✨North Carolina (lớp thiết giáp hạm)

North Carolina (lớp thiết giáp hạm)

Lớp thiết giáp hạm _North Carolina_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, North CarolinaWashington, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập niên 1940. Thoạt tiên, Hải quân Hoa Kỳ vẫn ngờ vực rằng lớp tàu này có đủ nhanh để đối phó với lớp tàu chiến-tuần dương Kongō của Nhật Bản không, vốn được người Mỹ tin rằng có thể đạt đến tốc độ , hay phải hy sinh tốc độ để có được hỏa lực và vỏ giáp tăng cường. Hiệp ước Hải quân London lần thứ hai giới hạn tải trọng tiêu chuẩn của mọi tàu chiến chủ lực dưới , có nghĩa là các tính năng mong muốn không thể đạt được trong các phạm vi giới hạn của hiệp định, và Hải quân Mỹ đã phải cân nhắc đến trên 50 thiết kế trước khi một kiểu được chọn.

Vào lúc kết thúc quá trình thiết kế dài đằng đẵng này, Ủy ban Tướng lĩnh Hải quân Hoa Kỳ tuyên bố ủng hộ thiết kế "XVI-C", vốn có tốc độ tối đa và dàn pháo chính gồm chín khẩu /50 caliber Mark B. Ủy ban tin rằng những con tàu như vậy có thể đảm nhiệm nhiều vai trò khác nhau, vừa có được sự bảo vệ thích đáng để có mặt trong hàng thiết giáp hạm cũng như có đủ tốc độ để hộ tống các tàu sân bay nhanh hay tham gia chiến tranh cướp tàu buôn. Tuy nhiên, Quyền Bộ trưởng Hải quân khi đó đã phê chuẩn phiên bản cải tiến của một thiết kế khác, "XVI", kiểu mà phiên bản nguyên thủy đã bị Ủy ban Tướng lĩnh loại bỏ. Thiết kế này có tốc độ với mười hai khẩu pháo trên những tháp súng bốn nòng và được bảo vệ chống lại đạn pháo có cùng cỡ nòng như vậy. Tách khỏi truyền thống về thực hành thiết kế tàu chiến Mỹ, "XVI" chấp nhận tốc độ chậm hơn và bảo vệ kém hơn để đổi lấy hỏa lực tối đa. Sau khi việc chế tạo đã bắt đầu, Hoa Kỳ bắt đầu lo ngại việc Nhật Bản không tuân thủ giới hạn cỡ nòng pháo của Hiệp ước Hải quân London thứ hai, nên đã viện dẫn "điều khoản leo thang" của hiệp ước để nâng cấp dàn pháo chính thành chín khẩu /45 caliber Mark 6 thay thế cho mười hai khẩu 14 inch (356 mm) như trong thiết kế ban đầu.

Cả North Carolina lẫn Washington đều được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Thế giới thứ hai trong nhiều vai trò khác nhau, chủ yếu là tại Mặt trận Thái Bình Dương, nơi chúng hộ tống các lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh và bắn pháo bờ biển. North Carolina đã bắn rơi 7-14 máy bay Nhật trong Trận chiến Đông Solomon và sau đó chịu đựng một quả ngư lôi bắn trúng từ một tàu ngầm Nhật. Trong một cuộc đụng độ ban đêm mãnh liệt trong khuôn khổ trận Hải chiến Guadalcanal, dàn pháo chính được radar dẫn hướng của Washington đã làm hỏng nặng thiết giáp hạm Nhật Kirishima, và nó bị đánh đắm vào ngày hôm sau. Vào tháng 2 năm 1943, Washington bị hỏng nặng mũi tàu do va chạm với thiết giáp hạm Indiana. Sau khi được sửa chữa, Washington hợp cùng con tàu chị em tham gia Trận chiến biển Philippines. Sau khi chiến tranh kết thúc, cả hai chiếc đều tham gia Chiến dịch Magic Carpet để hồi hương binh lính Mỹ đang phục vụ tại nước ngoài. Cả hai chiếc trong lớp đều bị bỏ không trong thành phần hạm đội dự bị cho đến đầu thập niên 1960, khi North Carolina được bán cho tiểu bang nhà như một tàu bảo tàng và Washington được bán để tháo dỡ.

Bối cảnh

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, hải quân nhiều nước trên thế giới vẫn tiếp tục hoặc phát triển thêm các chương trình chế tạo tàu chiến vốn đã bắt đầu trước khi xảy ra cuộc xung đột. Chương trình phát triển hải quân 1916 của Hoa Kỳ đã đặt hàng sáu tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Lexington và năm thiết giáp hạm lớp South Dakota; và đến tháng 12 năm 1918, Chính phủ của Tổng thống Woodrow Wilson đề nghị bổ sung thêm mười thiết giáp hạm và sáu tàu chiến-tuần dương vào số lượng này. Đề nghị 1919-1920 của Ủy ban Tướng lĩnh dự định sở hữu một số lượng ít hơn, nhưng vẫn lớn đáng kể, cho sự phát triển sau kế hoạch năm 1916: hai thiết giáp hạm cùng một tàu chiến-tuần dương cho tài khóa 1921; và ba thiết giáp hạm, một tàu chiến-tuần dương, bốn tàu sân bay và 30 tàu khu trục cho các tài khóa từ năm 1922 đến năm 1924. Anh Quốc cũng đang trong những thủ tục cuối cùng để đặt hàng tám tàu chiến thuộc các lớp tàu chiến-tuần dương G3 với lườn tàu đầu tiên được đặt vào năm 1921, và lớp thiết giáp hạm N3 sẽ được đặt lườn vào năm 1922. Đế quốc Nhật Bản, cho đến năm 1920, dự định xây dựng một Hạm đội 8-8 với các lớp Nagato, Tosa, Amagi, KiiSố 13. Hai chiếc trong số các thiết kế trên sẽ được đặt lườn mỗi năm cho đến năm 1928.

Với chi phí khổng lồ liên quan đến những chương trình này, nhiều áp lực đòi hỏi phải bắt đầu các cuộc hội nghị giải trừ quân bị. Vào ngày 8 tháng 7 năm 1921, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Charles Evans Hughes đã thực hiện như vậy khi ông mời đại biểu của các cường quốc hải quân: Pháp, Ý, Nhật và Anh cùng gặp gỡ tại Washington, D.C. để thảo luận với hy vọng chấm dứt được cuộc chạy đua vũ trang hải quân. Hội nghị Hải quân Washington tiếp theo sau đó đã đưa đến kết quả của Hiệp ước Hải quân Washington. Cùng với các thỏa thuận khác, Hiệp ước này giới hạn trọng lượng choán nước của mọi thiết giáp hạm trong tương lai ở mức và cỡ nòng pháo tối đa là . Năm cường quốc này cũng thỏa thuận không đóng mới tàu chiến chủ lực trong vòng mười năm tiếp theo, và chỉ đóng mới thay thế những chiếc cũ được phép giữ lại khi chúng có tuổi phục vụ ít nhất là hai mươi năm.

Hiệp ước Hải quân London thứ hai, trong khi thay thế những thỏa thuận vào năm 1922, vẫn giữ lại hầu hết các giới hạn tương tự, ngoại trừ giới hạn cỡ nòng pháo tối đa trên tàu chiến mới là . Các hiệp ước này đã có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thiết kế lớp North Carolina, một chặng đường thử thách dài nhằm tìm cách tích hợp mọi thứ được xem là cần thiết trong khi vẫn giữ trọng lượng choán nước ở dưới mức giới hạn 35.000 tấn.

Thiết kế

"A" đến "M"

Ủy ban Tướng lĩnh bắt đầu chuẩn bị cho một lớp thiết giáp hạm mới vào tháng 5–tháng 7 năm 1935. Ba nghiên cứu thiết kế được đưa ra trình bày: "A" sẽ có trọng lượng choán nước , trang bị chín pháo trên ba tháp pháo ba nòng, tất cả đều được bố trí trước cầu tàu, có tốc độ tối đa và vỏ giáp có thể chịu được đạn pháo . "B" và "C" sẽ có trọng lượng choán nước trên , có thể đạt tốc độ tối đa và vỏ giáp chịu đựng đạn pháo 14 inch; khác biệt chính giữa hai thiết kế này là dàn pháo chính của thiết kế "B" có mười hai khẩu trên các tháp pháo ba nòng, trong khi thiết kế "C" có tám khẩu /45 caliber trên các tháp pháo nòng đôi. "A" là thiết kế duy nhất nằm trong giới hạn của Hiệp ước Hải quân Washington vốn được tái xác nhận trong Hiệp ước Hải quân London thứ hai. Khi Văn phòng Đạn dược giới thiệu kiểu đạn pháo mới 16 inch (406 mm) "siêu nặng", các kiểu trên được tái thiết kế thành "A1", "B1" và "C1" nhằm tìm cách bảo vệ chống lại loại đạn pháo mới, nhưng điều này lại ảnh hưởng nặng nề cho trọng lượng choán nước: "A1" chỉ còn cách bên dưới mức giới hạn 35.000 tấn, trong khi hai kiểu kia lên đến gần .

Cho dù những nghiên cứu ban đầu này đều là những thiết giáp hạm nhanh, Ủy ban Tướng lĩnh chưa dứt khoát theo xu hướng tốc độ tối đa lớn hơn. Họ đặt ra những câu hỏi dành cho Học viện Chiến tranh Hải quân, muốn biết quan điểm về lớp tàu mới sẽ là một chiếc "thông thường" tốc độ với dàn pháo chính gồm tám-chín khẩu pháo 406 mm (16 inch), hay là một trong các kiểu "A", "B" hoặc "C"?

Năm nghiên cứu thiết kế khác được thực hiện vào cuối tháng 9 mang tên từ "D" đến "H"; chúng có đặc tính tốc độ tối đa từ đến , mang tám hoặc chín pháo hay , và một trọng lượng choán nước tiêu chuẩn từ đến . "D" và "E" là những dự định về một thiết giáp hạm nhanh mang pháo 406 mm (16 inch) và được bảo vệ chống cỡ pháo tương đương, nhưng trọng lượng rẽ nước của chúng lớn hơn mức mà Hiệp ước Hải quân Washington cho phép. "F" là một nỗ lực căn bản về một kiểu thiết giáp hạm lai tàu sân bay, với ba máy phóng trước mũi và tám khẩu phía đuôi tàu. Người ta cho rằng kiểu này đã được Tổng thống Franklin Delano Roosevelt ưa chuộng, nhưng vì tính năng của thủy phi cơ phóng lên từ máy phóng kém hơn đa số máy bay từ tàu sân bay hay từ đất liền do sức cản của các phao nổi mang theo, nó đã không được tiếp tục phát triển. "G" và "H" là những con tàu chậm hơn chỉ đạt và chín khẩu ; đặc biệt kiểu "H" được cho là một thiết kế khá cân bằng được phát triển bởi bộ phận Thiết kế Sơ thảo của Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa. Tuy nhiên, giờ đây Ủy ban Tướng lĩnh ưa chuộng "những con tàu nhanh, đa mục đích", mà "G" và "H" không đáp ứng được. nhỏ|trái|Thiết giáp hạm North Carolina nhìn từ trên không, ngày [[17 tháng 4 năm 1942|alt=A large battleship steams through choppy seas. Three floatplanes are located on the stern.]] Những nghiên cứu này đã trình bày sự khó khăn mà các nhà thiết kế phải đối mặt. Trong phạm vi trọng lượng choán nước 35.000 tấn, có hai lựa chọn căn bản: một con tàu tương tự như "A1" vốn nhanh hơn (30 knot) nhưng trang bị hỏa lực và vỏ giáp nhẹ hơn so với thiết giáp hạm đương thời; hoặc một chiếc chậm hơn nhưng được trang bị pháo lớn hơn, cho dù trang bị vỏ giáp bảo vệ chống lại đạn pháo là cực kỳ khó. Bộ phận Thiết kế Sơ thảo tiếp tục thêm năm nghiên cứu khác vào tháng 10: "J", "J1", "K", "L" và "M", tất cả đều dựa trên kiểu "A" với vỏ giáp tăng cường thêm hoặc một phiên bản kiểu "B" thu nhỏ lại; đều sử dụng pháo và đạt được tốc độ từ đến . Hai kiểu đầu tiên có bốn tháp pháo, nhưng người ta có cảm giác rằng sắp xếp như vậy quá nặng và đòi hỏi một lượng vỏ giáp không thể chấp nhận được. "K" là sự phát triển từ "A1" như được nêu ở trên, có đai giáp chính dày và vỏ giáp sàn tàu , có được vùng miễn nhiễm trong phạm vi từ đến chống đỡ lại loại đạn pháo "siêu nặng" 356 mm (14 inch). Trong khi kiểu "K" được nội bộ Hải quân ưa chuộng, trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn 35.000 tấn như thiết kế dành quá ít chỗ cho những sai số hay mọi thay đổi hoặc cải tiến cho thiết kế trong tương lai. Cả kiểu "L" và "M" đều sử dụng tháp pháo bốn nòng để tiết kiệm trọng lượng tương tự như thiết giáp hạm Pháp Dunkerque trong khi vẫn mang 12 khẩu pháo; điểm khác biệt duy nhất là "M" tiết kiệm được bằng cách có một tháp pháo phía sau thay vì cả ba tháp pháo đều hướng ra trước. Thay đổi về thiết kế này khiến lớp vỏ giáp sàn tàu tăng lên thay vì chỉ trên kiểu "L". Việc cắt giảm nhiều phần trên vỏ giáp được chấp nhận để đảm bảo thiết kế ở bên dưới giới hạn cho phép của Hiệp ước; nhưng ngay cả như vậy, cả hai thiết kế đều xấp xỉ giới hạn, và kiểu "L" bị vượt hơn giới hạn .

Nhiều sĩ quan thuộc Hải quân Hoa Kỳ ủng hộ việc đóng ba hoặc bốn chiếc kiểu tàu chiến-tuần dương để hộ tống các tàu sân bay và đối phó với lớp tàu chiến-tuần dương Kongō của Nhật Bản. Trong số này có Quyền Bộ trưởng Hải quân và Trưởng phòng tác chiến Hải quân Đô đốc William Standley, Chủ tịch Học viện Chiến tranh Hải quân William S. Pye, một nhóm nhỏ các sĩ quan cao cấp tại các hạm đội, và năm hay sáu sĩ quan chịu trách nhiệm về kế hoạch chiến lược của Phòng Kế hoạch Chiến tranh, mặc dù có ít nhất một sĩ quan tin rằng một cuộc không kích vẫn có khả năng đánh chìm được những chiếc Kongo. Với tất cả các khuyến cáo trên, Ủy ban Tướng lĩnh chọn kiểu "K" để tiếp tục phát triển.

Có ít nhất 35 thiết kế khác nhau được đề nghị, tất cả đều được đánh số La mã, trong đó năm thiết kế đầu tiên từ "I" đến "V", những biến thể dựa trên "K", được hoàn tất vào ngày 15 tháng 11 năm 1935. Chúng là những kiểu đầu tiên áp dụng tiết kiệm trọng lượng "trên giấy": không tính đến một số thành phần trong giới hạn 35.000 tấn vốn không được quy định cụ thể trong định nghĩa về trọng lượng choán nước tiêu chuẩn. Trong trường hợp này, mặc dù được thiết kế chỗ chứa cho 100 quả đạn pháo cho mỗi khẩu pháo chính và thêm 100 quả đạn dự trữ, trọng lượng của chính các quả đạn không được tính vào giới hạn bắt buộc của hiệp ước.

"I" đến "XVI-D"

nhỏ|phải|North Carolina bắn một loạt đạn từ ba khẩu pháo của tháp pháo số 1|alt=Six large guns in two turrets are aimed directly forward; the far trio are elevated extremely high and have a large amount of smoke emanating from them Thiết kế "I" đến "XVI-D" khác nhau đáng kể về mọi khía cạnh ngoại trừ trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn và tốc độ. Thiết kế "II" có trọng lượng choán nước , mọi thiết kế khác đều là 35.000 tấn, và chỉ có năm thiết kế dự định một tốc độ tối đa thấp hơn ; trong đó, chỉ có một thiết kế thấp hơn : thiết kế "VII", với tốc độ . Thiết kế "VII" quay trở lại một tốc độ chậm hơn để có được sự bảo vệ và hỏa lực mạnh hơn, với mười hai khẩu pháo trên các tháp pháo ba nòng; và như vậy thiết kế này chỉ đòi hỏi một công suất động cơ và một chiều dài chỉ có . Đa số các thiết kế khác đề nghị một chiều dài hoặc , cho dù có sáu thiết kế có chiều dài thay đổi giữa và . Tám thiết kế đầu tiên ("I"–"IV-C") mang chín khẩu pháo , nhưng cũng có nhiều phương án kết hợp khác được đề xuất, bao gồm cấu hình tám khẩu 14 inch trên hai tháp pháo bốn nòng, thiết kế "V" thậm chí có hai tháp pháo bốn nòng 406 mm (16 inch), hoặc tám khẩu 356 mm (14 inch) trên bốn tháp pháo nòng đôi trên thiết kế "VIA" và "VIB", và mười, mười một và mười hai khẩu pháo 356 mm (14 inch). Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa lưu ý với sự bực bội rằng họ được yêu cầu thiết kế một con tàu tương đương với chiếc tàu chiến-tuần dương HMS Hood của Anh Quốc nhưng với một trọng lượng rẽ nước thấp hơn 5.000 tấn. Đây là kết quả của việc một số giới hạn an toàn thông thường bị hạ thấp hay loại bỏ hẳn, cùng với các vấn đề khác.

Phiên bản "XVI" vào ngày 20 tháng 8 năm 1936 là một con tàu dài đạt được tốc độ , mà Văn phòng Đạn dược đã chỉ ra nhiều vấn đề nghiêm trọng. Các thử nghiệm trên mô hình cho thấy ở tốc độ cao, các cơn sóng phát sinh từ thiết kế của lườn tàu khiến cho nhiều phần thấp của con tàu bị thấm nước bao gồm cả hầm đạn. Vấn đề càng thêm phức tạp khi Văn phòng này khám phá ra những quả đạn pháo bắn trúng thấp hay bên dưới mực nước có thể gây ra vấn đề lớn khi tác chiến ở khoảng cách từ đến . Những vấn đề khác bao gồm một mối lo ngại về sự bảo vệ chống lại bom ném từ máy bay có thể không thích đáng, vì theo cách nhìn của Văn phòng, công thức dùng để tính toán hiệu quả của chúng là không thực tiễn, và một vách ngăn phía trước được vuốt thon nhọn bên dưới mực nước là một ý tưởng kém do những vấn đề đạn bắn trúng bên dưới mực nước; do đó một mũi tàu hầu như không bọc giáp có thể dễ dàng bị xuyên thủng. Giải pháp cho những vấn đề này hoàn toàn không khả thi; bổ sung thêm các tấm đắp vỏ giáp chung quanh hầm đạn có thể làm vô hiệu hóa hiệu quả của hệ thống phòng thủ chống ngư lôi, còn mở rộng đai giáp sâu hơn gần mũi và đuôi tàu sẽ khiến nó vượt quá giới hạn 35.000 tấn. Ủy ban Tướng lĩnh không ưa thích thiết kế này, cho đó "không phải... là một thiết giáp hạm thực sự" do những vấn đề về tốc độ và vỏ giáp.

Để khắc phục những vấn đề này, một bộ các thiết kế sau cùng, từ "XVI-B" đến "XVI-D", được Bộ phận Thiết kế Sơ thảo đưa ra vào tháng 10 năm 1936. Chúng là những cải biến dựa trên thiết kế "XVI" về một con tàu dài , mang mười hai khẩu pháo trên ba tháp pháo bốn nòng, một đai giáp nghiêng 10 độ dày , và một sàn tàu dày . Trong bộ thiết kế sau cùng, chiều dài con tàu được xác định ở để có tốc độ nhanh hơn, nhưng chỉ có thể trang bị mười một khẩu pháo 14 inch cùng một đai giáp dày . Thay vào đó, một khẩu pháo có thể đánh đổi lấy đai giáp dày , và một chiếc khác có thể hy sinh để có tốc độ cùng tăng thêm một-phần-mười inch cho đai giáp; thiết kế này trở thành kiểu "XVI-C". Ủy ban Tướng lĩnh rất ưa chuộng thiết kế "XVI-C" này, xem nó có đủ sự bảo vệ để chiến đấu và sống sót trong một hàng chiến trận hình thành cùng với các thiết giáp hạm cũ hơn, trong khi vẫn có đủ tốc độ để hoạt động khi được tách ra độc lập, ví dụ như hộ tống tàu sân bay hay dẫn đầu đội tàu tuần dương cướp tàu buôn.

Tuy nhiên, một thành viên của Ủy ban, Đô đốc Joseph Reeves, người từng là một trong các nhà phát triển chủ chốt cho chiến lược tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, không thích "XVI-C" vì ông tin rằng nó không đủ nhanh để hoạt động cùng với các tàu sân bay có tốc độ , và không đủ mạnh mẽ để biện minh cho chi phí. Thay vào đó, ông tán thành một phiên bản phát triển từ thiết kế "XVI" đã bị từ chối trước đó, bổ sung thêm sự bảo vệ dưới nước và các tấm thép vỏ giáp bên trong lườn tàu để làm cho các hầm đạn có thể miễn nhiễm với đạn pháo bắn đến bên trên và bên dưới mực nước từ khoảng cách hay xa hơn. Giới hạn ngoài của vùng miễn nhiễm được tăng từ lên . Sau các thay đổi khác, Reeves tiếp xúc với Đô đốc William Standley, Trưởng phòng Tác chiến Hải quân, người đã chấp thuận thiết kế "XVI" dưới dạng được cải biến mới nhất ngoài sự hy vọng của Ủy ban Tướng lĩnh, vốn vẫn giữ quan điểm nên chế tạo theo thiết kế "XVI-C". Bổ sung duy nhất của Standley vào các đặc tính là chuyển từ tháp pháo 14-inch bốn nòng sang tháp pháo ba nòng nếu như có thể viện dẫn đến "Điều khoản Leo thang" trong Hiệp ước Hải quân London thứ hai.

"Điều khoản Leo thang"

Mặc dù Hiệp ước Hải quân London thứ hai đã quy định rằng cỡ pháo 14 inch là vũ khí lớn nhất có thể trang bị cho mọi tàu chiến, nó lại bao gồm một điều khoản, vốn còn được gọi là "Điều khoản Leo thang", do sự thúc đẩy của các nhà thương thuyết Hoa Kỳ, trong trường hợp mọi nước từng tham gia ký kết Hiệp ước Hải quân Washington từ chối không tham gia vào giới hạn mới. Điều khoản này cho phép những nước tham gia Hiệp ước Hải quân London thứ hai: Anh, Pháp và Hoa Kỳ, có thể nâng giới hạn về cỡ pháo từ 14 inch lên 16 inch nếu Nhật Bản hay Ý vẫn từ chối tham gia sau ngày 1 tháng 4 năm 1937. Khi đề ra những cấu hình khả thi cho lớp North Carolina, các nhà thiết kế đã tập trung chủ yếu kế hoạch của họ theo hướng vũ khí 14 inch. Yêu cầu của Standley có nghĩa là phải có khả năng để chuyển đổi kiểu vũ khí từ 14 lên 16 inch, ngay cả khi lườn tàu đã được đặt. Nhật Bản đã chính thức từ bỏ giới hạn 14 inch vào ngày 27 tháng 3 năm 1937, có nghĩa là có thể viện dẫn đến "Điều khoản Leo thang". Dù sao, vẫn còn nhiều rào cản phải vượt qua: Roosevelt phải chịu đựng những áp lực chính trị mạnh mẽ, và kết quả là rất miễn cưỡng trong việc cho phép sử dụng cỡ pháo 16 inch.

Trong một nỗ lực vô vọng cuối cùng, Bộ trưởng Ngoại giao trong Nội các của Roosevelt là Cordell Hull gửi một bức điện vào ngày 4 tháng 6 đến Đại sứ Hoa Kỳ tại Nhật Bản Joseph Grew, chỉ thị cho ông ta thông báo là Hoa Kỳ sẽ vẫn chấp nhận một giới hạn pháo 14 inch nếu phía Nhật Bản hành động tương tự. Người Nhật đã trả lời rằng họ không thể chấp nhận điều đó trừ khi số lượng thiết giáp hạm cũng được giới hạn; họ muốn Hoa Kỳ và Anh Quốc đồng ý có số lượng thiết giáp hạm ngang bằng với Nhật Bản, nhưng đây là một điều kiện mà hai nước này không thể đồng ý. Vào ngày 24 tháng 6, hai chiếc thiết giáp hạm lớp North Carolina được đặt hàng với vũ khí 14 inch, nhưng đến ngày 10 tháng 7, Tổng thống Roosevelt chỉ thị rằng chúng sẽ được trang bị tháp pháo 16 inch ba nòng thay thế.

Đặc tính

phải|nhỏ|Sơ đồ cắt của một tháp pháo 406 mm (16 inch) trên lớp North Carolina|alt=The turret held three guns; below the gun deck were the turret floor, the machinery floor, and two levels of magazines for the shells and propellant charges. Two centrally located ammunition hoists carried the ordnance from the magazines to the gun deck.

Vũ khí

Dàn hỏa lực trên hai chiếc lớp North Carolina chủ yếu dựa trên chín khẩu pháo /45 caliber Mark 6 và hai mươi khẩu /38 caliber Mark 12 đa dụng. Số vũ khí nhẹ hơn của chúng bao gồm một số lượng thay đổi pháo 28 mm (1,1 inch)/75 caliber, súng máy M2 Browning 0,50 caliber cùng pháo phòng không Bofors 40 mm và Oerlikon 20 mm.

Dàn pháo chính

Được trang bị cho cả hai chiếc của lớp North Carolina cũng như cho lớp South Dakota tiếp theo, chín khẩu pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber là một phiên bản cải tiến của những khẩu pháo được trang bị cho lớp Colorado, và được đặt tên là "Mark 6". Một thay đổi lớn so với các khẩu pháo cũ là khả năng của phiên bản Mark 6 có thể bắn kiểu đạn pháo xuyên thép mới được phát triển bởi Văn phòng Đạn dược. Khi được bắn bằng một liều thuốc phóng đầy đủ trên khẩu pháo mới nguyên, quả đạn pháo đạt được lưu tốc đầu đạn 2.300 ft/s (701 m/s); và với liều thuốc phóng tiết giảm, cùng quả đạn pháo đó được bắn ở tốc độ 1.800 ft/s (549 m/s). Tuổi thọ của nòng pháo, là số lượng xấp xỉ đạn pháo mà một khẩu pháo có thể bắn trước khi cần phải xẻ rảnh lại hoặc thay thế, là 395 quả đạn pháo xuyên thép, cho dù nếu chỉ sử dụng trong thực hành con số này cao hơn đáng kể: 2.860 phát. Với khả năng xoay ở vận tốc 4 độ mỗi giây, mỗi tháp pháo có thể xoay tối đa một góc 150 độ cả hai bên mạn tàu. Các khẩu pháo có thể nâng lên một góc tối đa 45 độ; chỉ có tháp pháo số 1 và số 3 có thể hạ thấp một góc −2 độ, nhưng do vị trí bắn thượng tầng, các khẩu pháo của tháp pháo số 2 chỉ có thể hạ thấp đến 0 độ.

Mỗi khẩu pháo có chiều dài chung ; trong đó nòng pháo có chiều dài và đoạn nòng có xẻ rãnh dài . Tầm bắn xa tối đa đối với đạn pháo xuyên thép hạng nặng sẽ đạt được ở góc nâng 45 độ là . Ở cùng góc nâng này, một quả đạn pháo công suất cao (HC: high capacity) nặng sẽ đi được . Khẩu pháo có trọng lượng không tính đến khóa nòng; toàn bộ tháp pháo nặng hơn .

Các khẩu pháo 5 inch/38 caliber hoạt động như những pháo đa dụng; đó là có thể bắn cả mục tiêu tàu nổi lẫn mục tiêu trên không với mức độ thành công thỏa đáng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nó có đặc tính phòng không yếu kém. Như được chứng tỏ trong cuộc thử nghiệm tác xạ vào năm 1941 thực hiện trên thiết giáp hạm North Carolina, kiểu pháo này có khả năng nhất quán trong việc bắn rơi máy bay ở độ cao , gấp đôi so với tầm bắn hiệu quả của kiểu pháo phòng không /25 caliber đơn dụng trước đây.

Trên cả hai con tàu, hai khẩu đội pháo 28 mm (1,1 inch) bốn nòng được bổ sung vào vị trí hai đèn pha giữa tàu. Sau khi trúng phải ngư lôi vào năm 1942, North Carolina tháo dỡ chúng và bổ sung mười khẩu đội 40 mm bốn nòng. Mười bốn khẩu đội như vậy hiện diện vào tháng 6 năm 1943, rồi một khẩu đội thứ mười lăm được bố trí bên trên tháp pháo chính số ba vào tháng 11 năm đó. Washington giữ lại sáu khẩu đội 28 mm (1,1 inch) bốn nòng cho đến giữa năm 1943, khi thay thế chúng bằng mười khẩu đội 40 mm bốn nòng, rồi đến tháng 8 nó có tổng cộng mười lăm khẩu đội. Cả hai con tàu giữ lại cấu hình này cho đến hết chiến tranh.

Điện tử

nhỏ|phải|upright|Tháp ăng-ten phía trước của Washington, như được thấy vào ngày [[18 tháng 8 năm 1942 tại Xưởng hải quân New York; lưu ý bộ radar SG dò tìm mặt đất đặt trên đỉnh cột ăng-ten|alt=The tower is dominated by a large radar set; two long arms protrude from the side of the tower.]] được thiết kế trước thời đại của radar, cả North Carolina lẫn Washington thoạt tiên đều được trang bị nhiều hệ thống kiểm soát hỏa lực và máy đo tầm xa quang học hoa tiêu dẫn đường. Hệ thống kiểm soát hỏa lực tồn tại cho đến năm 1944, khi được thay thế bằng radar sóng ngắn Mark 27, cho dù nó được bổ sung bởi một bộ radar kiểm soát hỏa lực dàn pháo chính Mark 3. Máy đo tầm xa quang học được tháo dỡ dành chỗ cho các khẩu đội 20 mm vào một lúc nào đó từ cuối năm 1941 đến giữa năm 1942. Ngoài ra, các con tàu đi vào hoạt động với hai bộ kiểm soát hỏa lực Mark 38, một bộ radar CXAM dò tìm không trung, hai bộ Mark 3 và ba bộ Mark 4 dành cho dàn hỏa lực hạng hai.

Đến tháng 11 năm 1942, North Carolina được trang bị thêm một bộ Mark 4 bổ sung và một bộ radar SG dò mặt đất. Một cấu hình thông thường dành cho thiết giáp hạm hiện diện trên North Carolina vào tháng 4 năm 1944, với các radar SK (dò tìm không trung) và SG (dò tìm mặt đất), một bộ SG dự phòng, các bộ Mark 8 để kiểm soát dàn pháo chính. Mọi bộ Mark 4 còn lại dành cho dàn pháo hạng hai, và một trong những bộ Mark 3 cũ vẫn còn hiện diện, có thể để dự phòng cho các bộ Mark 8. Một đĩa SK-2 thay thế cho radar SK và các bộ Mark 12 và Mark 22 thay thế cho Mark 4 vào tháng 9 năm đó. Ngoại trừ bộ SK-2, Washington cũng nhận được sự nâng cấp tương tự như vậy.

Động lực

Những chiếc trong lớp North Carolina được trang bị bốn tuốc bin hơi nước hộp số General Electric và tám nồi hơi Babcock & Wilcox kiểu ba nồi đun tốc hành. Hệ thống động lực của con tàu tích hợp nhiều phát triển mới nhất của thiết bị turbine, bao gồm hộp số giảm tốc xoắn ốc kép và kỹ thuật hơi nước áp lực cao. Các nồi hơi của North Carolina cung cấp hơi nước với áp lực 4.000 kPa (575 psi) ở nhiệt độ 454°C (850°F). Để đáp ứng yêu cầu một tốc độ tối đa 50 km/h (27 knot), hệ thống động cơ ban đầu được thiết kế để cung cấp công suất 115.000 mã lực (85,8 mW), nhưng những kỹ thuật mới được áp dụng đã giúp tăng lên 121.000 mã lực (90,2 MW). Cho dù có sự gia tăng về công suất, tốc độ tối đa của các con tàu vẫn không đổi, vì những cải biến cho hệ thống động cơ chỉ được tích hợp sau này trong quá trình thiết kế; các turbine đã được trang bị không thể tận dụng ưu điểm hơi nước có áp lực và nhiệt độ cao hơn, nên mức độ hiệu suất không cao như tiềm năng vốn có. Khi chạy lùi, động cơ có thể cung cấp công suất 32.000 mã lực (23,9 MW). nhỏ|trái|Phòng động cơ số 2 của chiếc North Carolina đang được chế tạo, nhìn từ mạn trái con tàu, ngày [[16 tháng 1 năm 1939; nồi hơi số 4 vừa mới được lắp đặt|alt=A cavernous steel room, with two large rectangular boilers inside; a number of men are working on the machines.]] Hệ thống động cơ được chia thành bốn phòng động cơ, tất cả đều được bố trí dọc theo trục giữa; mỗi phòng chứa một turbine và hai nồi hơi, và không có sự ngăn cách nào giữa các nồi hơi và turbine. Điều này được thực hiện nhằm giới hạn nguy cơ lật úp nếu như con tàu chịu đựng ngập nước nặng trong các phòng động cơ. Các phòng động cơ có cách sắp xếp được bố trí luân phiên: phòng động cơ thứ nhất và thứ ba có turbine đặt bên mạn phải và các nồi hơi tương ứng bên mạn trái, và được đảo lại trong các phòng động cơ thứ hai và thứ tư. Phòng động cơ đầu tiên ở phía trước vận hành trục chân vịt ngoài bên mạn phải, turbine thứ hai dẫn động trục chân vịt ngoài bên mạn trái, turbine thứ ba dành cho chân vịt trong bên mạn phải, và turbine thứ tư vận hành trục chân vịt ngoài bên mạn trái. Cả bốn chân vịt đều có bốn cánh; hai chân vịt phía ngoài có đường kính 4,674 m (15 ft 4 in) trong khi cặp phía trong có đường kính 5,067 m (16 ft 7,5 in). Việc chuyển hướng con tàu được điều khiển bởi một cặp bánh lái.

Dàn pháo chính được bảo vệ bởi vỏ giáp rất dày: mặt trước của tháp pháo dày , các mặt hông dày trong khi mặt sau dày và nóc được bọc thép dày . Vỏ giáp dày cho đến là độ dày tối đa mà các nhà máy có thể sản xuất được vào lúc thiết kế lớp tàu; tuy nhiên vào năm 1939, người ta đã có thể tạo ra những tấm thép dày đến . Chúng đã không được trang bị, vì người ta ước lượng việc chuyển đổi sẽ trì hoãn thời hạn hoàn tất các con tàu thêm từ sáu đến tám tháng. Các bệ tháp pháo cũng được bảo vệ rất nặng: phần phía trước dày , các mặt hông lên đến trong khi mặt sau giảm xuống còn . Các tháp súng 127 mm (5 inch) cùng với hầm đạn của chúng được bọc thép tôi STS dày .

Hệ thống bảo vệ bên (SPS) bao gồm năm ngăn kín được phân chia bởi các vách ngăn chống ngư lôi và một bầu chống ngư lôi lớn chạy suốt chiều dài của "thành trì bọc thép". Hai ngăn ngoài cùng, ngăn trong cùng và bầu chống ngư lôi được để trống, trong khi ngăn thứ ba và thứ tư được đổ đầy chất lỏng. Hệ thống này được giảm bớt chiều sâu ở hai đầu bên ngoài các tháp súng trước và sau. Tại các khu vực này, ngăn thứ năm bị hủy bỏ; thay vào đó, có một ngăn ngoài cùng để trống và hai ngăn đổ đầy chất lỏng, được dự phòng phía trong bởi một ngăn để trống khác. Để bù trừ cho hệ thống bảo vệ dưới nước bị cắt giảm, những phần này được tăng cường thêm thép tấm bổ sung, dày cho đến . Toàn thể hệ thống được thiết kế để chịu đựng đầu đạn nặng đến TNT. Việc bảo vệ dưới nước được hoàn tất bởi một đáy lườn tàu gồm ba lớp với bề dày tổng cộng . Lớp ngăn đáy tàu dày và được đổ đầy chất lỏng, trong khi lớp ngăn bên trên dày được giữ trống. Đáy tàu ba lớp này cũng được chia thành nhiều ngăn để giúp ngăn chặn ngập nước trong trường hợp lớp trên bị đánh thủng.

Lịch sử hoạt động

nhỏ|phải|North Carolina đang được trang bị hoàn tất|alt=A large warship in the final stages of completion; the main and secondary guns have been fitted, but the deck is cluttered with various materials presumably used in building the ship

Chế tạo

Hai chiếc thiết giáp hạm mới được chấp thuận cho chế tạo vào tháng 1 năm 1937, mỗi chiếc có chi phí khoảng 50 triệu Đô-la Mỹ. Có tổng cộng năm xưởng đóng tàu tham gia dự thầu để được đóng một trong hai chiếc tàu theo kế hoạch. Có ba hãng tư nhân: Bethlehem Shipbuilding, New York Shipbuilding và Newport News Shipbuilding. Hai xưởng kia, Xưởng hải quân New York và Xưởng hải quân Philadelphia, do chính phủ điều hành. Khi xét thầu, đề nghị của các xưởng đóng tàu tư nhân thay đổi từ 46 đến 50 triệu Đô la, trong khi các xưởng của chính phủ đưa ra mức 37 triệu. Hãng Newport News độc đáo hơn những hãng còn lại khi không đưa ra một giá trị cố định mà lại đưa ra giá dưới hình thức "chi phí + %", nhưng điều này đã loại họ ra khỏi cuộc chọn thầu.

Giá dự thầu của các hãng đóng tàu tư nhân bị ảnh hưởng nặng bởi việc áp dụng chính sách New Deal. Đạo luật Vincent-Trammell giới hạn lợi nhuận của một hãng đóng tàu ở mức 10%, trong khi Đạo luật hợp đồng dân sự Walsh-Healey quy định mức lương tối thiểu và đòi hỏi những điều kiện làm việc dành cho công nhân. Đạo luật sau đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động thép của hải quân, vì nội dung của luật gây ra sự mâu thuẫn giữa giới chủ lãnh đạo công nghiệp, vốn rất không thích quy định 40 giờ làm việc mỗi tuần cùng mức lương tối thiểu dành cho công nhân, và với công nhân, vốn đang bị lôi kéo vào cuộc tranh luận riêng biệt giữa công đoàn của những người thợ lành nghề, Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ, với công đoàn của những công nhân không có tay nghề, Đại hội các Tổ chức Công nghiệp. Ở giữa tình trạng náo động này, Hải quân gặp khó khăn trong việc huy động 8.000 tấn (18 triệu pound) thép để chế tạo sáu tàu khu trục và ba tàu ngầm; trong khi một số lượng thép lớn hơn thế sẽ phải cần đến cho các thiết giáp hạm mới.

Những vấn đều này, cùng với những thay đổi trong thiết kế và những vấn đề về lao động trong các xưởng đóng tàu – như một cuộc đình công tại hãng Federal Shipbuilding and Drydock Company vốn đang đóng hai tàu khu trục cho hải quân vào lúc đó – đã làm gia tăng giá thành của những chiếc thiết giáp hạm lên 60 triệu Đô la mỗi chiếc. Cho dù chi phí tăng đáng kể, Văn phòng Kỹ thuật Hàng hải cùng Văn phòng Chế tạo và sửa chữa đã đề xuất lên cấp trên của họ là nên chấp thuận đề nghị của những xưởng hải quân của chính phủ. Điều này được xác nhận, khi giá dự thầu của các hãng tư nhân được cho là bị thổi phồng quá mức. Hợp đồng chế tạo North CarolinaWashington, những tên được chính thức chọn vào ngày 3 tháng 5 năm 1937, được trao cho các xưởng hải quân New York và Philadelphia tương ứng vào ngày 24 tháng 6 năm 1937. Không lâu sau khi điều này được công bố, Roosevelt phải chịu đựng sự vận động hành lang quyết liệt của công dân và chính trị gia thuộc thành phố Camden và của tiểu bang New Jersey, trong một nỗ lực vô vọng cuối cùng nhằm chuyển việc chế tạo chiếc North Carolina đến xưởng của hãng New York Shipbuilding tại Camden; một hợp đồng như vậy sẽ giúp giữ được công ăn việc làm cho nhiều người trong khu vực này. Roosevelt từ chối, nói rằng sự chênh lệch về giá là quá lớn; thay vào đó, công ty được nhận hợp đồng chế tạo hai chiếc tàu tiếp liệu khu trục vào tháng 12 năm 1937: Dixie (AD-14) và Prairie (AD-15).

Những chiếc trong lớp

North Carolina

North Carolina được đặt lườn vào ngày 27 tháng 10 năm 1937, chiếc thiết giáp hạm đầu tiên được Hoa Kỳ chế tạo kể từ lớp Colorado vào cuối những năm 1910 và đầu những năm 1920. Cho dù North Carolina được hạ thủy vào ngày 13 tháng 6 năm 1940 và đưa vào hoạt động ngày 9 tháng 4 năm 1941, nó không được giao nhiệm vụ hoạt động thường trực do mắc phải vấn đề rung động nặng dọc theo các trục chân vịt của nó, một lỗi từng xảy ra đối với con tàu chị em Washington và một số tàu khác như chiếc tàu tuần tuần dương hạng nhẹ Atlanta. Lỗi này chỉ được khắc phục sau khi thử nghiệm nhiều kiểu chân vịt khác nhau bên trên chiếc North Carolina, bao gồm kiểu bốn cánh và một phiên bản thu nhỏ của kiểu ba cánh nguyên thủy. Việc thử nghiệm này đòi hỏi nó phải thường xuyên đi biển, và kết quả của nhiều lần khởi hành từ cảng New York tiến ra Đại Tây Dương khiến cho nó bị đặt tên lóng "Showboat" (con tàu trình diễn).

Sau một chuyến đi chạy thử máy tại khu vực biển Caribbe và tham gia các cuộc tập trận, North Carolina băng qua kênh đào Panama trên đường đi đến Mặt trận Thái Bình Dương. Gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 16, chiếc thiết giáp hạm đã hộ tống chiếc tàu sân bay Enterprise trong các cuộc đổ bộ lên Guadalcanal và Tulagi vào ngày 7 tháng 8 năm 1942, và tiếp tục tháp tùng chiếc tàu sân bay khi nó di chuyển về phía Đông Nam quần đảo Solomon. Trận chiến Đông Solomons bắt đầu khi các tàu sân bay Nhật bị phát hiện vào ngày 24 tháng 8 năm 1942; và mặc dù máy bay Hải quân Mỹ đã tấn công trước tiên, đánh chìm được tàu sân bay hạng nhẹ Ryūjō; một cuộc không kích được tung ra từ một lực lượng khác, hình thành chung quanh hai tàu sân bay hạm đội ShōkakuZuikaku, đã tấn công Lực lượng Đặc nhiệm 16. Trong trận đánh căng thẳng chỉ kéo dài tám phút, North Carolina đã bắn rơi từ 7 đến 14 máy bay đối và hầu như không bị hư hại, cho dù có bảy quả bom ném suýt trúng và một thủy thủ thiệt mạng do hỏa lực càn quét. Enterprise bị trúng ba quả bom.

Sau khi được sửa chữa và tái trang bị tại các cơ sở ở Trân Châu Cảng, North Carolina tiếp tục hoạt động như thành phần hộ tống cho các tàu sân bay EnterpriseSaratoga cho đến hết năm 1942 và hầu hết thời gian của năm 1943 trong khi chúng hỗ trợ cho các hoạt động chuyển quân và tiếp liệu tại quần đảo Solomon. Trong giai đoạn này, nó được nâng cấp các hệ thống kiểm soát hỏa lực và radar tiên tiến trong tháng 3, tháng 4 và tháng 9 năm 1943 tại Trân Châu Cảng. Đến tháng 11 năm 1943, North Carolina hộ tống cho Enterprise khi chiếc tàu sân bay tung ra các cuộc không kích xuống Makin, Tarawa và Abemama. Từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 12, nó bắn pháo xuống Nauru trước khi quay trở lại bảo vệ cho tàu sân bay; và nó tháp tùng chiếc Bunker Hill khi chiếc tàu sân bay này tiến hành không kích Kavieng và New Ireland.

Gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 58 vào tháng 1 năm 1944, North Carolina hộ tống các tàu sân bay như là soái hạm của Đô đốc Willis A. Lee trong phần lớn thời gian của năm, hỗ trợ cho các cuộc không kích xuống Kwajalein, Namur, Truk (hai lần), Saipan, Tinian, Guam, Palau, Woleai và Hollandia từ tháng 1 đến tháng 4; cũng trong tháng 4, North Carolina dùng hải pháo hủy diệt các công trình phòng ngự tại Ponape trước khi lên đường quay về Trân Châu Cảng để sửa chữa một bánh lái bị hư hại. Khi công việc sửa chữa hoàn tất vào ngày 6 tháng 6, chiếc thiết giáp hạm tháp tùng tàu sân bay Enterprise trong các cuộc tấn công tại quần đảo Mariana; trong đó, North Carolina đã tham gia nả pháo xuống Saipan và Tanapag. nhỏ|phải|Pháo hoa trên bầu trời bên trên chiếc North Carolina (BB-55) vào năm [[2008, nhân dịp lễ hội đánh dấu việc đưa chiếc tàu ngầm tấn công nguyên tử North Carolina (SSN-777) vào hoạt động|alt=Red and yellow fireworks fill the sky, as seen from the deck of the ship. The main guns loom directly overhead.]] Trong cuộc tấn công lên Okinawa, North Carolina đã hộ tống các tàu sân bay và bắn phá các vị trí đối phương trên bờ. Mặc dù đã bắn rơi được ba máy bay tấn công cảm tử kamikaze, vào ngày 6 tháng 4 nó lại bị trúng một quả đạn pháo 127 mm (5 inch) trong một vụ bắn nhầm, làm thiệt mạng ba người và bị thương 44 người khác. Chiếc thiết giáp hạm đã bắn rơi một máy bay đối phương vào ngày 7 tháng 4 và hai chiếc khác vào ngày 17 tháng 4. Sau một đợt đại tu khác thực hiện từ ngày 9 tháng 5 đến ngày 28 tháng 6, lần này là tại xưởng hải quân Trân Châu Cảng, North Carolina đã hoạt động cả trong vai trò hộ tống tàu sân bay lẫn bắn pháo bờ biển cho đến hết cuộc chiến. Nổi bật là cuộc bắn pháo vào ngày 17 tháng 7 vào khu vực công nghiệp tại Hitachi, Ibaraki cùng với các thiết giáp hạm đồng đội Alabama, Missouri, Wisconsin và HMS King George V cùng nhiều tàu chiến nhỏ khác.

Vào tháng 8, một số thành viên của North Carolina cùng các đội Thủy quân Lục chiến được gửi lên bờ để hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Nhật Bản. Sau khi Nhật chính thức đầu hàng, nhóm này quay trở lại tàu và chiếc thiết giáp hạm khởi hành đi Okinawa. Như một phần của Chiến dịch "Magic Carpet", các cựu chiến binh được nhận lên tàu để được hồi hương về Hoa Kỳ. Đi qua kênh đào Panama vào ngày 8 tháng 10, nó thả neo tại Boston vào ngày 17 tháng 10. Sau một đợt đại tu tại Xưởng hải quân New York, nó tham gia các cuộc tập trận ngoài khơi New England trước khi thực hiện một chuyến đi huấn luyện học viên mới tại vùng biển Caribbe. để trở thành một tàu bảo tàng. Chiếc thiết giáp hạm được mở cửa tại Wilmington, Bắc Carolina vào ngày 29 tháng 4 năm 1962, như một đài tưởng niệm mọi công dân tiểu bang North Carolina thuộc mọi ngành phục vụ đã ngã xuống trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được công nhận là một Địa điểm Lịch sử Quốc gia vào ngày 1 tháng 1 năm 1986, nó vẫn tiếp tục ở tại đây, được duy trì bởi Ủy ban Thiết giáp hạm USS North Carolina, một tổ chức phi lợi nhuận.

Washington

nhỏ|phải|Buổi lễ hạ thủy chiếc Washington vào ngày [[1 tháng 6 năm 1940|alt=A large warship, still missing most of its superstructure, sits in a dry dock, awaiting its launch. The ship is draped in a large banner and surrounded by crowds of spectators; a huge gantry towers over the ship.]] Washington được đặt lườn vào ngày 14 tháng 6 năm 1938, được hạ thủy vào ngày 1 tháng 6 năm 1940 và được đưa ra hoạt động vào ngày 15 tháng 5 năm 1941 tại xưởng hải quân Philadelphia. Mặc dù được đưa ra hoạt động, động cơ của nó đã không thể hoạt động hết công suất. Giống như tàu chị em với nó North Carolina, Washington cũng mắc phải vấn đề rung động nặng theo trục dọc, vốn chỉ được làm giảm nhẹ sau nhiều cuộc thử nghiệm được tiến hành trên North Carolina. Các sửa chữa đã giúp nó có thể thực hiện cuộc chạy thử máy, mà Washington tiến hành vào ngày 3 tháng 8 năm 1941; sau khi chất tải khoảng 44.400 tấn, hệ thống động lực của con tàu đã chạy hết công suất được 123.850 mã lực, và được lặp lại vào tháng 2 năm 1942, khi đạt đến công suất 127.100 và 121.000 mã lực.

Chiếc thiết giáp hạm cuối cùng cũng có khả năng góp vai trò tích cực trong cuộc chiến tranh mà giờ đây ảnh hưởng trực tiếp đến Hoa Kỳ. Chuẩn Đô đốc John W. Wilcox chọn Washington làm soái hạm cho Lực lượng Đặc nhiệm 39. Vào ngày 26 tháng 3 năm 1942, Washington cùng với tàu sân bay Wasp, các tàu tuần dương hạng nặng WichitaTuscaloosa cùng nhiều tàu chiến nhỏ khác đã lên đường vượt Đại Tây Dương tăng cường cho Hạm đội Nhà Anh Quốc. Trong chuyến đi, Đô đốc Wilcox bị rơi xuống biển; ông được tàu khu trục Wilson nhìn thấy sau đó với tư thế úp mặt xuống biển, nhưng do hoàn cảnh biển động đã không thể vớt xác của ông lên. Không thể biết chính xác chuyện gì đã thực sự xảy ra; Wilcox có thể đơn giản bị một cơn sóng lớn cuốn xuống biển, nhưng cũng có sự suy đoán là ông mắc phải một cơn đột quỵ. Lực lượng đi đến nơi thả neo chính của Hạm đội Nhà, Scapa Flow, vào ngày 4 tháng 4.

Washington cùng các con tàu khác của Lực lượng Đặc nhiệm 39 tiến hành tập trận cùng với Hạm đội Nhà cho đến cuối tháng 4. Cùng với các đơn vị Anh khác, lực lượng này rời quần đảo Anh Quốc như là Lực lượng Đặc nhiệm 99. Chúng hộ tống một số đoàn tàu vận tải Bắc Cực chuyển những hàng tiếp liệu tối cần thiết đến Liên Xô. Trong một lần thực hiện nhiệm vụ như vậy, chiếc thiết giáp hạm Anh King George V cùng đi đã vô tình húc phải một tàu khu trục khiến nó vỡ làm đôi và chìm nhanh chóng. Đi liền ngay phía sau tháp tùng cho King George V, Washington băng qua đúng ngay vùng biển và phải chịu đựng hư hại của các vụ nổ từ các quả mìn sâu rơi ra từ chiếc tàu khu trục. Mặc dù sự hư hỏng gây ra cho lườn tàu chỉ là tối thiểu, giới hạn trong việc rò rỉ một thùng nhiên liệu, nhiều thiết bị tinh vi trên tàu bị hư hại, bao gồm máy đo tầm xa cho dàn pháo chính, các bộ ngắt điện, ba bộ kiểm soát hỏa lực cùng các radar dò tìm. Các tàu chiến Mỹ sau đó đi vào cảng Hvalfjörður tại Iceland vào ngày 15 tháng 5; chúng quay trở lại Scapa Flow vào ngày 3 tháng 6. Ngày 4 tháng 6, Washington đón lên tàu vị tư lệnh lực lượng hải quân Mỹ tại châu Âu, Đô đốc Harold Rainsford Stark, người đã cho đặt sở chỉ huy tạm thời của mình trên chiếc tàu chiến trong vài ngày. Vào ngày 7 tháng 6 năm 1942, Vua George VI Anh Quốc đã lên thị sát chiếc thiết giáp hạm.

nhỏ|trái|[[George VI của Anh|Vua George VI của Anh (bên trái, hướng về máy ảnh) đang duyệt qua các thủy thủ trên chiếc Washington vào ngày 7 tháng 6 năm 1942. Một thủy phi cơ OS2U Kingfisher ở bên trên phía sau|alt=Midshot with a large single engined propeller warplane in background. A man with military ribbons covering his chest-the King (see caption)-accompanied by navy officers walks down a lines of sailors who stand rigidly at attention.]] Washington rời khu vực Bắc Hải quay trở về Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 7 năm 1942 cùng với một lực lượng hộ tống bao gồm bốn tàu khu trục; và khi về đến xưởng hải quân New York vào ngày 23 tháng 7, nó thực hiện một đợt đại tu mất đến một tháng mới hoàn tất. Nó lên đường vào ngày 23 tháng 8 hướng đến kênh đào Panama rồi đi sang Thái Bình Dương, đi đến điểm dừng của nó là đảo Tonga vào ngày 14 tháng 9, nơi nó trở thành soái hạm của Đô đốc Willis "Ching" Lee. Trong những tháng tiếp theo, Washington tập trung vào việc bảo đảm an toàn cho các đoàn tàu vận chuyển tiếp liệu và tăng cường cho lực lượng trú đóng tại Guadalcanal. Vào ngày 13 tháng 11, ba đội hình tàu chiến Nhật Bản được phát hiện đang trên đường hướng đến Guadalcanal, một trong số chúng nhắm vào mục đích bắn phá sân bay Henderson khi bóng tối vào ban đêm giúp bảo vệ chúng khỏi sự tấn công bằng máy bay. Lực lượng bắn phá thứ nhất của Nhật bị đẩy lùi bởi một lực lượng tàu tuần dương - khu trục Mỹ. Vào ngày 14 tháng 11, phía Nhật tổ chức một cuộc tấn công bắn phá khác nhằm vô hiệu hóa sân bay chướng tai gai mắt này. Washington cùng thiết giáp hạm South Dakota và bốn tàu khu trục được gửi đến để đánh chặn lực lượng Nhật Bản trong đêm đó. Lực lượng Nhật Bản, bao gồm thiết giáp hạm nhanh Kirishima, hai tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục, thoạt tiên đã đánh chìm ba tàu khu trục Mỹ và gây hư hại đáng kể cho cấu trúc thượng tầng của South Dakota. Tuy nhiên, Washington không bị phát hiện, và dàn hỏa lực dẫn đường bằng radar của nó đã đánh chìm một tàu khu trục và bắn trúng Kirishima. Trong trận chiến hỗn loạn, Washington đã bắn 75 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) và 107 quả 127 mm (5 inch), trong đó chín phát 406 mm (16 inch) đã đánh trúng Kirishima, gây hư hại nặng đến mức không thể sửa chữa và khiến nó phải bị đánh đắm sáng hôm sau. Không lâu sau trận đánh này, lực lượng Nhật Bản bắt đầu triệt thoái khỏi Guadalcanal.

Cho đến tháng 4 năm 1943, Washington tiếp tục ở lại khu vực gần căn cứ của nó ở New Caledonia, bảo vệ các đoàn tàu vận tải và các nhóm chiến đấu hỗ trợ cho Chiến dịch Solomon. Quay trở về Trân Châu Cảng, nó tiến hành tập trận và trải qua một đợt đại tu trước khi quay trở lại khu vực chiến sự vào cuối tháng 7. Từ tháng 8 đến cuối tháng 10, Washington hoạt động ngoài khơi Efate. Sau đó nó cùng bốn thiết giáp hạm và sáu tàu khu trục tham gia hình thành nên Đội đặc nhiệm 53.2 để tập trận, có các tàu sân bay Enterprise, EssexIndependence cùng tham gia. Sau đó Đội đặc nhiệm 52.2 lên đường hướng đến quần đảo Gilbert bổ sung thêm hỏa lực vào các cuộc tấn công đang diễn ra tại đây. Lên đường vào cuối tháng 11, Washington trước tiên đi đến Makin bảo vệ các tàu bè tại đây, rồi sau đó đến đảo Banaba để chuẩn bị nả pháo lên Nauru cùng với con tàu chị em North Carolina, cả bốn chiếc thuộc lớp South Dakota cùng các tàu sân bay Bunker HillMonterey. Tất cả những chiếc tàu chiến chủ lực đều đồng loạt nổ súng trước bình minh ngày 8 tháng 12; và các tàu sân bay tiếp nối cuộc tấn công không lâu sau đó. Các con tàu sau đó lên đường quay trở về Efate, đến nơi vào ngày 12 tháng 12. Vào ngày Giáng sinh, Washington, North Carolina và bốn tàu khu trục rời Efate để tiến hành huấn luyện tác xạ. Vào cuối tháng 1 năm 1944, nó nằm trong thành phần Đội Đặc nhiệm 50.1 để hộ tống các tàu sân bay nhanh trong đội tung các cuộc không kích xuống Taroa và Kwajalein. Nó cũng di chuyển đến gần để tấn công Kwajalein bằng dàn pháo chính của nó trong ngày 30 tháng 1. nhỏ|phải|Hư hại nặng cho mũi của chiếc Washington sau tai nạn va chạm với thiết giáp hạm [[USS Indiana (BB-58)|Indiana|alt=The bow of the ship, with several men standing aboard. A smaller warship is visible in the distance.]] Trước lúc bình minh ngày 1 tháng 2 năm 1944, khi trời còn tối, Washington đã bị tai nạn va chạm với thiết giáp hạm Indiana khi chiếc này tách khỏi đội hình để tiếp nhiên liệu cho bốn tàu khu trục. Indiana đã thông báo qua vô tuyến dự định của nó chuyển hướng qua mạn trái rời khỏi đội hình, nhưng không lâu sau khi bắt đầu bẻ lái, thuyền trưởng của nó ra lệnh quay lại hướng sang mạn phải. Bảy phút sau, nó được các quan sát viên trên Washington nhìn thấy ở khoảng cách . Mặc dù thủy thủ trên cả hai con tàu điên cuồng tìm cách né tránh; Washington vẫn đâm sượt vào chiếc Indiana, gây hỏng một mảng lớn phía sau con tàu bên mạn phải. Mũi trước của Washington bị hỏng nặng, với khoảng mũi tàu treo lơ lửng và một phần dưới nước. Mười người, trong đó có sáu của Washington, thiệt mạng hay mất tích. Sau khi được gia cố tạm thời phần bị hư hại, chiếc thiết giáp hạm bị buộc phải quay về Trân Châu Cảng để gắn một mũi tàu giả, cho phép nó thực hiện chuyến đi đến Xưởng hải quân Puget Sound ở Wasington. Tại đây, nó được đại tu toàn diện cùng với một mũi tàu hoàn toàn mới, và công việc này kéo dài từ tháng 3 đến tháng 4. Washington chỉ quay trở lại khu vực chiến sự vào cuối tháng 5.

Washington kế tiếp tham gia vào Chiến dịch quần đảo Mariana và Palau, một lần nữa phục vụ hộ tống cho các tàu sân bay, cho dù nó được cho tách ra vào ngày 13 tháng 6 để bắn phá các vị trí của quân Nhật tại Saipan và Tinian. Khi việc xuất phát một bộ phận lớn các tàu chiến còn lại của Hải quân Đế quốc Nhật Bản bị các tàu ngầm Mỹ phát hiện, Washington, cùng với sáu thiết giáp hạm, bốn tàu tuần dương hạng nặng và mười bốn tàu khu trục đã bảo vệ các tàu sân bay của Lực lượng Đặc nhiệm 58; Trận chiến biển Philippines nổ ra vào ngày 19 tháng 6 khi một số lượng lớn máy bay từ các tàu sân bay đối phương tổ chức không kích vào hạm đội Mỹ. Sau khi đánh lui các đợt tấn công, Washington tiếp nhiên liệu rồi tiếp tục hộ tống các tàu sân bay cho đến khi nó được tách ra cùng ba thiết giáp hạm và các tàu hộ tống để hình thành một đội đặc nhiệm mới. Sau một chặng dừng kéo dài tại đảo san hô Enewetak, nó hỗ trợ cho các cuộc tấn công đổ bộ lên Peleliu và Angaur trước khi quay lại nhiệm vụ hộ tống. Nhiệm vụ này kéo dài từ ngày 10 tháng 10 năm 1944 cho đến ngày 17 tháng 2 năm 1945.

Chiếc thiết giáp hạm nả pháo xuống Iwo Jima trong các ngày 19–22 tháng 2 năm 1945 để hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng tại đây trước khi hộ tống các tàu sân bay tung ra các cuộc không kích xuống Tokyo và các mục tiêu khác trên đảo Kyūshū. Trong ngày 24 tháng 3 và 19 tháng 4, Washington tiến hành bắn pháo hỗ trợ xuống Okinawa trước khi quay về Puget Sound để đại tu. Công việc này kéo dài đến lúc Nhật Bản đầu hàng qua buổi lễ ký kết được thực hiện trên chiếc thiết giáp hạm Missouri, nên Washington được lệnh đi đến Philadelphia, đến nơi vào ngày 17 tháng 10. Tại đây nó được cải biến để trang bị thêm 145 giường ngủ, hầu có thể tham gia Chiến dịch Magic Carpet. Lên đường đi đến Southampton với một thủy thủ đoàn tinh giản còn 84 sĩ quan và 835 thủy thủ, nó đã đưa 185 sĩ quan và 1.479 binh sĩ Lục quân quay trở về Hoa Kỳ; nhưng đây lại là chuyến đi duy nhất mà nó tham gia nhiệm vụ này. Chiếc thiết giáp hạm được đưa về lực lượng dự bị tại Bayonne, New Jersey vào ngày 27 tháng 6 năm 1947, chỉ với hơn sáu năm phục vụ. Washington không bao giờ được cho hoạt động trở lại. được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 6 năm 1960, chính xác 21 năm kể từ ngày hạ thủy, nó được bán để tháo dỡ vào ngày 24 tháng 5 năm 1961.

Các cải biến và đề xuất hiện đại hóa sau chiến tranh

nhỏ|phải|Washington di chuyển hết tốc độ ngoài khơi [[Puget Sound khi chạy thử máy sau đại tu vào ngày 10 tháng 9 năm 1945|alt=A large gray warship plows through the sea, creating a large frothy wake.]] Sau chiến tranh, North CarolinaWashington được giữ lại hoạt động thường trực trong một thời gian ngắn, có thể là do chúng rộng rãi thoải mái ít chật chội hơn so với bốn chiếc lớp South Dakota. Các con tàu có một số thay đổi trong giai đoạn này; Ủy ban Đặc tính Tàu chiến (SCB: Ship Characteristics Board) ra chỉ thị vào tháng 6 năm 1946 tháo dỡ bốn khẩu đội 40 mm bốn nòng, cho dù trong thực tế chỉ có hai khẩu đội được tháo bỏ. Số vũ khí 20 mm cũng được giảm bớt ở một số vị trí nên cả hai con tàu ngừng hoạt động chỉ với 16 khẩu đội nòng đôi. North CarolinaWashington được cho ngừng hoạt động vào ngày 27 tháng 6 năm 1947 và được đưa về Hạm đội Dự bị. Vào tháng 5 năm 1954, Ủy ban SCB thảo ra một dự án cải tiến dành cho lớp North Carolina bao gồm bổ sung 24 khẩu pháo 76 mm (3 inch)/50 caliber điều khiển bởi sáu bộ điều khiển hỏa lực Mark 56. Một tháng sau, Chủ tịch Ủy ban SCB phát biểu niềm tin của ông là các lớp North CarolinaSouth Dakota sẽ là bổ sung hữu ích cho các lực lượng đặc nhiệm - nếu như chúng nhanh hơn. Văn phòng Tàu chiến sau đó đã xem xét và hủy bỏ các thiết kế đề nghị nâng tốc độ tối đa con tàu lên , nhanh hơn 4 knot so với tốc độ duy trì hiện tại. Để North Carolina có được tốc độ 31 knot, cần có hệ thống động lực công suất 240.000 mã lực. Điều này, đến lượt nó, đòi hỏi trang bị một hệ thống động cơ cực lớn không thể gắn vừa với con tàu ngay cả khi tháo bỏ tháp pháo thứ ba. Nếu đai giáp bên ngoài được tháo bỏ, cũng còn cần đến công suất 216.000 mã lực. Tuy nhiên, bất kể là có tháo dỡ đai giáp hay không, toàn bộ kiểu dáng của lườn tàu ở phía đuôi sẽ phải cải biến đáng kể để chấp nhận kiểu chân vịt lớn hơn. Đòn cuối cùng đánh vào dự án là cái giá 40 triệu Đô la mỗi chiếc chưa tính đến chi phí tái kích hoạt lại những chiếc thiết giáp hạm vốn đã bị bỏ xó đến mười năm.

Các tính toán sau đó cho thấy những chiếc lớp North Carolina có thể làm nhẹ đi từ xuống còn khoảng , và một công suất 210.000 mã lực là đủ. Với một con số tải trọng thử nghiệm 38.400 tấn, thậm chí 186.000 mã lực cũng đã đủ cho nó; con số 210.000 mã lực được đưa ra là do ước lượng cộng thêm 12,5% dự phòng cho trường hợp đáy tàu bị bám hà hay thời tiết xấu. M

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
**Thiết giáp hạm lớp _Iowa**_ là một lớp sáu thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoa Kỳ được đặt hàng trong những năm 1939 và 1940. Ban đầu lớp tàu được dự định để
**Lớp thiết giáp hạm _Colorado**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ có ba
**Lớp thiết giáp hạm _Alsace**_ là một dự án chế tạo thiết giáp hạm của Hải quân Pháp nhằm tiếp nối và mở rộng lớp _Richelieu_; với thiết kế về căn bản dựa trên lớp
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ thứ nhất là một lớp bao gồm sáu thiết giáp hạm, được đặt lườn vào năm 1920 cho Hải quân Hoa Kỳ nhưng chưa bao giờ hoàn tất. Nếu
**Lớp _Lion**_ là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm được thiết kế cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nhưng chỉ có hai chiếc được đặt lườn ngay trước khi Chiến tranh Thế giới
, thường được gọi là **_lớp Siêu Yamato_**, là lớp thiết giáp hạm được lên kế hoạch cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Để phù hợp với chiến lược chiến tranh của Hải quân
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**USS _North Carolina_ (BB-55)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc, và là chiếc thiết giáp hạm mới đầu tiên
Năm tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _North Carolina**_ nhằm vinh danh tiểu bang North Carolina. * USS _North Carolina_ (1820) là một trong số chín tàu chiến tuyến
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
## Lớp thiết giáp hạm (Tạm ngưng sản xuất) Hầu hết ở thời điểm này đều gần như không có _Lớp thiết giáp hạm_ nào được sản xuất, Đây là danh sách các _Thiết giáp
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
**USS _Alabama_ (BB-60)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _South Dakota_ của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc tàu chiến thứ sáu của hải quân Mỹ mang cái tên này, nhưng chỉ là chiếc
**USS _Massachusetts_ (BB-59)**, tên lóng mà thủy thủ đoàn thường gọi "Big Mamie" trong Thế Chiến II, là một thiết giáp hạm thuộc lớp _South Dakota_. Nó là chiếc tàu chiến thứ bảy của Hải
**South Carolina** () là một tiểu bang thuộc phía đông nam của Hoa Kỳ. Phía bắc giáp North Carolina, phía đông nam giáp Đại Tây Dương và phía tây nam giáp Georgia dọc theo sông
**USS _Anderson_ (DD-411)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Trippe_ (DD-403)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Kitty Hawk_ (CVA-63/CV-63)** là một siêu hàng không mẫu hạm của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc đầu tiên trong số bốn chiếc của lớp tàu sân bay mang tên nó nhập biên
**USS _Willard Keith_ (DD-775)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của
**USS _Manley_ (DD-74/AG-28/APD-1)** là một tàu khu trục của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Caldwell_ được chế tạo và phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được cho ngừng hoạt động không
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**USS _Bryant_ (DD-665)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Beverly W. Reid_ (APD-119/LPR-119)** là một tàu vận chuyển cao tốc lớp _Crosley_, nguyên được cải biến từ chiếc **DE-722**, một tàu hộ tống khu trục lớp _Rudderow_, và đã phục vụ cùng Hải
**USS _Hobson_ (DD-464/DMS-26)**, là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Hollis_ (DE-794/APD-86)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Trung úy Hải quân
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**USS _Gherardi_ (DD-637/DMS-30)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Isherwood_ (DD-284)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**USS _Albert W. Grant_ (DD-649)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Wren_ (DD-568)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**Trận hải chiến ở quần đảo Santa Cruz** vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, người Nhật Bản thường gọi là **Minami Taiheiyou Kaisen** (南太平洋海戦, みなみたいへいようかいせん) là trận hải chiến thứ tư giữa các tàu
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
**USS _Tang_ (SS-306)** là một tàu ngầm lớp Balao của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, là con tàu đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo
**USS _Gainard_ (DD-706)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Izard_ (DD-589)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**Nguyễn Văn Toàn** (1932 - 2005) nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại
Trung tá Không quân Jimmy Doolittle (thứ hai từ bên trái) và đội bay của ông chụp ảnh trước một chiếc B-25 trên sàn đáp tàu sân bay USS _Hornet_ Cuộc **Không kích Doolittle** vào