✨Hạm đội Bắc Dương

Hạm đội Bắc Dương

Cờ của thủy quân Bắc Dương.

Hạm đội Bắc Dương () là một trong bốn hạm đội hiện đại của hải quân Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh. Hạm đội này nhận được sự hậu thuẫn rất lớn từ Lý Hồng Chương, Tổng đốc Trực Lệ. Hạm đội Bắc Dương sớm thống trị Đông Á trước cuộc Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất. Hạm đội Bắc Dương vào cuối những năm 1880 được coi là mạnh nhất châu Á và mạnh thứ 8 trên thế giới. Đồng thời, Hạm Đội Bắc Dương còn được đánh giá là có vị thế và sức mạnh ngang bằng với các Hạm Đội hùng mạnh của các Cường Quốc Châu Âu đang có mặt tại Viễn Đông, được mệnh danh là " con sư tử của vùng biển Châu Á ".

Thành lập

Hạm đội Bắc Dương của triều Mãn Thanh được thành lập năm 1861. Đến năm 1871, 4 chiếc thuyền từ các tỉnh phía Nam được tăng cường lên phía Bắc, góp phần làm lớn mạnh đoàn thủy quân này.

Mặc dù Hạm đội Bắc Dương được trang bị tốt nhất song tệ tham nhũng của một triều đại phong kiến đã làm xói mòn sức mạnh của nó. Kết quả là, hạm đội Bắc Dương không có nổi một chủ lực hạm nào sau khi nó được thành lập vào năm 1861, cho đến khi có sự thay đổi từ đại thần nhà Thanh là Lý Hồng Chương.

Lý Hồng Chương đã phân bổ phần lớn quỹ hải quân cho Hạm đội Bắc Dương. Không giống các hạm đội khác, Hạm đội Bắc Dương được Lý Hồng Chương thí điểm xây dựng với chủ yếu là các thiết giáp hạm nhập khẩu từ Đức và Anh. Đặc biệt, năm 1881, Lý Hồng Chương đã đặt mua 2 thiết giáp hạm khổng lồ của Đức và đặt tên là “Định Viễn” và “Trấn Viễn”. Hai tàu này có lượng giãn nước hơn 7.300 tấn, lớn hơn rất nhiều so với các chiến hạm lớn nhất của Nhật thời đó. Ngoài ra, Lý Hồng Chương cũng đề xuất với vua Mãn Thanh để mua rất nhiều chiến hạm hàng nghìn tấn khác, biến hạm đội Bắc Dương thành lực lượng hải quân “lớn thứ 8 trên thế giới” và được xem là “mạnh nhất châu Á”.

Việc mua sắm vũ khí dừng lại vào năm 1891, khi ngân sách được chuyển sang xây dựng Di Hòa Viên ở Bắc Kinh theo yêu cầu của Từ Hy Thái Hậu, nhân vật đang thao túng triều đình. Hậu cần cho Hạm đội Bắc Dương cũng gặp khó khăn lớn do việc xây dựng tuyến đường sắt Mãn Châu đã bị đình lại. Sĩ khí của hải quân Mãn Thanh nói chung rất thấp vì thiếu lương thực và tiền lương so với các lực lượng khác như bộ binh, kỵ binh.

Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất

Để lấy lại uy danh của “thiên triều”, Trung Quốc cũng đã thị uy, có nhiều hành động thách thức Nhật Bản và quyền lợi của Nhật Bản trên bán đảo Triều Tiên. Mâu thuẫn của Trung Quốc và Nhật Bản lên đến đỉnh điểm vào tháng 6/1894, khi quân Mãn Thanh tràn vào Triều Tiên và Nhật Bản cũng đã đưa quân vào đất nước này để can thiệp để tranh giành quyền lợi. Tuy nhiên, quân Mãn Thanh nhanh chóng thất bại và bị tiêu diệt. Sau đó, trên đà thắng lợi, Nhật Bản đã có toan tính mở rộng chiến tranh sang cả lãnh thổ Trung Quốc, trước hết là bằng đường biển.

Đầu tiên, tại trận Phong Đảo diễn ra vào ngày 25/7/1894 trong vịnh Asan của Triều Tiên, 2 tàu của Hạm đội Bắc Dương là Tế Viễn và tàu phóng lôi Quảng Ất đã bị pháo kích bởi 3 tuần dương hạm Nhật Bản là Akitsushima, Naniwa và Yoshino. Cùng lúc đó, tàu Thao Giang và tàu vận tải Cao Thăng thuộc Hạm đội Bắc Dương chở 1.200 lính Trung Quốc và hàng tiếp tế không may xuất hiện đúng vào trận đánh. Kết quả, tàu Tế Viễn chạy trốn, tàu phóng lôi Quảng Ất, tàu vận tải Cao Thăng bị bắn chìm, tàu Thao Giang bị bắt giữ. Thương vong của Trung Quốc ước tính khoảng 1.100 quân nhưng quân Nhật không mất người nào.

Sau chiến thắng này, Nhật Bản thành lập một hạm đội mạnh với 12 tàu chiến các loại, gồm kỳ hạm là tàu tuần dương Matsushima được áp tải bởi 2 chiến hạm cỡ nhỏ Sei-kyo và pháo hạm Akagi đi phía sau; các tuần dương hạm Chiyoda, Hashidate, Itsukushima, Fuso, Hiei đi giữa; hải đội xung kích có tốc độ cao bao gồm tuần dương hạm Yoshino, Akitsushima, Takachiho và Naniwa đi đầu. Hạm đội Nhật Bản được lệnh nhanh chóng tiến vào biển Hoàng Hải, đánh chiếm các pháo đài, bến cảng, tạo điều kiện để lục quân di chuyển sâu vào nội địa Trung Quốc.

Lý Hồng Chương, Tổng đốc trực lệ của Hạm đội Bắc Dương tức tốc truyền lệnh cho đề đốc Đinh Nhữ Xương dưới quyền điều động mười chiến thuyền các loại gồm Định Viễn, Trấn Viễn, Lai Viễn, Tĩnh Viễn, Trí Viễn, Dương Uy, Siêu Dũng, Bình Viễn, Quang Giáp, Tế Viễn vả hai chiếc thủy lôi đĩnh đến chi viện. Đinh Nhữ Xương đã chia hạm đội theo thế trận “nhạn bay hai cánh đơn hành” với 2 hải đội. Trong đó, hải đội thứ nhất tập trung chủ yếu những tàu xương sống của hạm đội Bắc Dương, gồm 2 thiết giáp hạm Định Viễn và Trấn Viễn nằm ở trung tâm đội hình chiến đấu.

Tuy nhiên, hạm đội Nhật Bản đã tiến nhanh vào cửa sông Áp Lục giáp biển Hoàng Hải vào ngày 17/9/1894. Đội hình hạm đội Nhật Bản như một chữ U lớn, hướng về phía Hạm đội Bắc Dương. Nhờ áp dụng đội hình dòng phía sau, nên các thiết giáp hạm Định Viễn và Trấn Viễn của hạm đội Bắc Dương rất khó bắn trúng các tàu chiến Nhật Bản, vì có những tàu nhỏ hơn chắn giữa họ với đối phương. Trong khi đó, từ cánh phải, hải đội xung kích của Nhật Bản đã bắt đầu khai hỏa, bắn các tàu chiến nhỏ hơn của địch thủ. Mục tiêu đầu tiên là 2 tuần dương hạm loại nhỏ Dương Uy và Siêu Dũng của Hạm đội Bắc Dương. Cả hai chiếc đều bốc cháy dữ dội ngay sau loạt đạn đầu. Bị lâm vào mê hồn trận, chiến thuyền Trung Quốc chẳng bao lâu đã bị chia năm xẻ bảy, đầu đuôi không cứu nhau được.

Trận chiến kéo dài suốt cả ngày 17/9/1894, và kết thúc với phần thắng thuộc về người Nhật Bản. Hạm đội Bắc Dương bị bắn chìm 5 tàu, làm hỏng 3 tàu, 850 thủy thủ thiệt mạng, 500 người bị thương, những chiến sống sót đã bỏ chạy về phía căn cứ hải quân Uy Hải Vệ. Trong khi đó, hạm đội Nhật Bản chỉ bị hỏng 4 tàu, 190 thủy thủ thiệt mạng, 200 người bị thương.

Về phía Nhật Bản, sau chiến thắng ở Hoàng Hải, Minh Trị thiên hoàng đã hạ lệnh cho Đại tướng lục quân là Sơn Hữu Minh chia quân tiến đánh Lữ Thuận và cửa Uy Hải của Trung Quốc để bao vây và tiêu diệt tàn quân của Hạm đội Bắc Dương. Lúc này, Hạm đội Bắc Dương vẫn còn có 15 tàu chiến tại căn cứ hải quân Uy Hải Vệ (có cả thiết giáp hạm Đinh Viễn và Trấn Viễn) và 13 tàu phóng lôi.

Khi đoàn hải quân lục chiến đổ bộ lên bờ biển Trung Quốc, binh sĩ Nhật ào ạt xông vào công phá các pháo đài. Chiếm được các pháo đài, đoàn quân Nhật Bản quay họng súng lại nã trái pháo vào hạm đội Trung Quốc. Hạm đội Nhật Bản gồm 25 tàu chiến và 16 tàu phóng lôi, với lợi thế áp đảo cũng tấn công Hạm đội Bắc Dương. Lực lượng tàu phóng lôi của Nhật Bản đã đánh chìm kỳ hạm Định Viễn cùng 3 tàu lớn khác của Hạm đội Bắc Dương. 13 tàu phóng lôi cố chạy đến Yên Đài thì 6 chiếc bị tiêu diệt và 7 chiếc bị bắt giữ. Thế là, sau 23 ngày (20/1 – 12/2/1895), toàn bộ hạm đội Bắc Dương của Trung Quốc, được mệnh danh là lực lượng hải quân “lớn thứ 8 trên thế giới”, được xem là “mạnh nhất châu Á” đã “tan tành như xác pháo” trước hạm đội Nhật Bản.

Ngày 12/2/1895, Đô đốc Đinh Nhữ Xương và các tàu còn lại thuộc Hạm đội Bắc Dương đã đầu hàng hải quân Nhật Bản. Thiết giáp hạm Trấn Viễn còn sống sót bị Nhật Bản thu về sử dụng. Hạm đội Bắc Dương sau đó tuy được phục hồi nhưng đã không lấy lại được vị thế như trước đây.

Hạm đội

[[Dingyuan, kỳ hạm của Hạm đội Bắc Dương]][http://www.beiyang.org/junqi.htm] [[Zhenyuan]] Thiết giáp hạm Dingyuan "定遠" (Định Viễn) (Kỳ hạm) Zhenyuan "鎮遠" (Trấn Viễn)

Tuần dương hạm Jingyuan "經遠" (Kinh Viễn) Laiyuan "來遠" (Lai Viễn) Zhiyuan "致遠" (Chí Viễn) Jingyuan "靖遠" (Tĩnh Viễn) Chiyuan "濟遠" (Tế Viễn) Pingyuan "平遠" (Bình Viễn) Chaoyong "超勇" (Siêu Dũng) Yangwei "揚威" (Dương Uy) Guangjia "廣甲" (Quảng Giáp) Guangyi "廣乙" (Quảng Ất) *Guangping "廣丙" (Quảng Bính)

Pháo hạm Zhenpang "鎮邊" (Trấn Biên) Zhenzhong "鎮中" (Trấn Trung) Zhendong "鎮東" (Trấn Đông) Zhenxi "鎮西" (Trấn Tây) Zhennan "鎮南" (Trấn Nam) Zhenbei "鎮北" (Trấn Bắc)

Tàu phóng lôi Tả đội nhất hiệu "左隊一號" Tả đội nhị hiệu "左隊二號" Tả đội tam hiệu "左隊三號" Hữu đội nhất hiệu "右隊一號" Hữu đội nhị hiệu "右隊二號" Tả đội tam hiệu "右隊三號" Fulong "福龍" (Phúc Long) "捷順" (Tiệp Thuận) "定遠一號" (Định Viễn nhất hiệu) "定遠二號" (Định Viễn nhị hiệu) "鎮遠一號" (Trấn Viễn nhất hiệu) "鎮遠二號" (Trấn Viễn nhị hiệu)

Tàu huấn luyện Kangji "康濟" (Khang Tế) Weiyuan "威遠" (Uy Viễn) "敏捷" (Mẫn Tiệp)

Tàu hỗ trợ "泰安" (Thái An) Zhenhai "鎮海" (Trấn Hải) Caojiang "操江" (Thao Giang) "湄云" (My Vân)

Tàu vận tải *Liyun "利運" (Lợi Vận)

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Cờ của thủy quân Bắc Dương. **Hạm đội Bắc Dương** () là một trong bốn hạm đội hiện đại của hải quân Trung Quốc vào cuối thời nhà Thanh. Hạm đội này nhận được sự
**Hạm đội Bắc Hải** là một trong ba hạm đội của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Thẩm quyền của hạm đội là khu vực Bột Hải và Hoàng Hải từ tỉnh
**Danh sách hạm đội**. ## Hạm đội Canada *Hạm đội Đại Tây Dương (HQ Halifax, Nova Scotia) *Hạm đội Thái Bình Dương (HQ Esquimalt, British Columbia) ## Hạm đội Trung Quốc *Hạm đội Bắc Dương
**Hạm đội Biển Đen** () là một đơn vị thuộc Hải quân Nga hoạt động ở Biển Đen và Địa Trung Hải kể từ thế kỷ 18. Hạm đội này đóng ở nhiều bến cảng
nhỏ|290x290px| Cấp hiệu tay áo của Chỉ huy Hạm đội bậc 2 **Chỉ huy Hạm đội bậc 2** () là cấp bậc quân sự cao cấp của Lực lượng Hải quân Hồng quân công nông
nhỏ|290x290px| Cấp hiệu tay áo của Chỉ huy Hạm đội bậc 1 **Chỉ huy Hạm đội bậc 1** () là cấp bậc quân quân sự cao cấp nhất của Hải quân Hồng quân công nông
**Hải quân Chiến khu miền Nam Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** là một hạm đội của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập lần đầu cuối năm 1949. Kỳ hạm của
**Hạm đội Phương Bắc, Huân chương Cờ đỏ và Ushakov** (tiếng Nga: _Северный флот_, chuyển tự: _Severny flot_) là một đơn vị của Hải quân Liên bang Nga hoạt động tại các vùng biển Barrel
**Hạm đội 2 Hoa Kỳ/Đệ nhị Hạm đội Hoa Kỳ** là một trong 7 hạm đội mang số của Hải quân Hoa Kỳ. Vùng trách nhiệm của Đệ nhị Hạm đội bao gồm khoảng 38
**Hạm đội 3 Hoa Kỳ/Đệ tam Hạm đội Hoa Kỳ** là một trong 5 hạm đội mang số của Hải quân Hoa Kỳ. Vùng trách nhiệm của Hạm đội 3 gồm 50 triệu dặm vuông
Còn được gọi là **Kidō Butai** ("Lực lượng cơ động"), là tên được sử dụng cho một hạm đội tàu sân bay chiến đấu kết hợp bao gồm hầu hết các tàu sân bay và
**Hạm đội 7 hay Đệ thất Hạm đội** (tiếng Anh: United States Seventh Fleet) là một Hạm đội trực thuộc Hải quân Hoa Kỳ đặt căn cứ tại Yokosuka, Nhật Bản và dưới quyền chỉ
phải|Bản đồ hành trình của Hạm đội Great White. **Hạm đội Great White** (tiếng Anh: _Great White Fleet_) là biệt danh phổ biến để chỉ một hạm đội tác chiến của Hải quân Hoa Kỳ
nhỏ|phải **Hạm đội 5 Hoa Kỳ/Đệ ngũ Hạm đội Hoa Kỳ** có trách nhiệm với các Lực lượng Hải quân trong Vịnh Ba Tư, Hồng Hải, Biển Ả Rập và ngoài khơi Đông Phi xa
**Hạm đội Thái Bình Dương** (tiếng Nga: Тихоокеанский флот, Chuyển sang ký tự Latinh: _Tikhookeanskiy flot_, tên là Hạm đội Thái Bình Dương Banner đỏ, _Краснознамённый Тихоокеанский флот_ trong thời Xô Viết) là một phần
**Hạm đội Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Grande y Felicísima Armada_, "Hải quân vĩ đại và may mắn nhất") là hạm đội Tây Ban Nha đã giong buồm khởi hành từ bán đảo
**Đô đốc hạm đội** (, __) là cấp bậc hải quân cao nhất của Hải quân Liên Xô từ 1940 đến 1955 và cao thứ hai từ 1962 đến 1991. ## Lịch sử Lịch sử
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
là một lớp tàu tuần dương bảo vệ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, với ba tàu được đặt tên theo ba điểm danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất tại Nhật Bản (nên
**Lớp thiết giáp hạm _Fuji**_ (tiếng Nhật: 富士型戦艦 - Shikishima-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được thiết kế và chế tạo
**Trương Quang Bắc** (tiếng Trung: 张光北; phiên âm: _Zhang Guang Bei_; sinh ngày 11 tháng 6 năm 1959) là một diễn viên, nhà sản xuất và nhân vật truyền hình người Trung Quốc. Ông được
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
nhỏ|phải|Quân đội Liên bang Nga đang diễu hành nhân ngày Chiến thắng nhỏ|phải|Quân đội nhân dân Việt Nam đang diễu hành đại lễ **Quân đội** là một tập đoàn người có tổ chức gồm những
**Đô đốc hạm đội** (), còn gọi là **Thủy sư đô đốc** (), trong nhiều trường hợp là cấp bậc tướng lĩnh hải quân cao cấp nhất trong lực lượng hải quân của một số
**Hải đội 5** (tiếng Nga: пятая эскадра, phiên âm. _Pyataya eskadra_, tên chính thức là **Đội hình tác chiến của Hải quân Nga trên Biển Địa Trung Hải** ) là một hải đội của Hải
**Lớp thiết giáp hạm** **_Duilio_** (thường được gọi đầy đủ là **_Caio Duilio_** theo tài liệu của Ý, hoặc **lớp thiết giáp hạm** **_Andrea Doria_** trong các tài liệu tiếng Anh) là một lớp thiết
: _Bài viết này nói về cấp bậc đô đốc 4 sao của Hải quân Nga, đừng nhầm lẫn với cấp bậc Đô đốc Hải quân Liên bang Xô viết, tương đương cấp bậc OF-10
nhỏ|320x320px|[[Arthur Herbert, Bá tước thứ nhất của Torrington, người khởi xướng thuật ngữ "hạm đội hiện hữu" năm 1690.]] Trong hải chiến, một "**hạm đội hiện hữu**" là một lực lượng hải quân thể hiện
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước đó. _Maya_ đã hoạt
**_Nürnberg_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đức thuộc lớp _Leipzig_ vốn còn bao gồm tàu tuần dương _Leipzig_. Được đặt tên theo thành phố Nuremberg, nó đã hoạt động trong
[[Tân quân (nhà Thanh)|Tân quân Bắc Dương đang huấn luyện]] **Quân Bắc Dương** (Tiếng Trung: _北洋軍_; Bính âm: _Běiyáng-jūn_) là lực lượng quân sự kiểu phương Tây do triều đình nhà Thanh thành lập vào
**Căn cứ Hải quân Khương Các Trang** () còn gọi là **Căn cứ tàu ngầm số 1 Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** () là căn cứ hải quân của Hạm đội
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**Trận chiến cuối cùng của thiết giáp hạm _Bismarck**_ diễn ra vào ngày 26-27 tháng 5 năm 1941 tại vùng biển Đại Tây Dương, cách khu vực Brest của Pháp khoảng về phía tây, giữa
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
thumb|right|Mô hình tàu của đội thám hiểm Trịnh Hòa, [[bảo tàng khoa học Hồng Kông.]] **Trịnh Hòa hạ Tây Dương** là bảy chuyến thám hiểm hàng hải của hạm đội kho báu cho nhà Minh
**Đại chiến Bắc Âu** là tên các sử gia gọi cuộc chiến từ năm 1700 đến năm 1721 giữa Thụy Điển với liên minh của Nga, Đan Mạch, Sachsen (Đức) và Ba Lan; từ năm
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập