếp tục chiến đấu sẽ gần như chắc chắn dẫn đến thất bại. Thay vào đó, Tôn thỏa thuận với Viên Thế Khải của quân Bắc Dương cùng lật đổ nhà Thanh và tái thống nhất Trung Quốc. Đổi lại, Viên sẽ trở thành tổng thống. Viên từ chối chuyển đến Nam Kinh và đã chọn Bắc Kinh, nơi quyền lực của ông được bảo đảm, làm thủ đô.

Phản đối việc Viên Thế Khải ngày càng độc đoán, các tỉnh miền nam đã dấy loạn năm 1913 nhưng bị quân Bắc Dương đàn áp mạnh tay. Các quan chức dân sự bị thay thế bởi các sĩ quan quân đội. Tháng 12 năm 1915, Viên thực hiện mục đích từ lâu của mình là trở thành Hoàng đế Trung Hoa. Các tỉnh phương nam lại nổi dậy một lần nữa và lần này nghiêm trọng nhất do hầu hết các tướng lĩnh Bắc Dương đã bỏ rơi Viên. Viên đã từ bỏ ngôi vị để thu phục lại tùy tướng của mình nhưng trước khi ông qua đời tháng 6 năm 1916, chính trị Trung Quốc lại lục đục. Chia rẽ Bắc-Nam còn tiếp diễn trong suốt thời kỳ quân phiệt.

Bắc phạt thống nhất

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
[[Tân quân (nhà Thanh)|Tân quân Bắc Dương đang huấn luyện]] **Quân Bắc Dương** (Tiếng Trung: _北洋軍_; Bính âm: _Běiyáng-jūn_) là lực lượng quân sự kiểu phương Tây do triều đình nhà Thanh thành lập vào
Cờ của thủy quân Bắc Dương. **Hạm đội Bắc Dương** () là một trong bốn hạm đội hiện đại của hải quân Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh. Hạm đội này nhận được sự
**Chính phủ Bắc Kinh Trung Hoa Dân Quốc** là chỉ chính phủ trung ương đặt thủ đô tại Bắc Kinh trong thời kỳ đầu kiến quốc Trung Hoa Dân Quốc, do nhân sĩ Bắc Dương
nhỏ|300x300px| Tân quân Bắc Dương đang huấn luyện **Quân phiệt Bắc Dương** là lực lượng quân phiệt lớn nhất và có thế lực nhất thời sơ kỳ Trung Hoa Dân Quốc. Quân phiệt Bắc Dương
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
nhỏ|200x200px|Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 2 [[Yakov Ivanovich Alksnis|Yakov Alksnis.]] **_Tư lệnh Tập đoàn quân 2_** () là một cấp bậc quân sự trong Lực lượng vũ trang Liên Xô trong giai đoạn 1935
nhỏ|276x276px|[[Iona Emmanuilovich Yakir trong quân phục với cấp hiệu Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 1 trên cổ áo.]] **_Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 1_** () là một cấp bậc quân sự cao cấp
**Chính ủy Tập đoàn quân bậc 1** () là cấp bậc quân sự cao nhất của sĩ quan chính trị trong Hồng quân và Hải quân Liên Xô. Được thành lập vào ngày 22 tháng
**Chính ủy Tập đoàn quân bậc 2** ( là một cấp bậc quân sự cao cấp của các sĩ quan chính trị trong Hồng quân và Hải quân Liên Xô. Cấp bậc này chỉ xếp
**Bắc khu** () là quận cực bắc trong tổng số 18 quận của Hồng Kông. Quận nằm ở cực bắc của Tân Giới. Khu đô thị mới Phấn Lĩnh-Thượng Thủy nằm tại quận này. Năm
**Cục quản lý Đường sắt Đài Loan** (, ) viết tắt **TRA** () là một nhà điều hành đường sắt ở Đài Loan. Đây là một cơ quan của Bộ Giao thông và Truyền thông
**Bắc phạt** () là một chiến dịch quân sự phát động bởi Quốc dân Cách mệnh Quân thuộc Trung Quốc Quốc Dân Đảng chống lại Chính phủ Bắc Dương và các quân phiệt địa phương
**Thời đại quân phiệt** là một giai đoạn trong lịch sử Trung Hoa Dân quốc khi quyền kiểm soát đất nước bị phân chia giữa các bè cánh quân sự cũ thuộc Quân đội Bắc
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
nhỏ|Các binh sĩ Trung Quốc vào khoảng 1899-1901. Trái: hai lính Tân quân. Trước: một chỉ huy Lục doanh quân. Ngồi trên thân cây: pháo thủ. Phải: Binh sĩ Nghĩa hòa đoàn.|348x348px **Tân quân **(phồn
Hệ thống quân hàm Quân đội Trung Hoa Dân Quốc là hệ thống cấp bậc quân sự của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc hiện nay. Lực lượng Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc được
nhỏ|250x250px|Lãnh thổ các nhóm quân phiệt chính tại Trung Quốc năm 1925 Thời kỳ quân phiệt tại Trung Quốc được xem là bắt đầu từ năm 1916, sau cái chết của Viên Thế Khải, và
**Quốc dân Cách mệnh Quân** (chữ Hán: _國民革命軍_), đôi khi gọi tắt là **Cách mệnh Quân** (_革命軍_) hay **Quốc Quân **(_國軍_), là lực lượng quân sự của Trung Quốc Quốc dân Đảng từ năm 1925
**Hứa Quân** (chữ Hán: 許均, ? – 1007), người phủ Khai Phong , tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Tống Thái Tổ Cha Hứa Quân là Hứa Mạc,
**Bắc Đường, Vô Tích**
Diện tích31,5 km²
Dân số35 vạn (cuối năm 2001)
Cấp hành chínhThị hạt khu
Mã bưu chính214044
Mã vùng điện thoại0510
**Bắc
**Ga Phú Diễn** là một trong những nhà ga tàu điện của Tuyến số 3: Nhổn – Ga Hà Nội, nằm trên đường Cầu Diễn, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. ##
nhỏ|Vị trí tại Đài Nam **Quận Bắc** (, Hán Việt: _Bắc khu_) là một khu (quận) của thành phố Đài Nam, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Quận có địa hình bằng phẳng và nằm
**Bác Dương Ly Hầu** (_chữ Hán_:博阳釐侯) có thể là những nhân vật lịch sử trùng cả tước hiệu và thụy hiệu sau: ## Danh sách * Tây Hán Bác Dương Ly Hầu Bính Tịnh: vị
THUỐC NHUỘM PHỦ BAC & DƯỠNG TÓC L'Oréal EXCELLENCE CREME Made in Germany LÊN MÀU SỐNG ĐỘNG, Cực kỳ ăn bạc ❤❤❤ GIÁ: 250K Dt: 038.688.1552 để được tư vấn Địa chỉ: 41/10 Trần nhật
THUỐC NHUỘM PHỦ BAC & DƯỠNG TÓC L'Oréal EXCELLENCE CREME Made in Germany LÊN MÀU SỐNG ĐỘNG, Cực kỳ ăn bạc ❤❤❤ GIÁ: 250K Dt: 038.688.1552 để được tư vấn Địa chỉ: 41/10 Trần nhật
THUỐC NHUỘM PHỦ BAC & DƯỠNG TÓC L'Oréal EXCELLENCE CREME Made in Germany LÊN MÀU SỐNG ĐỘNG, Cực kỳ ăn bạc ❤❤❤ GIÁ: 250K Dt: 038.688.1552 để được tư vấn Địa chỉ: 41/10 Trần nhật
THUỐC NHUỘM PHỦ BAC & DƯỠNG TÓC L'Oréal EXCELLENCE CREME Made in Germany LÊN MÀU SỐNG ĐỘNG, Cực kỳ ăn bạc ❤❤❤ GIÁ: 250K Dt: 038.688.1552 để được tư vấn Địa chỉ: 41/10 Trần nhật
THUỐC NHUỘM PHỦ BAC & DƯỠNG TÓC L'Oréal EXCELLENCE CREME Made in Germany LÊN MÀU SỐNG ĐỘNG, Cực kỳ ăn bạc ❤❤❤ GIÁ: 250K Dt: 038.688.1552 để được tư vấn Địa chỉ: 41/10 Trần nhật
THUỐC NHUỘM PHỦ BAC & DƯỠNG TÓC L'Oréal EXCELLENCE CREME Made in Germany LÊN MÀU SỐNG ĐỘNG, Cực kỳ ăn bạc ❤❤❤ GIÁ: 250K Dt: 038.688.1552 để được tư vấn Địa chỉ: 41/10 Trần nhật
THUỐC NHUỘM PHỦ BAC & DƯỠNG TÓC L'Oréal EXCELLENCE CREME Made in Germany LÊN MÀU SỐNG ĐỘNG, Cực kỳ ăn bạc ❤❤❤ GIÁ: 250K Dt: 038.688.1552 để được tư vấn Địa chỉ: 41/10 Trần nhật
thumb|250x250px|Các binh sĩ Võ Vệ hữu quân thuộc quyền [[Viên Thế Khải đang hộ tống Thái hậu Từ Hy hồi cung năm 1902]] **Võ Vệ quân** () là lực lượng quân sự hiện đại đầu
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Hồ Bắc** (, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền trung của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
**Ngụy Bác quân tiết độ sứ** hay **Thiên Hùng quân tiết độ sứ** (763 - 915), là một phiên trấn tồn tại dưới thời trung và hậu kì nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc,
**Đường Trường Sơn** hay **đường mòn Hồ Chí Minh** () là một tuyến Hậu cần chiến lược bao gồm mạng lưới giao thông quân sự, chạy từ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam vào tới
**Hải Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2021, Hải Dương là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 8 về số dân với 1.936.774 người, tốc
**Bắc Ninh** là một tỉnh ở Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Quân hàm** là hệ thống cấp bậc trong một quân đội. Ở một số quốc gia, hệ thống cấp bậc này còn được áp dụng trong ngành cảnh sát hoặc một số tổ chức dân
**Chu Vũ Đế** (chữ Hán: 周武帝; 543 - 21 tháng 6, 578) là Hoàng đế thứ ba của nhà Bắc Chu thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
**Quần đảo Bắc Mariana**, tên chính thức là **Thịnh vượng chung Quần đảo Bắc Mariana** (_Commonwealth of the Northern Mariana Islands_), là một lãnh thổ chưa hợp nhất và thịnh vượng chung của Hoa Kỳ
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Chu** (tiếng Trung: 北周) là một triều đại tiếp theo nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, có chủ quyền đối với miền Bắc Trung Quốc từ năm 557 tới năm
**Chiến dịch Tây Nguyên** hay **Chiến dịch Bắc Tây Nguyên** là một chiến dịch tiến công của các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Logo của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam ** Đường sắt Việt Nam** là một trong những ngành công nghiệp lâu đời của Việt Nam. Ngành Đường sắt Việt Nam ra đời năm 1881