✨Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam 1972

Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam 1972

Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972 chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là cuộc đối đầu lần thứ hai giữa Không lực và Hải quân Hoa Kỳ và các lực lượng phòng không ba thứ quân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH). Mặc dù chỉ diễn ra trong 8 tháng nhưng quy mô và mức độ ác liệt của các chiến dịch và trận đánh vượt xa các cuộc không kích trong Chiến dịch Sấm Rền trong giai đoạn 1965-1968 với sự tham gia của ba lực lượng không quân Hoa Kỳ: không quân chiến thuật, không quân chiến lược và không quân của Hải quân. Chỉ trong 8 tháng, mức độ thiệt hại của Không lực Hoa Kỳ đã lên đến hơn 1/4 tổng số thiệt hại trong 4 năm từ tháng 2 năm 1965 đến hết tháng 10 năm 1968. Mức thiệt hại về kinh tế của VNDCCH xấp xỉ bằng thiệt hại của hai năm 1967 và 1968 cộng lại.

Ngày 2 tháng 4 năm 1972, tin tức về sự nguy cấp của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trước cuộc Tổng tấn công năm 1972 của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) tại các chiến trường chính ở miền Nam Việt Nam về đến Nhà Trắng. Trong báo cáo của mình, Đại tướng Mỹ Abrams nhận định: Nếu Huế và Kon Tum thất thủ thì sẽ mất tất cả. Ngày 6 tháng 4, Tổng thống Richard Nixon chuẩn y đề nghị của Abrams về việc sử dụng không lực và pháo hạm oanh tạc phía bắc vĩ tuyến 17. Tuy nhiên, những hoạt động hạn chế này không làm giảm bớt cường độ tấn công của QĐNDVN tại miền Nam. Ngày 1 tháng 5, Quảng Trị, Lộc Ninh và Đắk Tô thất thủ; Huế, Kon Tum và An Lộc bị uy hiếp nặng nề. Nixon kết luận: "Nếu chúng ta thua tại Việt Nam sẽ chẳng có ai tôn trọng Tổng thống Mỹ nữa vì chúng ta có sức mạnh nhưng không dùng nó... Chúng ta phải giữ uy tín." Đây là một trong những lý do chính để ngày 8 tháng 5, Nixon ra lệnh cho Bộ trưởng Quốc phòng Melvin R. Laird tổ chức Chiến dịch Linebacker nhằm các mục tiêu chủ yếu sau đây: :Ngăn chặn tối đa việc vận chuyển người, vũ khí, khí tài, trang bị, lương thực và các hàng hóa vật chất từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam; qua đó giảm bớt sức ép quân sự cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) ở miền Nam trong các trận đánh quyết định ở ba vùng chiến thuật. :Phong tỏa cô lập miền Bắc, ngăn cản và cắt đứt viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa (chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc) vào miền Bắc Việt Nam. Phá hủy tiềm lực kinh tế và quốc phòng ở miền Bắc; làm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiệt quệ khi ra khỏi chiến tranh, không còn đủ sức để tấn công VNCH. :Gây tác động tâm lý đến người dân Bắc Việt Nam; qua đó tác động đến tâm lý của các nhà lãnh đạo VNDCCH, tạo điều kiện cho phái đoàn của Hoa Kỳ gây sức ép với đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris. :Động viên tinh thần cho QLViệt Nam Cộng hòa và khẳng định lòng tin rằng Hoa Kỳ không "bỏ rơi" Việt Nam Cộng hòa đối với chính quyền Sài Gòn nói chung và cá nhân Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu nói riêng.

Theo nhận xét của John Erichman, cố vấn báo chí của Nhà Trắng, "'Chiến dịch ném bom đêm Giáng Sinh' đã đưa Chính phủ Hoa Kỳ đến những khó khăn mới. Mặc dù chiến dịch đó chứng tỏ với chính quyền Việt Nam Cộng hòa về việc Hoa Kỳ sẽ 'bảo vệ Việt Nam Cộng hòa bằng mọi khả năng nếu Bắc Việt Nam vi phạm hiệp định hòa bình' nhưng lại làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ mới trong nội bộ Hợp chủng quốc và trên thế giới. Kết cục của cuộc ném bom này không đem lại nhiều lợi thế quân sự nhưng đã đem lại cho chính phủ của ông Nixon quá nhiều sự chống đối và làm cho chúng tôi nhiều lúc không biết giải thích với dư luận như thế nào".

Diễn biến cuộc "cứu bóng trước khung thành" (Chiến dịch Freedom Train và Linebacker I)

Đợt 1 - "Chiến thuật nhảy cừu"

Ngày 6 tháng 4, Không quân Hoa Kỳ mở Chiến dịch Freedom Train, huy động hơn 150 lần chiếc máy bay, trong đó có 18 lần chiếc B-52 phối hợp với các pháo hạm ném bom, bắn phá các kho hàng, chân hàng và trận địa tên lửa của QĐNDVN tại Quảng Bình và Vĩnh Linh. Tiểu đoàn 52 Trung đoàn tên lửa 267 thuộc Sư đoàn phòng không 363B đã bắn rơi tại chỗ 1 chiếc F-4 tại Quảng Hưng, Quảng Trạch, Quảng Bình. Đây là chiếc máy bay đầu tiên bị hạ trong các chiến dịch không kích miền Bắc Việt Nam năm 1972.

Ngày 7 tháng 4 Không lực Hoa Kỳ tổ chức nhiều trận không kích lớn vào các đơn vị phòng không của QĐNDVN tại Vĩnh Linh và Quảng Bình; đánh hỏng 6 bộ khí tài, 7 tiểu đoàn tên lửa của các Sư đoàn phòng không 367 và 377 mất sức chiến đấu. Đợt tấn công đầu tiên của Không lực Hoa Kỳ kết thúc ngày 10 tháng 4. Tuy được cấp trên công nhận bắn rơi 18 máy bay nhưng đợt tấn công này đã làm suy yếu đáng kể sự yểm hộ đất đối không của QĐNDVN cho chiến dịch Trị-Thiên. Phía Việt Nam phản ứng thận trọng. Ngày 7 tháng 4, Quân ủy Trung ương QĐNDVN ra chỉ thị: "Tăng cường sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết bảo vệ miền Bắc và làm tốt nhiệm vụ chi viện tiền tuyến trong tình hình mới". Đến ngày 9 tháng 4, Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN mới ban hành mệnh lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cho tất cả các lực lượng vũ trang trên toàn miền Bắc.

Sáng ngày 9 tháng 4, Phân hạm đội tuần dương và khu trục số 11 thuộc Hạm đội 7 (Hải quân Hoa Kỳ) bắt đầu chiến dịch rải thủy lôi ngăn chặn, cô lập bờ biển Bắc Việt Nam với 7.963 quả ở 43 khu vực bến cảng, cửa sông của 10 tỉnh ven biển từ Quảng Bình đến Quảng Ninh; tập trung nhiều nhất ở các khu vực Hải Phòng, Cửa Hội, Hòn La và cửa sông Gianh.

trái|Tổng thống Hoa Kỳ [[Richard Nixon (bên phải) và Bộ trưởng Quốc phòng Melvin R. Laird]]

Đêm 9 rạng ngày 10 tháng 4, Không quân Hoa Kỳ huy động 50 lần chiếc máy bay, trong đó có 12 chiếc B-52 ném bom khu vực Vinh - Bến Thủy. Ngày 13 tháng 4, trong khuôn khổ Chiến dịch Freedom Dawn, 64 lần chiếc máy bay cường kích và 18 chiếc B-52 không kích cầu Hàm Rồng và sân bay Thọ Xuân (căn cứ của MiG-21). Sư đoàn phòng không 365 của QĐNDVN ở khu vực này không bắn rơi được chiếc nào. 3 giờ sáng ngày 16 tháng 4, Không lực Hoa Kỳ mở Chiến dịch Freedom Porch, tổ chức một trận đánh quy mô vào Hải Phòng; sử dụng 261 phi vụ chiến thuật và 9 phi vụ B-52 dội bom xuống thành phố kết hợp với sử dụng nhiễu điện tử ồ ạt và dày đặc. Các Trung đoàn tên lửa 285 và 238 QĐNDVN bảo vệ thành phố Hải Phòng đã bắn lên 93 quả đạn tên lửa nhưng không trúng chiếc B-52 nào. Sau trận này, Tướng Momyer, Tư lệnh Không quân Chiến thuật Hoa Kỳ tuyên bố: "B-52 của không quân chiến lược Hoa Kỳ có thể đánh bất cứ địa điểm nào trên miền Bắc Việt Nam mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể của đối phương".

nhỏ|2000 px|phải|Cầu Hàm Rồng bị máy bay Mỹ sử dụng bom dẫn đường bằng laser đánh hỏng năm 1972 (ảnh chụp từ trên không)

Trong các trận đánh tháng 4 năm 1972 ở miền Bắc, Không quân Hoa Kỳ đã sử dụng phổ biến các loại máy gây nhiễu điện tử có công suất lớn: ALT-22, ALQ (các phiên bản 51, 87, 100, 101) gây nhiễu ra đa điều khiển tên lửa đất đối không; ALR-18 gây nhiều ra đa của MiG-21; ALQ-76 và QTR-13 gây nhiều ra đa pháo phòng không COH-9A. Các máy bay thế hệ mới được sử dụng có F-4D và E thay cho F-4C, F-105G thay cho F-105D và F, A-6 và A-7 thay cho A-4. Các kỹ thuật điều khiển vũ khí hiện đại có: hệ thống điều khiển bom bằng laser ZOT và KNIGHT. Loại tên lửa chống ra đa mới AGM-78 cũng được đưa vào sử dụng kết hợp với loại AGM-45 cũ.

Về chiến thuật, Không lực Hoa Kỳ không leo thang theo từng địa điểm từ nam ra bắc mà đánh theo lối "nhảy cừu": từ Quảng Bình ra Vinh, Thanh Hóa (bỏ qua Hà Tĩnh) đến Hải Phòng (bỏ qua Nam đồng bằng Bắc Bộ). Từ ngày 6 tháng 4 đến ngày 8 tháng 5, Không lực Hoa Kỳ và không quân của Hải quân Hoa Kỳ đã không kích 857 điểm trên miền Bắc, trong đó có: 345 mục tiêu giao thông, 215 mục tiêu dân sự, 85 mục tiêu quân sự. Các pháo hạm của Hạm đội 7 đã bắn 12.870 quả đạn vào các mục tiêu ven biển từ Đồ Sơn đến Vĩnh Linh. Theo phía VNDCCH, họ đã bắn rơi 89 máy bay của đối phương. Hoa Kỳ chỉ công nhận mất 15 chiếc.

Đợt 2 - "Vùng 6"

trái|Đội hình [[McDonnell Douglas F-4 Phantom II|F-4 phối hợp với A-7 không kích miền Bắc Việt Nam]]

"Vùng 6" là mật danh của Không quân Hoa Kỳ chỉ không phận Hà Nội và các vùng lân cận có bán kính 50 dặm. Ngày 10 và 11 tháng 5, Chiến dịch Linebacker chính thức mở màn bằng việc Không lực và Hải quân Hoa Kỳ tổ chức các trận đánh quy mô lớn với 414 phi vụ chiến thuật nhằm vào Hà Nội và các khu vực lân cận. Tên lửa phòng không của QĐNDVN không bắn rơi được chiếc nào do bị gây nhiễu nặng bao gồm cả nhiễu trong đội hình từ các máy phát nhiễu gắn trên các máy bay cường kích và tiêm kích gây ra cũng như nhiễu ngoài đội hình từ các máy bay EB-66 và EC-121 gây ra. Các đầu mối giao thông chiến lược như cầu Long Biên, cầu Đuống, cầu Phú Lương và nhiều khu công nghiệp ở miền Bắc bị máy bay Mỹ đánh hỏng trong thời gian ngắn. Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân QĐNDVN phải tổ chức điều chỉnh lại khí tài và tập huấn tác chiến tên lửa đối không để đối phó với các biện pháp chống tên lửa hiện đại của Không quân Hoa Kỳ và tổ chức lại thế trận phòng không trên toàn miền Bắc.

Song song với các cuộc không kích vào Hà Nội, Không lực Hoa Kỳ còn tổ chức các đợt tấn công vào các đầu mối giao thông quan trọng ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ. Trong các ngày từ 7 đến 30 tháng 5, hàng trăm lần chiếc cường kích tổ chức hơn 10 trận không kích cầu Ninh Bình nhưng không phá được cầu, chỉ đánh hỏng được các đoạn đường giao thông ở hai đầu cầu và mất 8 máy bay.

Một chiếc MiG-21PF của Không quân Nhân dân Việt Nam hạ cánh sau một chuyến bay

Từ ngày 15 tháng 5 đến cuối tháng 6, Không quân Hoa Kỳ tiếp tục tổ chức các trận đánh lẻ vào "Vùng 6" và các khu vực lân cận. Ngày 6 tháng 6, Trung đoàn tên lửa 261 bắn rơi một chiếc F-4 ở Yên Bái chấm dứt 2 tháng thúc thủ không đánh rơi máy bay đối phương của tên lửa phòng không. Ngày 27 tháng 6, Không quân Mỹ tổ chức một trận tập kích lớn vào Hà Nội với 24 máy bay cường kích và 20 máy bay tiêm kích F-4 yểm hộ. Trung đoàn 261 hạ 1 F-4 rơi ở Đại Kim (Hà Nội); Trung đoàn 257 đánh rơi 1 F-105G ở Thanh Sơn (Phú Thọ). Cùng ngày, 5 chiếc MiG-21MF của Không quân Nhân dân Việt Nam hạ 4 chiếc F-4E của các Không đoàn tiêm kích chiến thuật số 366 và 423 của Không lực Hoa Kỳ tại vùng trời Tây Bắc Việt Nam (các F-4 bị rơi có số hiệu 68-0314, 67-0248, 69-7271, 69-7296); bắn bị thương 1 F-4E (số hiệu 67-0243). Tính chung từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 5 tháng 7, Không quân Mỹ đã mất 7 máy bay trong các trận không chiến với Không quân Nhân dân Việt Nam mà không bắn rơi được chiếc nào của đối phương.

Ngày 6 tháng 10, Không quân Hoa Kỳ tổ chức cuộc oanh kích lớn vào Hà Nội với đội hình hơn 40 máy bay tiêm kích và cường kích, tập trung đánh các trận địa tên lửa phòng không của QĐNDVN ở Chèm, Dục Tú, Đại Chu, Yên Nghĩa, Bắc Hồng, Song Mai. Ngày 8 tháng 10, lực lượng không quân chiến thuật của Không lực Hoa Kỳ tiếp tục tấn công các sân bay quanh Hà Nội. Ngày 11 tháng 10, máy bay của Hải quân Mỹ tập kích Hải Dương. Trong loạt trận này, các đơn vị tên lửa của QĐNDVN đã áp dụng thành công các biện pháp vô hiệu hoá tên lửa chống ra đa AGM-78 của phía Hoa Kỳ, không những không bị tổn thất mà còn bắn rơi 4 máy bay cường kích. Đêm 17 tháng 10, một máy bay F-111A bị súng phòng không tầm thấp bắn hạ tại cầu Tiền Châu, Phúc Yên, Vĩnh Phúc. Từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1972, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố kết quả bắn rơi 221 máy bay của đối phương. Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ chỉ thừa nhận mất 93 chiếc.

Đợt 4 - "Kéo dãn đối phương"

phải|Một chiếc [[Boeing B-52 Stratofortress|B-52D (số đuôi 56-0110) cùng kiểu với chiếc trong ảnh này đã bị SA-2 bắn trúng ngày 22 tháng 11 năm 1972, rơi cách sân bay Nakhon Phanom 20 km]]

Ngày 8 tháng 10, tại Hội nghị Paris, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra Dự thảo hiệp định hòa bình. Đoàn Hoa Kỳ do Henry Kissinger dẫn đầu đã cùng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thảo luận, tu chỉnh dự thảo này trong ba ngày và đi đến thoả thuận sẽ ký tắt Hiệp định vào ngày 23 tháng 10 tại Hà Hội, ký chính thức vào ngày 26 tháng 10 tại Paris. Trước đó, Hoa Kỳ sẽ chấm dứt ném bom miền Bắc từ ngày 18 tháng 10. Ngày 20 tháng 10, phía Hoa Kỳ đề nghị lùi thời gian biểu lại năm ngày. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận. Đến ngày 23 tháng 10, Tổng thống Richard Nixon tuyên bố đơn phương ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam tính từ vĩ tuyến 20 trở ra, kết thúc gần 6 tháng của Chiến dịch Linebacker. Cùng ngày, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon cũng gửi công hàm cho Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng đề nghị có thêm một cuộc gặp riêng nữa ở Paris vì có nhiều vấn đề kỹ thuật xuất hiện. Vấn đề đó chính là bốn điều kiện mà Nguyễn Văn Thiệu đòi phải đáp ứng để ký kết hiệp định:

:1- Không có chính phủ liên hiệp; :2- Quân miền Bắc phải rút khỏi miền Nam; :3- Tôn trọng tính trung lập của khu phi quân sự; :4- Giải quyết những bất đồng chính trị còn lại giữa hai miền mà không có sự can thiệp nước ngoài.

Từ ngày 23 tháng 10, Không quân Hoa Kỳ tập trung đánh phá các tuyến giao thông ở các tỉnh từ Thanh Hóa trở vào. Các khu vực trọng điểm Tân Kỳ, Triều Dương, Đô Lương (trên tuyến đường 15) thường xuyên bị B-52 oanh kích. Từ cuối tháng 10 đến giữa tháng 11, Không quân Hoa Kỳ đã ném xuống các mục tiêu ở Khu IV hơn 1.000 tấn bom trong hơn 60 trận đánh nhưng không ngăn chặn được việc vận chuyển 21.000 tấn hàng qua khu vực này, còn bị mất thêm 11 máy bay cường kích. Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 11, các Tiểu đoàn tên lửa 43, 44 của Sư đoàn phòng không 365 bắn trúng 1 chiếc B-52D, số đuôi 55-0110, mật danh liên lạc "Olive 2" trên độ cao 25.000 ft tại vùng trời Nghệ An. Chiếc máy bay này cố gắng bay về hạ cánh xuống sân bay Nakhon Phanom nhưng khi còn cách sân bay 20 km thì bị rơi. Theo thống kê của Michel, chiếc này bị MiG-21 bắn, nhưng theo thống kê của Hobson, nó bị SA-2 bắn.

phải|Phần phía Bắc lãnh thổ Guam (Hoa Kỳ) nhìn từ trên không; phía trên, bên phải là căn cứ không quân Andersen

: Sư đoàn phòng không Hà Nội (F361) gồm 2 trung đoàn + 1 tiểu đoàn tên lửa SA-2 (tổng cộng 9 tiểu đoàn hỏa lực), 4 trung đoàn pháo cao xạ. Các đơn vị khác trực tiếp tham gia bảo vệ Hà Nội có 3 trung đoàn không quân tiêm kích (E921, E923 và E925, thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân), 4 đại đội pháo 100 mm và 226 trung đội súng máy phòng không (thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô). Các Trung đoàn 276 và 277 trang bị tên lửa SA-3 mới từ Azerbaijan và Armenia về nước nhưng khí tài không về kịp nên coi như không tham chiến. Dự trữ đạn dược bao gồm 208 đạn tên lửa và 4.400 tấn đạn pháo phòng không. : Sư đoàn phòng không Hải Phòng (F363) gồm 2 trung đoàn tên lửa SA-2 (mỗi trung đoàn chỉ có 3 tiểu đoàn hỏa lực có đủ khí tài để tác chiến); Trung đoàn cao xạ 252 (4 tiểu đoàn, có 2 đại đội pháo 100 mm), một cụm súng máy cao xạ hạng nặng gồm 36 khẩu kiểu ZPU-2, ZPU-4 và 12 khẩu DShK 12,7 mm; hơn 80 trung đội súng máy tầm thấp. Dự trữ đạn dược bao gồm 173 đạn tên lửa và 2.800 tấn đạn pháo phòng không. : Hướng vùng núi và trung du phía Bắc có Sư đoàn phòng không 375, gồm Trung đoàn 268 trang bị tên lửa Hongqi-2 của Trung Quốc nhưng không chiến đấu được do khí tài bị đánh hỏng trong trận các oanh kích tháng 8 tại Bắc Giang, 5 trung đoàn pháo cao xạ, trong đó có Trung đoàn 256 pháo 100 mm bảo vệ Thái Nguyên. : Hướng nam Hà Nội có Sư đoàn phòng không 365 ở Thanh Hóa, Nghệ An, Sư đoàn phòng không 367 ở Quảng Bình, Vĩnh Linh và Trung đoàn không quân tiêm kích 927 (thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân).

Dự đoán trước tình hình Mỹ sẽ đưa B-52 ra đánh phá Hà Nội, đến đầu tháng 12, các đơn vị của Quân chủng PK-KQ đã được bảo đảm 5 cơ số đạn các loại. Sư đoàn Phòng không 361 và 363 là nòng cốt bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng, bảo đảm hệ số kỹ thuật tên lửa đạt 100%, ra-đa 98%, khí tài khác 75 - 100%, cao xạ hơn 90%. Máy bay chiến đấu phản lực giữ được hệ số kỹ thuật 71%. Đến ngày 15/12/1972, tại Hà Nội đã dự trữ 208 quả đạn tên lửa SAM-2, bình quân mỗi tiểu đoàn hỏa lực có 26 quả (2,16 cơ số); đạn pháo phòng không có 4.400 tấn; bình quân mỗi đại đội có từ 5-7 cơ số. Tại Hải Phòng, đạn tên lửa có 173 quả, bình quân mỗi tiểu đoàn hỏa lực có 22 quả (1,8 cơ số); đạn pháo phòng không có 2.800 tấn, bình quân mỗi đại đội có từ 6-8 cơ số. Về xăng dầu, nhất là dầu TC-1 cho máy bay, hậu cần Quân chủng dự trữ đầy đủ tại các kho ở bắc sông Hồng, (bảo đảm cho các sân bay Nội Bài, Yên Bái, Kép) và nam sông Hồng, (bảo đảm cho sân bay Hòa Lạc, Thọ Xuân...). Tại mỗi sân bay, xăng dầu dự trữ đủ cho 30-40 ngày chiến đấu, riêng sân bay Nội Bài có lượng dự trữ lớn nhất.

Ngoài ra, phía Việt Nam đã tổ chức giải tỏa 4.000 tấn hàng quân sự và hơn 1.000 tấn hàng quân sự tại các kho tàng ở Đông Anh, Yên Viên. Hệ thống hầm hào, hầm tròn trú ẩn rải rác khắp các phố phường để ẩn nấp khi có báo động. Thành phố Hà Nội tổ chức sơ tán được 30 vạn người về các vùng nông thôn. Họ cũng củng cố lực lượng y tế các tuyến, tổ chức 105 tổ đội cấp cứu lưu động dân y, 30 tổ đội quân y tại Hà Nội và 53 tổ đội của dân y, 15 tổ đội của quân y tại Hải Phòng phục vụ công tác cứu hộ. Toàn bộ binh lực, hỏa lực gồm có:

: Máy bay ném bom chiến lược B-52D: 107 chiếc; tại U-Tapao (Thái Lan) có 54 chiếc thuộc Không đoàn 307 (có 4 chiếc đang sửa chữa, bảo dưỡng), tại Guam có 53 chiếc thuộc Không đoàn 43 (có 3 chiếc đang sửa chữa, bảo dưỡng); : Máy bay ném bom chiến lược B-52G: 99 chiếc thuộc Không đoàn 72, đều ở Guam (có 2 chiếc đang sửa chữa, bảo dưỡng); : Máy bay tiếp dầu KC-135 (các version A và Q): 53 chiếc thuộc Không đoàn 310 ở U-Tapao; 96 chiếc thuộc Không đoàn 376 ở Okinawa và căn cứ Clark (Philippines); : Máy bay trinh sát SR-71: 10 chiếc tại Okinawa; : Máy bay trinh sát U-2C và DC-130: mỗi loại 2 chiếc tại U-Tapao. : Máy bay ném bom F-111A: 48 chiếc tại Takhli (Thái Lan); : Máy bay tiêm kích - ném bom F-4 (các version C, D, E): 267 chiếc; tại Udorn (Thái Lan) 99 chiếc, tại Korat (Thái Lan) 30 chiếc, tại Ubon (Thái Lan) 111 chiếc, tại Nậm Phong (Thái Lan) 27 chiếc; : Máy bay cường kích - gây nhiễu điện tử F-105G: 23 chiếc tại Korat; : Máy bay cường kích A-7C: 72 chiếc tại Korat; : Máy bay tác chiến điện tử EB-66: 17 chiếc tại Korat; : Máy bay trinh sát - chỉ huy tác chiến trên không EC-121: tại Korat (không rõ số lượng); : Máy bay tìm kiếm - cứu hộ HC-130: tại Korat (không rõ số lượng); :* Trực thăng tìm kiếm - cứu hộ HH-53: tại Nakhon Phanom (Thái Lan) (không rõ số lượng).

phải|Vị trí của "Trạm Yankee", nơi đậu các tàu sân bay Hoa Kỳ ở Biển Đông

Lực lượng hải quân của Hạm đội 7 Hoa Kỳ tham gia Chiến dịch Linebacker II có: : Tàu sân bay USS America (CVA-66) có 75 máy bay : Tàu sân bay USS Enterprise (CVAN-65) có 75 máy bay : Tàu sân bay USS Midway (CVA-41) có 55 máy bay : Tàu sân bay USS Oriskany (CVA-34) có 45 máy bay : Tàu sân bay USS Saratoga (CVA-60) có 65 máy bay : Tàu sân bay USS Ranger (CVA-61) có 65 máy bay Ngoài ra còn có hơn 30 tuần dương hạm, khu trục hạm và hơn 20 tàu chở bom đạn, chở dầu, hậu cần, bệnh viện,... Không quân và hải quân vận tải của Hoa Kỳ đã vận chuyển hàng vạn tấn xăng dầu, hơn 500 nghìn tấn bom đến các căn cứ không quân Kadena (Okinawa, Nhật Bản), Andersen (Guam), U-Tapao và các căn cứ khác ở Thái Lan.

Qua kinh nghiệm chiến đấu trong Chiến dịch Sấm Rền và tổng kết các cuộc không kích của máy bay Mỹ từ tháng 4 đến cuối tháng 11 năm 1972. Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân QĐNDVN dự báo B-52 sẽ tấn công Hà Nội từ bốn hướng. Trong đó, có hai hướng chủ yếu và hai hướng thứ yếu:

Sơ đồ bố trí sân bay và các trạm radar cảnh báo sớm ở miền Bắc Việt Nam năm 1972 (tài liệu của tình báo Không quân Hoa Kỳ)

:Hướng thứ nhất (chủ yếu): lấy ngã ba sông Việt Trì làm điểm kiểm tra tập hợp đội hình và tấn công Hà Nội theo trục sông Hồng (tây bắc - đông nam); sau khi cắt bom thoát ly ra biển theo hướng đông nam hoặc sang Lào theo hướng tây nam. :Hướng thứ hai (chủ yếu): lấy núi Viên Nam (phía nam Ba Vì) là điểm kiểm tra tập hợp đội hình đột nhập không phận Hà Nội từ phía tây; thoát ly theo hướng đông nam ra biển hoặc "uốn móc câu" trở lại Lào. :Hướng thứ ba (thứ yếu): lấy ngã ba sông Lục Nam và sông Thương làm điểm kiểm tra, tập hợp đội hình và bay vào Hà Nội từ phía đông bắc qua Hà Bắc; thoát ly ra biển hoặc bay thẳng sang Lào. :Hướng thứ tư (thứ yếu): lấy cửa Ba Lạt làm điểm kiểm tra tập hợp đội hình và bay thẳng lên Hà Nội theo trục sông Hồng (đông nam - tây bắc); thoát ly phía tây, tây bắc, tây nam sang Lào.

Thực tế Chiến dịch Linebacker II sau đó cho thấy các tốp B-52 sử dụng hướng thứ nhất và thứ hai trong 2/3 số phi vụ, các hướng thứ ba và thứ tư được sử dụng ít hơn.

Các đường bay đột kích của B-52 vào Hải Phòng được dự báo có hai hướng: :Hướng thứ nhất: lấy cửa Nam Triệu làm điểm kiểm tra và đột nhập Hải Phòng từ phía chính đông :Hướng thứ hai: lấy cửa sông Văn Úc làm điểm kiểm tra tập hợp đội hình vào đánh Hải Phòng từ phía tây nam.

Trên thực tế, các tốp B-52 vào Hải Phòng từ ngày 22 tháng 12 đến ngày 26 tháng 12 đều sử dụng cả hai đường bay này.

Diễn biến trận "Điện Biên Phủ trên không" (Chiến dịch Linebacker II)

[[Tập tin:B-52 to Ha Noi.jpg|phải|Lược đồ các tuyến đường bay của B-52 vào miền Bắc Việt Nam trong chiến dịch Linebacker II Cuối cùng, Nixon và Kissinger quyết định chọn phương án ném bom. Ngày 5 tháng 12, Nixon điện cho Kissinger: "Hãy để một chỗ hở ở cửa cho cuộc họp tiếp. Tôi có thể sẵn sàng cho phép ném bom ồ ạt miền Bắc Việt Nam trong thời gian nghỉ ngơi đó" (ám chỉ kỳ nghỉ lễ Giáng Sinh).

Các phi công B-52 trong buổi hội ý nhiệm vụ Linebacker II tại căn cứ Andersen

Ngày 14 tháng 12, Tổng thống Nixon họp với cố vấn an ninh Kissinger, Tướng Alexander Haig và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu truởng Liên quân - Đô đốc Thomas H. Moorer - thông qua lần cuối cùng kế hoạch Chiến dịch Linerbacker II. Nixon nói với Đô đốc Thomas H. Moorer: "Điều may mắn của ông là được sử dụng một các cách hiệu quả sức mạnh quân sự của chúng ta để thắng cuộc chiến tranh này. Nếu ông không làm được việc đó, tôi sẽ coi ông là người chịu trách nhiệm".

20 giờ 13 phút, Tiểu đoàn tên lửa 59 (Đoàn Thành Loa) đóng tại Cổ Loa bắn trúng chiếc B-52 trong tốp 671. Chiếc này rơi tại cánh đồng Chuôm, Kim Anh, Vĩnh Phú, cách trận địa tên lửa khoảng 10 km. 3 phi công chết, 3 phi công nhảy dù và bị bắt. Phía Hoa Kỳ thừa nhận chiếc này bị bắn rơi (B-52G của căn cứ Andersen, số hiệu 58-0201, mật danh liên lạc "Charcoal 1"). 20 giờ 16 phút, một B-52 cắt bom xong đang trên đường bay ra đã bị Tiểu đoàn tên lửa 52 (Đoàn Điện Biên) tại trận địa Đất Thịt (Nghệ An) phát hiện và bắn trúng. Phía Hoa Kỳ thừa nhận chiếc này rơi ở Thái Lan, kíp bay đã kịp nhảy dù an toàn (số hiệu 58-0246, mật danh liên lạc "Peach 2").

4 giờ 39 phút ngày 19 tháng 12, Tiểu đoàn tên lửa 77 (Đoàn Cờ Đỏ) ở trận địa Chèm bắn trúng 1 B-52D, rơi ở Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Tây; 4 phi công nhảy dù và bị bắt, 2 phi công chết. Phía Hoa Kỳ thừa nhận mất chiếc này (B-52D của căn cứ U-Tapao, số hiệu 56-0608, mật danh liên lạc "Rose 1"). Phía Hoa Kỳ cũng thừa nhận 2 chiếc B-52D số hiệu 56-0678 và 56-0583 bị thương (mật danh liên lạc "Lilac 03" và "Rainbow 1"), trong đó chiếc 56-0678 bị thương nặng.

Tổng cộng trong đêm, B-52 xuất kích 129 lần chiếc, phía Việt Nam ghi nhận 90 lần chiếc. Tên lửa phòng không Việt Nam bắn lên 62 đạn, bắn rơi 3 chiếc, trong đó có 2 chiếc rơi tại chỗ, tỷ lệ diệt 9,09%.

Đêm 20 rạng ngày 21 tháng 12

Lược đồ trận đánh đêm 20 rạng ngày 21-12-1972 tại không phận Hà Nội

Không quân Hoa Kỳ huy động 99 phi vụ B-52 và hơn 100 lần chiếc máy bay cường kích đánh Hà Nội và Hải Phòng. Phía Việt Nam chỉ ghi nhận được 87 lần chiếc B-52. Đêm này, các phi công Hoa Kỳ được giao nhiệm vụ đánh vào ga Yên Viên, các kho hàng tại Uy Nỗ, Bắc Giang, nhà máy điện Thái Nguyên, cùng nhiều mục tiêu khác tại Hà Nội. Lúc 20 giờ 07 phút, Tiểu đoàn tên lửa 93 (Đoàn Thành Loa) từ trận địa Phú Thụy bắn rơi 1 B-52D thuộc tốp 383 ở Yên Viên, 4 phi công nhảy dù. Phía Hoa Kỳ thừa nhận mất chiếc này (số hiệu 57-6496, mật danh "Quilt 03", cất cánh từ Andersen). Đến 20 giờ 30 phút, Tiểu đoàn 94 (Đoàn Thành Loa) ở trận địa Tam Sơn (Hà Bắc) đánh trúng 1 B-52G thuộc tốp 621 nhưng không rơi tại chỗ. Phía Hoa Kỳ thừa nhận chiếc này rơi ở Thái Lan (số hiệu 57-6481, mật danh "Brass 02", cất cánh từ Andersen). Hồi 20 giờ 34 phút, Tiểu đoàn tên lửa 77 (Đoàn Cờ Đỏ) ở trận địa Chèm đánh trúng chiếc B-52G thuộc tốp 618 rơi tại Ba Vì (Hà Tây). Phía Hoa Kỳ thừa nhận mất chiếc này (số hiệu 56-0622, mật danh "Orange 03", cất cánh từ U-Tapao).

Đến nửa đêm 20 tháng 12, 9 tiểu đoàn tên lửa quanh Hà Nội chỉ còn 12 quả đạn, có tiểu đoàn "trắng bệ". Đến 3 giờ sáng 21 tháng 12, các đơn vị này mới nhận được 20 quả đạn mới lắp ráp.

Báo động chiến đấu tại một khẩu đội tên lửa phòng không SA-2 bảo vệ Hà Nội trong Chiến dịch Linebacker II

4 giờ 50 phút sáng 21 tháng 12, Bộ Tư lệnh Sư đoàn không quân 57 của Không lực Hoa Kỳ tiếp tục huy động 36 phi vụ B-52 và 24 phi vụ máy bay cường kích đánh phá các mục tiêu Nhà máy xe lửa Gia Lâm, khu kho Bắc Giang, khu kho Uy Nỗ, Cảng Hà Nội, Ga Hà Nội và sân bay Nội Bài. Hồi 5 giờ 09 phút sáng 21 tháng 12, Tiểu đoàn tên lửa 57 (Đoàn Thành Loa) tại trận địa Đại Đồng đã bắn trúng chiếc B-52D trong tốp 518 nhưng không rơi tại chỗ. Phía Hoa Kỳ thừa nhận chiếc này rơi tại Lào (số đuôi 56-0669, mật danh "Straw 02"). Đêm 22 tháng 12, Không lực Hoa Kỳ bắt đầu đợt hành động thứ hai của nhiệm vụ Linebacker II: không kích Hải Phòng với 30 phi vụ B-52D cất cánh từ U-Tapao. Các đợt không kích bắt đầu từ 4 giờ 50 phút đến 5 giờ 14 phút (giờ Hà Nội) vào các mục tiêu Cảng và hệ thống đường sắt Hải Phòng. Các Tiểu đoàn tên lửa 82 (Đoàn Hạ Long) và 73 (Đoàn Nam Triệu) báo cáo bắn trúng 2 chiếc B-52, rơi ở toạ độ 760 và 770 trên Vịnh Bắc Bộ.

Các ngày đêm 23 và 24 tháng 12

Các chuyên gia quân sự Liên Xô và các sĩ quan phòng không Việt Nam xem xét xác một chiếc B-52 bị bắn rơi tại Hà Nội

Ngày 23 tháng 12, không quân chiến thuật Hoa Kỳ sử dụng 36 chiếc F-4 và 24 chiếc A-7 ném bom sân bay Hòa Lạc và các mục tiêu trong nội thành Hà Nội. Đêm 23 tháng 12, Không lực Hoa Kỳ điều động 30 chiếc B-52D từ U-Tapao vòng ra biển, bay sát ranh giới vùng đệm với Trung Quốc, đột nhập từ hướng đông qua không phận Quảng Ninh vào không kích các trận địa SAM ở Bắc Giang và cụm kho Đồng Mỏ. Do vòng tránh được vùng hỏa lực dày đặc của tên lửa quanh Hà Nội và Hải Phòng nên không có chiếc B-52 nào bị SAM công kích. Tuy nhiên trong ngày này, lần đầu tiên trong chiến dịch, Không quân Nhân dân Việt Nam bắn hạ được máy bay địch. Biên đội 2 chiếc MiG-21 do Nguyễn Văn Nghĩa và Lê Văn Kiền điều khiển công kích một nhóm 24 máy bay F-4 (chia làm 6 tốp) tại vùng trời phía bắc của tỉnh Thanh Hóa. Phi công Nguyễn Văn Nghĩa bắn rơi 1 chiếc F-4, cả hai chiếc MiG-21 rút lui an toàn. Phía Hoa Kỳ thừa nhận mất một chiếc EB-66 do tai nạn và một chiếc F-4J bị cao xạ bắn rơi.

Kết thúc đợt 1 và đợt 2 của Chiến dịch Linebacker II, phía Việt Nam công bố có 18 máy bay B-52 bị họ bắn hạ, trong đó có 10 chiếc rơi tại chỗ. Phía Hoa Kỳ chỉ ghi nhận có 11 chiếc bị rơi, trong đó có 6 chiếc rơi tại chỗ, 5 chiếc rơi ngoài lãnh thổ Việt Nam, 6 chiếc bị thương, trong đó có 1 chiếc bị thương nặng (chiếc "Lilac 03", số hiệu 56-0678).

Sau lễ Noel

Ngày và đêm 26 tháng 12

phải|Khu phố Khâm Thiên, Hà Nội sau trận ném bom của B-52 đêm 26 tháng 12 năm 1972

Theo hồi ký của Thiếu tướng James R. McCarthy, năm 1972 là đại tá, chỉ huy Không đoàn B-52 số 43 thuộc Sư đoàn không quân 57 - Tập đoàn không quân 8 của Hoa Kỳ, ngày 26 tháng 12, đợt hành động thứ ba (Act Three) của Chiến dịch Linebacker II được triển khai. Theo cựu phi công Mỹ Dana Drenkowski, từ đêm 26 tháng 12, Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược của Hoa Kỳ (SAC) bắt đầu tập trung lực lượng cho việc tiêu diệt đối thủ chính của B-52: các trận địa tên lửa SAM.

Về phía Việt Nam, qua một ngày nghỉ ngơi đã lắp ráp và vận chuyển được một số lượng đạn tên lửa khá lớn từ Khu IV ra với số lượng hàng trăm quả. Hai Tiểu đoàn tên lửa 71 và 72 (Đoàn Nam Triệu) từ Hải Phòng được điều lên bảo vệ Hà Nội đã bố trí xong trận địa Bắc Ninh, các Tiểu đoàn 87 và 88 (Đoàn Hùng Vương) đã nhận được đủ khí tài và triển khai các trận địa ở phía nam Hà Nội. Số đơn vị tên lửa bảo vệ Hà Nội tăng lên đến 13 tiểu đoàn (nhưng vẫn chỉ bằng một nửa so với năm 1967). Lúc 13 giờ 35 phút, Tiểu đoàn tên lửa 72 (Đoàn Nam Triệu) mới cơ động lên bảo vệ Hà Nội đã bắn rơi một chiếc F-4J của Hải quân Mỹ trên vùng trời Bắc Giang nhưng bị Bộ Tư lệnh Quân chủng khiển trách vì không chấp hành mệnh lệnh: "Tên lửa chỉ dành để đánh B-52, không đánh cường kích".

Tại Hải Phòng, lúc 22 giờ 24 phút, các Đại đội 172 và 174 cao xạ 100 mm thuộc Trung đoàn 252 đánh rơi một B-52 thuộc tốp 402 tại toạ độ 760 trên Vịnh Bắc Bộ. Đến 22 giờ 36 phút, Tiểu đoàn tên lửa 81 (Đoàn Hạ Long) tại An Hồng đánh trúng một B-52 thuộc tốp 404, rơi tại toạ độ 770 (Vịnh Bắc Bộ). Hồi 22 giờ 48 phút, Đoàn 256 cao xạ 100 mm của Quân khu Việt Bắc tại Thái Nguyên cũng đánh trúng B-52 trong tốp 415 nhưng không rơi tại chỗ. Ngoài ra, theo thống kê của bộ phận bảo trì hãng Boeing còn có ba chiếc B-52D bị thương (chiếc 55-0062, mật danh "Cream 01" và chiếc 55-0090, mật danh "Cream 02" đều xuất phát từ Andersen và chiếc 56-0629, mật danh "Black 03" xuất phát từ U-Tapao).

Ngày và đêm 29 tháng 12

trái|Số liệu thống kê bắn rơi máy bay B-52 do phía Việt Nam công bố tại Bảo tàng Quân chủng Phòng không - Không quân (Hà Nội)

Lúc 9 giờ 12 phút sáng 29 tháng 12, 32 chiếc A-7 và 8 chiếc F-4 đánh phá xưởng lắp ráp tên lửa ở Trại Cá. Từ 23 giờ 20 phút đến 23 giờ 40 phút, 60 chiếc B-52 với sự yểm hộ của 102 máy bay cường kích, tiêm kích ném bom hủy diệt ga Đồng Mỏ, cơ sở lắp ráp đạn tên lửa SAM ở Phúc Yên và xưởng lắp ráp tên lửa ở Trại Cá. Trước đó, từ 22 giờ 40 phút đến 23 giờ 22 phút, 5 lần chiếc F-111 không kích các sân bay Kép, Yên Bái, Hòa Lạc và các trận địa tên lửa SAM. Tuy nhiên, đây chưa phải là những trận đánh cuối cùng tại mặt trận phòng không miền Bắc Việt Nam năm 1972.

Những trận đánh B-52 cuối cùng

Trận địa của một tiểu đoàn tên lửa [[S-75 Dvina|SA-2 chụp từ máy bay trinh sát của Không lực Hoa Kỳ]]

Từ ngày 30 tháng 12, các phi đoàn B-52 tại Andersen, U-Tapao và các liên đội máy bay cường kích của Không lực Hoa Kỳ tại Thái Lan được lệnh chuyển mục tiêu oanh kích vào phần lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở phía nam vĩ tuyến 20. Phát hiện ý đồ của đối phương tập trung lực lượng đánh phá hủy diệt Khu IV, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân QĐNDVN điều động số đạn tên lửa còn lại ở Hà Nội và Hải Phòng vào Sư đoàn phòng không 365, đồng thời tăng cường cho các đơn vị này một số trắc thủ giỏi vừa đánh rơi nhiều B-52 trong trận "Điện Biên Phủ trên không" trước đó. Từ ngày 4 tháng 1 đến ngày 14 tháng 1 năm 1973, Sư đoàn phòng không 365 đã đánh hơn 30 trận, hạ thêm một số máy bay B-52. Cũng trong đêm 14 tháng 1 năm 1973, một chiếc B-52D số hiệu 55-0058 bị thương do SAM bắn phải hạ cánh xuống U-Tapao. Theo lời mô tả lại của kíp bay, chiếc này bị trúng 2 trong số 6 tên lửa SAM được bắn lên khi tiếp cận mục tiêu, sau đó bị trúng tiếp 1 SAM trên đường trở về gây ra 120 lỗ thủng trên khắp máy bay.

Mật độ sử dụng không quân của Hoa Kỳ trong năm 1972 tại miền Bắc Việt Nam vượt xa Chiến tranh Triều Tiên, chỉ kém Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Chỉ trong 9 tháng, máy bay Mỹ đã rải xuống miền Bắc Việt Nam 210.000 tấn bom (trung bình 23.333 tấn/tháng hoặc 778 tấn/ngày). Trong Chiến dịch Linebacker II, nếu tính số lượng bom trong một ngày thì có thể bằng các cuộc ném bom xuống nước Đức cuối Chiến tranh thế giới lần thứ hai; nhưng xét khu vực hạn chế đường kính 100 dặm quanh Hà Nội thì thấy chưa bao giờ có nhiều bom được ném xuống một khu vực trong thời gian hạn chế như vậy. Theo thống kê của phía Việt Nam, các cuộc ném bom này đã giết chết hơn 8.000 người, làm bị thương gần 15.000 người khác. Riêng trong 12 ngày cuối tháng 12 năm 1972 đã có 2.380 người chết, 1.355 người bị thương, trong đó đáng chú ý nhất là trận không kích vào phố Khâm Thiên, Hà Nội trong đêm 26 tháng 12 năm 1972, giết chết 278 dân thường và làm 290 người khác bị thương. Về cơ sở vật chất: 100% số nhà máy điện bị đánh phá, 1.500/1.600 công trình thủy lợi và gần 100 km đê xung yếu bị hư hại; Hầu hết cầu cống quan trọng và toàn bộ 6 tuyến đường sắt đều bị đánh hỏng; 3/6 thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên) và 23/30 thị xã, 96/116 thị trấn, 3.987/5.788 xã, 350 bệnh viên, gần 1.500 bệnh xá, 1.300 trường học bị tàn phá nặng nề; trong đó có 12 thị xã, hơn 300 xã, 10 bệnh viện, 11 ga xe lửa đầu mối bị hủy diệt hoàn toàn.

Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố bắn rơi hoặc phá hủy trên sân bay tổng cộng 735 máy bay của Hoa Kỳ, trong đó có 61 chiếc B-52 và 10 chiếc F-111, 125 lần bắn cháy tàu chiến Mỹ. Phía Hoa Kỳ thừa nhận họ đã mất 19 chiếc B-52, 4 chiếc F-111 và 142 máy bay chiến thuật khác do bị bắn rơi hoặc rơi do tai nạn; trong đó có 16 chiếc B-52 và 12 máy bay chiến thuật (có 2 chiếc F-111), cùng với 66 phi công B-52 và 18 phi công khác trong Chiến dịch Linebacker II.).

Phản ứng của dân chúng Hoa Kỳ và thế giới

phải|Một nhóm cựu chiến binh Hoa Kỳ biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam trước nhà tưởng niệm [[Abraham Lincoln]]

Cần phải nói một cách công bằng rằng các biện pháp ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam ban đầu có gây ra một số phản ứng nhưng sau đó lại được dư luận Hoa Kỳ dễ dàng "cho qua" vì dù sao, ném bom cũng dễ chấp nhận hơn là đưa lục quân Mỹ trở lại trực tiếp tham chiến.

Tuy nhiên đến khi Richard Nixon đã yên vị ở Nhà Trắng nhiệm kỳ thứ hai của mình với số phiếu 60,7%, hơn hẳn Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ George McGoverne (37,5%) và việc ký kết Hiệp định Paris theo dự kiến vào cuối tháng 10 năm 1972 thất bại thì chính giới và dân chúng Mỹ đã hết kiên nhẫn. Những hậu quả nặng nề của cuộc không kích miền Bắc Việt Nam do Không lực Hoa Kỳ tiến hành đã gây những phản ứng mạnh mẽ của các nước và kể cả từ trong nước Mỹ đối với các chính sách của Tổng thống Richard Nixon. Các tờ báo lớn của Mỹ đăng một loạt bài nói rằng: Hàng triệu người Mỹ cúi đầu vì xấu hổ và nghi ngờ sức khỏe thần kinh của Tổng thống của họ. Chính giới Mỹ thì coi đây là kiểu chiến tranh nổi khùng nhân danh hòa bình, tổng thống dường như lên cơn điên mới tiến hành một cuộc ném bom khủng bố vô nhân đạo làm hoen ố uy danh của nước Mỹ như vậy. Nhà báo Jerry Gordon, điều phối viên của Liên minh toàn nước Mỹ vì hòa bình tuyên bố: "Một lần nữa, người ta lại lừa dối nhân dân Mỹ. Thay vì một nền hòa bình trong tầm tay là một cuộc chiến tranh tăng cường. Thay vì chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam là sự leo thang". Dư luận Hoa Kỳ cho rằng nếu cứ đưa B-52 đi đánh một loạt trận thông thường ở Bắc Việt Nam mà mỗi trận lại bị thiệt hại như mức độ vừa qua (ám chỉ Chiến dịch Linebacker II) thì chẳng cần phải là một thiên tài toán học cũng thấy được rằng: rốt cuộc, Mỹ sẽ mất hết B-52. Đa số nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ, trong đó có cả các đảng viên Đảng Cộng hòa cũng lên tiếng đòi chấm dứt ném bom. Những người đã từng ủng hộ chính sách ném bom hồi tháng 5 thì nay lại đặt câu hỏi về sự cần thiết và mức độ tàn bạo của các trận ném bom tháng 12. Các nghị sĩ phái "hòa bình" trong Quốc hội Mỹ cho rằng tổng thống đã đem đến cho họ một Giáng Sinh buồn và đe dọa sau khi nghỉ, họ sẵn sàng đấu tranh với tổng thống. Theo viện Gallup, tỷ lệ dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ Nixon nhanh chóng sụt giảm xuống còn 39%.

Dư luận thế giới cũng phản đối mạnh mẽ cuộc ném bom Việt Nam trong dịp lễ Giáng Sinh. Cả Liên Xô và Trung Quốc đều không thể giữ được thái độ kiềm chế như hồi tháng 5. Không một đồng minh NATO nào lên tiếng ủng hộ Hoa Kỳ. Các chính phủ Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan, Hà Lan, Bỉ,... đều phản đối việc ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam. L.I. Breznev ví chính sách của Hoa Kỳ như chính sách của "Đức Quốc xã". Ông Olof Palme - Thủ tướng Thụy Điển - đích thân dẫn đầu một đoàn biểu tình ở thủ đô Stockholm lên án Mỹ và đòi chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam không điều kiện (xem ảnh trên).

Sau khi Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh chấm dứt ném bom đánh phá phía bắc vĩ tuyến 20, ngày 6 tháng 1 năm 1973, các đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ gặp lại nhau tại Hội nghị Paris. Từ hành động ngưng đàm phán để ném bom đến hành động ngưng ném bom để đàm phán của phía Hoa Kỳ chỉ diễn ra trong vòng 20 ngày.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
thumb|upright|Biểu ngữ kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng đất nước **Hòa giải và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam** là một khái niệm để chỉ sự hòa giải
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam** () là một đội hình quân sự tổng hợp của Lực lượng Vũ trang Liên Xô được đưa đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
Các chuyên gia quân sự Liên Xô huấn luyện tên lửa và các học viên Việt Nam tại một căn cứ ở miền Bắc Việt Nam. Tháng 5 năm 1965. **Binh chủng Tên lửa phòng
nhỏ| Pháo đài bay **B-52** của Không lực [[Hoa Kỳ]] Máy bay **B-52** là loại máy bay ném bom chiến lược hạng nặng, tầm xa, rất nổi tiếng của Không quân Hoa Kỳ, do hãng
**Binh chủng Đặc công** là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc** (_Quan hệ Việt-Trung_, ) là mối quan hệ giữa hai nước láng giềng vì có chung biên giới trên bộ và trên biển, hai nước có chung thể
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Người Hoa** () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là **người Minh**,
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn I** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
Đây là **biên niên sử Việt Nam thời kỳ 1945–1975**, thời kì gắn liền với Chiến tranh Việt Nam. ## Thập niên 1940 ### 1945 *Năm 1945: Nạn đói gây ra cái chết của 2
**Sư đoàn 3** (hay **Sư đoàn Bộ binh 3**, **Sư đoàn Sao Vàng**) là một sư đoàn bộ binh chính quy của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước đó, đây cũng là sư đoàn
Tại Việt Nam, **bất đồng chính kiến** từng xuất hiện trong nhiều giai đoạn lịch sử dưới nhiều loại hình khác nhau. ## Thời Pháp thuộc Trong thời Pháp thuộc, Nhiều người bất đồng chính
Những cư dân bản địa của khu vực Tây Nguyên Việt Nam là người Thượng (Đêga). Người Việt (Kinh) đã chinh phục Tây Nguyên trong quá trình Nam tiến. Hiện nay, dân số người Việt
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (_Viết tắt_: **QLVNCH**; , _viết tắt_ **RVNAF**) là lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, thành lập vào năm 1955 và giải thể vào năm 1975 cùng
**Lực lượng biệt kích Hoa Kỳ và đồng minh trong Chiến tranh Việt Nam** nói về những đơn vị quân sự đặc biệt trong Chiến tranh Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành trực
**Hải quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Republic of Vietnam Navy_, **RVN**) là lực lượng Hải quân trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hoạt động trên cả vùng sông nước và lãnh
**Không lực Việt Nam Cộng hòa** (, **RVNAF**) là lực lượng không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tiền thân là những phi cơ ném bom nhỏ và cũ do quân đội Liên
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
Các hướng tiến công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở đầu Chiến dịch Nguyễn Huệ **Mặt trận Đông Nam Bộ năm 1972** là một trong các chiến trường quan trọng trong Chiến
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam** (tiếng Anh: _Alliance of National Democratic and Peaceful Forces of Vietnam_, **ANDPFVN**) là một tổ chức được thành lập sau sự
thumb|230x230px|Bão Yagi (bão số 3 năm 2024), cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Việt Nam trong 70 năm qua, gây sức gió tại Bãi Cháy là 45m/s (cấp 14) giật 62m/s (trên cấp 17)
**Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam** là một chính phủ tồn tại ở miền nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chính phủ này tồn tại
nhỏ|326x326px|Trụ sở của [[Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Truyền hình ở Việt Nam** bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 1960 tại Sài Gòn (thuộc Việt Nam Cộng hòa trước đây),
Danh sách này không tính đến các vụ máy bay chiến đấu theo các chủng loại tiêm kích, cường kích, ném bom, vận tải của lực lượng không quân của các bên tham chiến bị
**Âm nhạc Việt Nam** là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc
**Sư đoàn 5 Bộ binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn III và Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là một đơn vị
Chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc chiến tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại vào thời điểm nó diễn ra. Những quốc gia có sự can thiệp sâu rộng như Hoa
**Niên biểu lịch sử Việt Nam** là hệ thống các sự kiện lịch sử Việt Nam nổi bật theo thời gian từ các thời tiền sử, huyền sử, cổ đại, trung đại, cận đại cho
**Quan hệ Đài Loan – Việt Nam** là một mối quan hệ ngoại giao phi chính thức giữa chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính quyền Trung Hoa Dân quốc.
**Lịch sử quân sự của Việt Nam Cộng hòa** là lịch sử của các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng hòa, bắt đầu từ khi chế độ chính trị này thành lập vào năm
**Trận đấu giữa hai đội tuyển bóng đá quốc gia Philippines và Việt Nam**, còn được biết đến với cái tên **Điều kỳ diệu ở Hà Nội**, **Đêm Hà Nội diệu kỳ** hay **Phép màu
Chiến trường Quảng Trị năm 1972 **Mặt trận Trị Thiên Huế năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. Kết thúc năm 1972, với các diễn biến
**Mặt trận chính Bắc Tây Nguyên và mặt trận phối hợp Bắc Bình Định năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. ## Mặt trận chính Bắc
**Chiến dịch Tây Nguyên** hay **Chiến dịch Bắc Tây Nguyên** là một chiến dịch tiến công của các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa